Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Gửi em ở cuối sông Hồng
Chu Văn An EmptyFri Feb 17, 2023 8:01 am by Vân Nhi

» Tôi đi học
Chu Văn An EmptySat Sep 07, 2019 4:23 pm by Vân Nhi

» Trần Hưng Đạo
Chu Văn An EmptyWed Jun 06, 2018 4:53 pm by Vân Nhi

» Huyền Chi
Chu Văn An EmptyMon Jun 04, 2018 4:35 pm by Vân Nhi

» Guitar đường phố: đỉnh của đỉnh
Chu Văn An EmptyTue May 29, 2018 7:45 am by Vân Nhi

» Quan Âm Thị Kính
Chu Văn An EmptyFri May 25, 2018 2:02 pm by Vân Nhi

» Thanh Tịnh
Chu Văn An EmptyMon May 21, 2018 3:25 pm by Vân Nhi

» Thuyền viễn xứ
Chu Văn An EmptyThu May 03, 2018 2:19 pm by Vân Nhi

» Xuân Tâm
Chu Văn An EmptyThu Jul 06, 2017 1:49 pm by Vân Nhi

March 2024
MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
25262728293031
CalendarCalendar
Most Viewed Topics
Lý Bạch
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Khuyến
Bùi Giáng
Đoạn Trường Tân Thanh
Vũ Hoàng Chương
Chế Lan Viên
Đại Nam Quốc Sử diễn ca
Trần Tế Xương
Quách Tấn
Keywords
dũng Đường Luật đoạn trường xuân Pháp Lược Trọng quách Liên thảm nguyễn nhân Khuyến thầy những phan Thiên Trần Xương khuất châu trinh miền dương

 

 Chu Văn An

Go down 
Tác giảThông điệp
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyTue Oct 23, 2012 4:47 pm

Chu Văn An
(1292 - 1370)

Chu Văn An Chuvanan

Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc ;
Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong.


(Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả.
Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân).


Đó là đôi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với Chu Văn An - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần.

Chu Văn An (朱文安) tên hiệu là Tiều Ẩn (樵隱), tên chữ là Linh Triệt (靈澤), người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370).

Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.

Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau:

"Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này."

Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.
Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.


( Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).


(Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An).

Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.

Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó.

Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y.

Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".


Nguồn: http://vietsciences.free.fr

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 9:20 am

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 9:31 am

Cung họa ngự chế động chương

Bản chữ Hán

恭和御制洞章

庭舞胎禽雲掩關,
露華嚥罷覺清寬。
碧桃華下渾無事,
時倩東風掃石壇。
Phiên âm Hán Việt

Cung hoạ ngự chế động chương

Đình vũ thai cầm vân yểm quan,
Lộ hoa yến bãi giác thanh khoan.
Bích đào hoa hạ hồn vô sự,
Thời thiến đông phong tảo thạch đàn.
Dịch nghĩa

Kính họa thơ vua

Hạc múa ở sân, mây che ngoài cửa,
Nuốt hoa sương rồi cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng.
Dưới hoa bích đào lòng thanh thản,
Thỉnh thoảng mượn ngọn gió đông quét trên đàn đá.


Các bản dịch thơ

Kính họa thơ vua

Hạc múa ngoài sân, mây cửa lồng,
Sương hoa uống cạn, thảnh thơi lòng.
Dưới hoa đào dạo, hồn thanh thản,
Quét thạch đàn, ta mượn gió đông.


Bản dịch: Trần Lê Sáng

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 9:36 am

Đề Dương công Thủy Hoa đình

Bản chữ Hán

題揚公水華亭

上人遠公裔,
朗悟有高識。
屢結白社盟,
為愛青蓮色。
方塘貯碧漪,
環以芙蕖植。
上構水華亭,
意與蓮比德。
好風時一來,
滿座聞芳馥。
隱幾觀眾妙,
悠然心自得。
不知清淨身,
已在荷華側。
明月相友朋,
閒雲同偃息。
渴傾珠露飲,
飢摘玉房食。
回頭謝世紛,
逍遙遊八極。
Phiên âm Hán Việt

Đề Dương công Thủy Hoa đình

Thượng nhân Viễn công duệ,
Lãng ngộ hữu cao thức.
Lũ kết bạch xã minh,
Vị ái thanh liên sắc.
Phương đường trữ bích y,
Hoàn dĩ phù cừ thực.
Thượng cấu thuỷ hoa đình,
Ý dữ liên tỷ đức.
Hảo phong thời nhất lai,
Mãn toạ văn phương phức.
Ẩn kỷ quan chúng diệu,
Du nhiên tâm tự đắc.
Bất tri thanh tĩnh thân,
Dĩ tại hà hoa trắc.
Minh nguyệt tương hữu bằng,
Nhàn vân đồng yển tức.
Khát khuynh châu lộ ẩm,
Cơ trích ngọc phòng thực.
Hồi đầu tạ thế phân,
Tiêu dao du bát cực.
Dịch nghĩa

Đề đình Thủy Hoa của Dương Công

Thượng nhân là giòng dõi ccủa Viễn công,
Hiểu biết một cách sáng suốt, có kiến thức cao.
Luôn kết lời minh ước ở Bạch Xã,
Vì yêu sắc sen xanh.
Ao vuông chứa đựng nước trong biếc,
Xung quanh trồng toàn sen.
Trên ao dựng ngôi đình Thuỷ Hoa,
Ý chừng muốn sánh đức với sen.
Gió mát thường xuyên thổi tới,
Làm thơm ngát khắp ngôi đình.
Tựa bên ghế để quan sát mọi điều huyền diệu,
Lâng lâng cảm thấy thoải mái trong lòng.
Chẳng biết tấm thân thanh tịnh,
Đã ở bên cạnh đoá hoa sen.
Trăng sáng cùng làm bạn với mình,
Mây nhàn cùng ta nghỉ ngơi.
Khát thì nghiêng rót những hạt sương châu để uống,
Đói thì lấy những chùm quả bằng ngọc mà ăn.
Ngoảnh lại quên hết mọi rắc rối ở đời,
Để nhởn nhơ vui chơi tám cõi.


Các bản dịch thơ

Đề đình Thủy Hoa của Dương Công

Thượng nhân dòng Viễn công,
Sáng suốt cao tri thức.
Bạch xã luôn kết minh,
Sen xanh đáng yêu sắc.
Nước biếc chứa ao vuông,
Sen vây bốn phía đặc.
Trên xây đình Thuỷ Hoa,
Ý cùng sen sánh đức.
Thoang thoảng gió xa đưa,
Ghế ngồi thơm sực nức.
Thần diệu dạo chơi xem,
Nhởn nhơ lòng tự đắc.
Thân thanh tịnh chẳng hay,
Cùng sen chỉ gang tấc,
Trăng trong ấy bạn bầu,
Mây nhàn cùng thức giấc.
Khát nghiêng bầu móc trong,
Đói ăn chùm quả ngọc.
Ngoái trông gác chuyện đời,
Nhởn nhơ chơi tám cực.


Bản dịch: Đào Phương Bình

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 9:45 am

Giang đình tác

Bản chữ Hán

江亭作

江亭獨立數歸舟,
風急灘前一笛秋。
斜日吟殘紅淡淡,
暮天望斷碧悠悠。
功名已落荒唐夢,
湖海聊為汗漫遊。
自去自來渾不管,
滄波萬頃羨飛鷗。
Phiên âm Hán Việt

Giang đình tác

Giang đình độc lập sổ quy châu,
Phong cấp than tiền nhất địch thu.
Tà nhật ngâm tàn hồng đạm đạm,
Mộ thiên vọng đoạn bích du du.
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
Hồ hải lưu vi hãn mạn du.
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.
Dịch nghĩa

Làm thơ ở Giang Đình

Đứng một mình ở Giang Đình đếm thuyền về,
Trước ghềnh, gió gấp, một tiếng sáo gợi cảm thu.
Thơ đã tàn, mặt trời xế bóng, ánh hồng nhàn nhạt,
Trông suốt trời chiều, màu biếc mênh mông.
Công danh đã rơi vào giấc mộng hoang đường,
Tạm dạo chơi lang thang miền hồ hải.
Đi lại tự mình, chẳng gì trói buộc,
Thèm cảnh chim âu bay liệng trên muôn khoảng sóng xanh.


Các bản dịch thơ

Làm thơ ở Giang Đình

Giang Đình mải đứng đếm thuyền câu,
Gió gấp bên ghềnh gợi cảnh thu.
Nắng xế hồng phai thi hứng cạn,
Trời chiều xanh biếc, cảnh vui đâu.
Công danh trót lọt vào hư ảo,
Hồ hải rong chơi, bớt nỗi sầu.
Đi, lại tự mình nào sá quản,
Sóng xanh vạn khoảnh, cánh chim âu...


Bản dịch: Đào Thái Tôn

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 9:49 am

Linh sơn tạp hứng

Bản chữ Hán

靈山雜興

萬疊青山簇畫屏,
斜陽淡抹半溪明。
翠蘿徑裏無人到,
山鵲啼煙時一聲。
Phiên âm Hán Việt

Linh sơn tạp hứng

Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình,
Tà dương đạm mạt bán khê minh.
Thuý la kính lý vô nhân đáo,
Sơn thước đề yên thời nhất thanh.
Dịch nghĩa

Tạp hứng ở Linh sơn

Muốn lớp núi xanh tụ lại như bức bình phong vẽ,
Bóng chiều nhạt dọi tới sáng nửa lòng khe.
Trong lối cỏ biếc, không người đến,
Thỉnh thoảng một tiếng chim thước kêu trong khói mù.


Các bản dịch thơ

Tạp hứng ở Linh sơn

Núi xanh muôn lớp họa bình che,
Ác xế soi lên rạng nửa khe.
Bụi rậm đường sâu người vắng vẻ,
Trong mây chim thước gọi le te.


Bản dịch: Hoàng Việt thi văn tuyển

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 9:52 am

Miết trì

Bản chữ Hán

鱉池

水月橋邊弄夕暉,
荷花荷葉靜相依。
魚遊古沼龍何在,
雲滿空山鶴不歸。
老桂隨風香石路,
嫩苔著水沒松扉。
才心殊未如灰土,
聞說先皇淚暗揮。
Phiên âm Hán Việt

Miết trì

Thủy nguyệt kiều biên lộng tịch huy,
Hà hoa hà diệp tịnh tương y.
Ngư du cổ chiểu long hà tại ?
Vân mãn không sơn hạc bất quy.
Lão quế tuỳ phong hương thạch lộ,
Nộn đài trước thuỷ một tùng phi.
Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy.
Dịch nghĩa

Ao Miết Trì [1]

Trăng nước bên cầu đùa giỡn bóng chiều hôm,
Hoa sen, lá sen, yên lặng tựa nhau.
Cá bơi ao cổ, rồng ở chốn nào?
Mây đầy núi vắng, hạc chẳng thấy về!
Mùi quế già bay theo gió làm thơm ngát con đường đá,
Rêu non đẫm nước che lấp cánh cửa thông.
Tấc lòng này vẫn chưa nguội lạnh như tro đất,
Nghe nói đến Tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ.


Các bản dịch thơ

Ao Miết Trì

Thủy nguyệt bên cầu ngắm bóng tà,
Hoa sen chen lá, lá chen hoa.
Cá bơi ao cũ rồng đi vắng,
Mây phủ non không hạc ở xa.
Quế lão gió đưa đường gió ngát,
Rêu non nước đẫm cửa thông hòa.
Tấc son nào đã như tro nguội,
Nghe nói Tiên hoàng giọt lệ sa.


Bản dịch: Phan Võ
(Hợp tuyển thơ văn Việt Nam: TẬP II, Tr. 147)

1. Miết Trì: nghĩa đen là ao ba ba. Ao này xưa ở trong núi Côn Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng. Trong Công Dư Tiệp Ký, Vũ phương Đề cho biết: "Núi Phượng Hoàng (trong dãy Côn Sơn), xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, thâm u tịch mịch. Núi Voi đối lập, giòng Miết chảy ngang... Đời Trần, Tiều Ẩn tiên sinh dâng Thất Trảm Sớ, bỏ quan về nhà. Tiên sinh ưa sơn thuỷ Chí Linh, đến làm nhà ở nơi núi này. Việt Âm Thi Tập chép những bài thơ Miết Trì, Thanh Lương đều là vịnh những thắng cảnh vùng ấy". Nhưng nay ao Miết Trì đã mất.
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 9:59 am

Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính

Bản chữ Hán

月夕步仙遊山松徑

緩緩步松堤,
孤村淡靄迷。
潮回江笛迥,
天闊樹雲低。
宿鳥翻清露,
寒魚躍碧溪。
吹笙何處去,
寂寞故山西。
Phiên âm Hán Việt

Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính

Hoãn hoãn bộ tùng đê,
Cô thôn đạm ái mê.
Triều hồi, giang địch quýnh,
Thiên khoát, thụ vân đê.
Túc điểu phiên thanh lộ,
Hàn ngư dược bích khê.
Xuy sinh hà xứ khứ,
Tịch mịch cố sơn tê (tây)?
Dịch nghĩa

Ðêm trăng dạo bước trên đường thông ở núi Tiên Du

Thong thả dạo bước trên con đê trồng thông,
Xóm vắng mờ trong làn khói nhạt.
Nước triều xuống, tiếng sáo bên sông xa vẳng,
Trời rộng, mây là là ngọn cây.
Chim đêm cựa mình trong làn sương trong,
Cá lạnh nhảy trong khe biếc.
Người thổi sênh đi nơi đâu,
Phía tây núi cũ vắng vẻ?


Các bản dịch thơ

Ðêm trăng dạo bước trên đường thông ở núi Tiên Du

Đủng đỉnh dạo bờ thông,
Làng quê bát ngát trông.
Nước lui còi bên thoảng,
Trời rộng khói cây lồng.
Chim đậu tan sương lạnh,
Cá bơi vẫy nước trong.
Tiếng sênh đâu vắng tá,
Hiu quạnh một non không?



Bản dịch: Hoàng Việt thi văn tuyển

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 10:12 am

Sơ hạ

Bản chữ Hán

初夏

山宇寥寥晝夢回,
微涼一線起庭梅。
燕尋故壘相將去,
蟬咽新聲陸續來。
點水溪蓮無俗態,
出籬竹筍不凡材。
棲梧靜極還成懶,
案上殘書風自開。
Phiên âm Hán Việt

Sơ hạ

Sơn vũ liêu liêu trú mộng hồi,
Vi lương nhất tuyến khởi đình mai.
Yến tầm cố luỹ tương tương khứ,
Thiền yết tân thanh lục tục lai.
Điểm thuỷ khê liên vô tục thái,
Xuất ly trúc duẩn bất phàm tài.
Thê ngô tĩnh cực hoàn thành lãn,
Án thượng tàn thư phong tự khai.
Dịch nghĩa

Đầu mùa hạ

Nhà trên núi vắng vẻ, vừa tỉnh giấc mộng ban ngày,
Một làn gió mát nhẹ thổi vào cây hòe trước sân.
Chim én rủ nhau đi tìm tổ cũ,
Ve sầu cất tiếng đầu mùa, lục tục bay về.
Sen dưới khe điểm trên mặt nước không bợn chút phàm tục,
Măng đồng nội trồi ra khỏi dậu, chẳng phải khí chất tầm thường.
Phượng hoàng đậu cành ngô, lặng lẽ quá đến thành lười nhác,
Cuốn sách nát để trên án, gió tự giở ra.


Các bản dịch thơ

Đầu mùa hạ

Trại vắng non phơi tỉnh giấc ngày,
Trước sân hòe mát gió lung lay.
Ve vui nắng mới kêu bầy lại,
Én nhớ nhà xưa rủ bạn bay.
Dưới suối phô thanh sen điểm sắc,
Đầu rào vượt tục trúc khoe hay.
Cành ngô phượng đậu lâu nên biếng,
Sách nát trên yên tùy gió vầy.


Bản dịch: Trần Lê Sáng

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 10:15 am

Thanh Lương giang

Bản chữ Hán

清涼江

山腰一抹夕陽橫,
兩兩漁舟畔岸行。
獨立清涼江上望,
寒風颯颯嫩潮生。
Phiên âm Hán Việt

Thanh Lương giang

Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành,
Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
Độc lập Thanh Lương giang thượng vọng,
Hàn phong táp táp nộn triều sinh.
Dịch nghĩa

Sông Thanh Lương

Một vệt bóng chiều vắt ngang sườn núi,
Dọc theo bờ sông, thuyền câu đi từng đôi một.
Đứng một mình trên sông Thanh Lương ngắm cảnh,
Gió lạnh vi vút, nước triều dâng lên.


Các bản dịch thơ

Sông Thanh Lương

Sườn non một vệt nắng vắt ngang,
Xuôi mái thuyền câu thẳng thẳng hàng.
Thanh Lương sông vắng người thơ thẩn,
Sóng nổi hun hun trận gió hàn.


Bản dịch: Trần Lê Sáng

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 10:23 am

Thôn Nam sơn tiểu khế

Bản chữ Hán

村南山小憩

閑身南北片雲輕,
半枕清風世外情。
佛界清幽塵界遠,
庭前噴血一鶯鳴。
Phiên âm Hán Việt

Thôn Nam sơn tiểu khế

Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
Dịch nghĩa

Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam

Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp nam bắc,
Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời.
Cõi phật thanh u, cõi trần xa vời,
Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.


Các bản dịch thơ

Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam

Thân nhàn tựa áng mây trôi,
Gió trăng nửa gối, việc đời nhẹ thênh.
Cõi trần xa, cõi phật thanh,
Sân hoa máu đỏ chim oanh líu lường.


Bản dịch: Đào Thái Tôn

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 10:31 am

Thứ vận tặng Thủy Vân đạo nhân

Bản chữ Hán

次韻贈水雲道人

平生膽氣鶚橫秋,
翰墨場中一戰收。
茅屋玉堂皆有命,
濁涇清渭不同流。
老逢昭代知何補,
身落窮山笑拙謀。
檢點年年貧活計,
茶甌詩卷伴湯休。
Phiên âm Hán Việt

Thứ vận tặng Thủy Vân đạo nhân

Bình sinh đảm khí ngạc[1] hoành thu,
Hàn mặc trường trung nhất chiến thu.
Mao ốc ngọc đường[2] giai hữu mệnh,
Trọc Kinh[3] thanh Vị[4] bất đồng lưu.
Lão phùng chiêu đại tri hà bổ,
Thân lạc cùng sơn tiếu chuyết mưu.
Kiểm điểm niên niên bần hoạt kế,
Trà âu, thi quyển bạn Thang Hưu[5].
Dịch nghĩa

Họa vần tặng Thủy Vân đạo nhân

Chí khí dũng cảm thuở bình sinh như chim ngạc bay ngang trời thu,
Trong trường bút mực, chỉ một trận là được.
Nhà tranh hay nhà ngọc, đều có số mệnh,
Sông Kinh đục, sông Vị trong, vốn không chảy cùng dòng
Già gặp thời sáng sủa, biết chẳng ích gì,
Thân rơi vào núi thẳm, cười mình mưu vụng.
Hàng năm kiểm điểm lại cái sinh kế nghèo,
Vẫn âu trà, cuốn thơ, làm bạn với Thang Hưu.


Các bản dịch thơ

Họa vần tặng Thủy Vân đạo nhân

Bình sinh chí khí ngạc ngang trời
Trong cuộc văn chương chiếm nhất ngôi
Nhà ngọc lều tranh đều có số
Đục Kinh trong Vị chẳng cùng xuôi
Gặp thời già lão đành vô bổ
Thất thế ẩn cư biết chước tồi
Kiểm lại hàng năm sinh kế quẫn
Ngâm nga trà lá bạn Thang Hưu


Bản dịch: Trần Lê Sáng

* Thủy Vân Ðạo nhân: có lẽ là Trần Anh Tông. Anh Tông có sách "Thủy Vân tùy bút".
1. Chim ngạc: một loài chim bắt cá ở biển, còn gọi là thủy ưng hay thư cưu.
2. Nhà ngọc: vua Tống Thái Tông tặng cho viện Hàn lâm thời đó hai chữ "Ngọc đường". ở đây chỉ cảnh hiển đạt của cuộc đời làm quan.
3 & 4. Sông Kinh, sông Vị: sông Kinh phát nguyên từ Kê Ðầu Sơn thuộc vùng Nguyên Châu; sông Vị phát nguyên từ Ô Thử Sơn thuộc vùng Vị Châu. Hai sông này gặp nhau ở Cao Lăng, mới rõ nước sông Kinh đục, nước sông Vị trong. Hình tượng này dùng trong thơ thường được hiểu theo nghĩa bóng.
5. Chưa rõ là ai. (Theo "Từ nguyên", có thầy tu tên là Thích Huệ Hưu giỏi văn chương, một lần vua Tống Thế Tổ gặp bảo hoàn tục và cho làm tòng sự ở Dương Châu. Phải chăng Thang Hưu tác giả nói là Thích Huệ Hưu?).

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 11:11 am

Vọng Thái Lăng

Bản chữ Hán

望泰陵

松秋深鎖日將夕,
煙草如苔迷亂石。
黯淡千山風更愁,
消沉萬古雲無跡。
溪花欲落雨絲絲,
野鳥不歸山寂寂。
幾度躊躇行復行,
平蕪無盡春生碧。
Phiên âm Hán Việt

Vọng Thái Lăng

Tùng thu thâm toả nhật tương tịch,
Yên thảo như đài mê loạn thạch.
Ảm đảm thiên sơn phong cánh sầu,
Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích.
Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
Dã điểu bất đề sơn tịch tịch.
Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
Bình vu vô tận xuân sinh bích.
Dịch nghĩa

Trông về Thái Lăng

Cây tùng cây thu khóa kín trời sắp về chiều,
Cỏ non xanh rợn, như rêu che lấp những hòn đá ngả nghiêng.
Ngàn non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn,
Muôn thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết.
Hoa bên suối sắp rụng, mưa lất phất,
Chim ngoài đồng nội im tiếng, núi quạnh hiu.
Mấy lần dùng dằng, đi rồi lại đi,
Cỏ rậm bát ngát, sắc xuân xanh biếc.


Các bản dịch thơ

Trông về Thái Lăng

Bóng Tùng thu khóa vầng dương lả
Cỏ như rêu che đá ngả nghiêng;
Ngàn non gió thổi muộn phiền,
Mây sầu vạn cổ lạc miền phù không.
Mưa lất phất, suối lồng hoa rụng,
Núi buồn hiu vắng tịnh tiếng chim.
Trù trừ chân bước lại ghìm,
Đồng hoang biên biếc êm đềm sắc xuân.


Bản diệt: Ngao_0p

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An EmptyWed Oct 24, 2012 2:46 pm

Xuân đán

Bản chữ Hán

春旦

寂寞山家鎮日閒,
竹扉斜擁護輕寒。
碧迷草色天如醉,
紅濕花梢露未乾。
身與孤雲長戀岫,
心同古井不生瀾。
柏薰半冷茶煙歇,
溪鳥一聲春夢殘。
Phiên âm Hán Việt

Xuân đán

Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
Hồng thấp hoa tiêu lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
Dịch nghĩa

Sáng mùa xuân

Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi,
Cánh cửa phênh che nghiêng ngăn cái rét nhẹ.
Màu biếc ác cả sắc mây, trời như say,
Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô.
Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi,
Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng.
Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt,
Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân.


Các bản dịch thơ

Sáng mùa xuân

Trên non nhà vắng, buổi thanh nhàn,
Chênh chếch phên che rét nhẹ nhàng.
Biếc ngát chùm mây trời chuyếnh choáng,
Hồng dầm hoa lúc móc chưa tan.
Thân cùng mây chiếc khôn dời núi,
Lòng với hồ xưa chẳng gợn làn.
Hương bách tiêu tan, trà hết khói,
Chim kêu bên suối, mộng xuân tàn.


Bản dịch: Đào Phương Bình

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Chu Văn An Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chu Văn An   Chu Văn An Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Chu Văn An
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Thơ Tuyển Việt Nam :: Thời Lý - Trần - Hồ (1009-1427)-
Chuyển đến