Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Trần Hưng Đạo Wed Jun 06, 2018 2:52 pm
Trần Hưng Đạo ( ? - 20 tháng 8 năm 1300)
Đức Thánh Trần (hình trên internet)
Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn (陳國峻 )(- ? - 20 tháng 8 năm 1300), còn được gọi là Hưng Đạo đại vương (興道大王) hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương (仁武興道大王) là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần.
Trần Hưng Đạo là con trai thứ ba của Khâm Minh đại vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột. Cho đến nay vẫn không rõ mẹ ông là ai, có một số giả thiết đó là Thiện Đạo quốc mẫu (善道國母), huý là Nguyệt, một người trong tôn thất họ Trần. Do chính thất khi trước của Trần Liễu là công chúa Thuận Thiên trở thành hoàng hậu của Trần Thái Tông, nên Thiện Đạo quốc mẫu trở thành kế phu nhân. Sau khi Trần Liễu mất (1251), theo "Trần triều thế phả hành trạng" thì bà Trần Thị Nguyệt đã xuất gia làm ni sư, hiệu là Diệu Hương.
Năm sinh của ông cho đến nay vẫn không rõ ràng, có tài liệu cho rằng là năm 1228, nhưng cũng có tài liệu cho là năm 1230, hay 1231, chung quy đều thiếu luận cứ chắc chắn và độ tin cậy. Nhưng điều đó cũng cho thấy khi ông sinh ra thì triều đại nhà Trần cũng vừa mới thành lập được không lâu (thành lập năm 1225).
Ông có người mẹ nuôi đồng thời là cô ruột, Thụy Bà công chúa (瑞婆公主). Ông quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định ngày nay.
Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ.
Cuộc chiến chống quân Nguyên-Mông lần thứ nhất, Trần Hưng Đạo là người chỉ huy quân tuyến biên giới. Ông nổi bật với việc chỉ huy toàn quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông năm lần thứ 2 (năm 1285) và lần thứ 3 (năm 1288).
Người đời sau có câu đối:
Địa chuyển ngã chủng Việt cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lý. (地 轉 我 種 越 居 北 方, 歐 洲 境 內 無 蒙 騎 樅 橫 千 萬 里)
Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung Quốc sử tiền miễn Nguyên Triều đô hộ nhất bách niên. (天 生 此 良 材 於 宋 室, 中 國 史 前 免 元 朝 都 護 一 百 年)
Nghĩa là:
Ví như đổi được đất, dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu đã không bị kỵ binh Mông Cổ giày xéo cả vạn dặm.
Nếu như trời sinh thiên tài này ở nhà Tống, thì lịch sử Trung Quốc trước đây đâu có chuyện bị triều đại nhà Nguyên độ hộ một trăm năm.
Câu đối này toát lên tầm vĩ đại của vị tướng tài đã lãnh đạo người Việt đánh bại đội quân Nguyên- Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Ông đã làm được điều mà cả châu Âu và Trung Quốc không ai làm được.
Tháng Sáu (âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm nặng. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?". Ông trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".
Chữa mãi không khỏi bệnh, ông mất vì tuổi già vào ngày 20 tháng Tám (âm lịch) năm ấy.
Khi sắp mất, Trần Hưng Đạo vương dặn các con rằng: "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục".
Nghe tin Trần Hưng Đạo vương mất, triều đình Đại Việt phong tặng ông là "Thái sư Thượng Phụ Thượng Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương". Ông được nhân dân cả nước tôn vinh là "Đức Thánh Trần" và lập đền thờ ở nhiều nơi, song nổi tiếng hơn cả là Đền Kiếp Bạc ở xã Hưng Đạo (Chí Linh, Hải Dương). Đây là nơi ông lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.
Tác phẩm:
Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Bài văn hịch hiểu dụ các tỳ tướng, quen gọi là Hịch tướng sĩ). Binh gia diệu lý yếu lược (Tóm lược chỗ cốt yếu trong nguyên lý kỳ diệu của nhà binh, còn gọi là Binh thư yếu lược) Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp) nhưng văn bản đã thất lạc, chỉ còn lại bài Tựa của tướng Trần Khánh Dư đề ở đầu sách, được Đại Việt sử ký toàn thư (quyển VI) ghi lại.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Trần Hưng Đạo Wed Jun 06, 2018 3:36 pm
Dụ chư tỳ tướng hịch văn
Dư thường văn chi: Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế; Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương. Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù; Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn. Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi; Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế. Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi? Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái, Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch, Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai! Nhữ đẳng thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa, Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán. Cổ tiên chi sự cô trí vật luận. Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi: Vương Công Kiên hà nhân dã? Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã? Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành, Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong, Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ! Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã? Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã? Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ, Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh, Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh! Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu; Trưởng ư gian nan chi tế. Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ. Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình; Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ. Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu; Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố. Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai? Dư thường lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm, Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo. Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã. Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã; Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách, Diệc nguyện vi chi. Nhữ đẳng cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền. Vô y giả tắc ý chi dĩ y; Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực. Quan ti giả tắc thiên kỳ tước; Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng. Thủy hành cấp chu; Lục hành cấp mã. Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi; Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc. Kỳ thị Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ. Nhữ đẳng tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu; Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý. Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm; Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc. Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu. Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia; Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ. Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ; Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập. Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh. Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai, Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp; Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu. Ðiền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu; Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng. Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ; Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng. Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân; Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ. Ðương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc, Thậm khả thống tai! Bất duy dư chi thái ấp bị tước, Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu; Bất duy dư chi gia tiểu bị khu, Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ; Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm, Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật; Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn, Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ! Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc, đắc hồ? Kim dư minh cáo nhữ đẳng, Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy; Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới. Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ. Sử Nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ. Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết hạ; Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai. Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên, Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ; Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục, Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão; Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự, Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực; Bất duy dư chi kim sinh đắc chí, Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ; Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy, Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ. Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc, đắc hồ! Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược. Nhữ đẳng hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã; Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã. Hà tắc? Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù, Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm, Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch; Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu, Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da? Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch vân.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Trần Hưng Đạo Wed Jun 06, 2018 3:40 pm
Hịch Tướng Sĩ
Ta thường nghe: Kỷ Tín lấy thân chết thay, cứu thoát được vua Cao-đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở được vua Chiêu-vương; Dự Nhượng nuốt than để trả thù cho thầy; Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho nước; Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ, còn biết che đỡ Đường-chủ, ra khỏi vòng vây của Thế Sung; Nhan Cảo-Khanh là bầy tôi xa, còn biết mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời dụ của nghịch-tặc. Từ xưa, những bậc trung-thần nghĩa-sĩ, lấy thân theo nước, đời nào là không có đâu? Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói dút-dát của con gái trẻ con, chẳng qua cũng đến chết dũ ở dưới cửa sổ, đâu được ghi tên vào trong thẻ tre lụa trắng, danh tiếng cùng trời đất cùng lâu bền?
Các người đời đời là con nhà võ, không biết chữ nghĩa, nghe những chuyện ấy, thảy đều nửa tin nửa ngờ. Thôi thì những việc cổ xưa, hãy để đó không nói đến nữa. Nay ta hãy đem chuyện nước Tống, giống Thát(là chuyện gần đây) kể cho các người cùng nghe: Vương công Kiên là người gì? Nguyễn văn Lập tỳ-tướng của y lại là người gì, chỉ có vòng thành Điếu-ngư nhỏ bằng cái đấu hai người ấy chống nổi toán quân trăm vạn của Mông-kha, khiến cho con dân nước Tống, đến nay hãy còn nhớ ơn. Đường ngột Ngại là người gì? Xích tu Tư tỳ-tướng của y lại là người gì? xông pha lam-chướng trên đuờng muôn dặm, hai người ấy đánh được quân Nam-chiếu trong vài tuần, khiến cho vua chúa giòng Thát nay còn để tiếng!
Huống chi ta với các ngươi, sinh ở buổi rối ren, lớn lên nhằm khi khó nhọc, chính mắt ngó thấy sứ ngụy đi lại, đường xá nghẽn-ngang, chúng múa cái lưỡi cú quạ làm nhục chốn triều-đình, chúng giơ cái thân chó dê, kiêu ngạo với quan tể-phụ; chúng nhờ mệnh lệnh của chúa Mông-Cổ, mà đòi nào ngọc nào lụa, sự vòi vĩnh thật vô cùng; chúng mượn danh hiệu của vua Vân-nam mà hạch nào bạc nào vàng; của kho đụn đã hồ hết Cung-đốn cho chúng giống như đem thịt mà liệng cho cọp đói, sao cho khỏi lo về sau?
Ta thường thì tới bữa quên ăn, giữa đêm vỗ gối, nước mắt tràn xuống đầy mép, tấm lòng đau như bị đâm, vẫn lấy cái sự chưa thể ăn thịt nằm da, nuốt gan uống máu của chúng làm tức. Dẫu cho một trăm cái thân của ta phải đem đốt ở đồng cỏ, một nghìn cái thân của ta phải đem bọc vào da ngựa, ta cũng vui lòng. Các ngươi lâu nay ở dưới cửa ta cầm giữ binh-quyền, thiếu áo thì mặc áo cho, thiếu ăn thì sẻ cơm đỡ, quan nhỏ thì cho lên chức, bổng ít cho thêm lương, đi thủy cấp thuyền, đi bộ cấp ngựa, những khi trận mạc, sự sống thác thầy chung với trò, những lúc mừng khao, tiếng vui cười ai cũng như nấy. So với Công Kiên làm chức thiên-lý, Ngột Ngại ở ngôi phó nhị, có khác gì đâu.
Thế mà các ngươi thấy chủ bị nhục chẳng lấy làm lo, gặp nước bị dơ chẳng lấy làm thẹn, làm tướng nhà nước phải hầu mấy đứa chum mường, mà không có lòng căm hờn, nghe khúc nhạc thờ đem thết một tên ngụy sứ, mà không có vẻ tức giận; kẻ thì chọi gà cho thích, kẻ thì đánh bạc mua vui, có người chỉ chăm vườn ruộng, cốt nuôi được nhà; có người chỉ mến vợ con, lấy mình làm trọng; cũng có kẻ chỉ lo làm giàu làm có, việc quân quốc chẳng thèm đoái hoài, cũng có người chỉ ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc là đam mùi rượu ngọt, hoặc là mê tiếng hát hay.
Một khi giặc Mông đến nơi, thì cựa con gà nòi không thể đâm thủng áo-giáp của giặc; thuật ở bàn bạc không thể đem làm mưu mẹo ở trong quân; vườn ruộng tuy giàu, tấm thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vợ con tuy sẳn, trong đám ba quân khó dùng, của cải tuy nhiều, không thể mua được đầu giặc; chó săn tuy khỏe, không thể đuổi được quân thù, rượu ngon không đủ để cho giặc phải mê; hát hay không đủ làm cho giặc phải điếc; lúc đó thầy trò ta sẽ cùng bị trói, đáng đau đớn biết chừng nào! Nếu thế, chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng bị kẻ khác chiếm mất; chẳng những là gia- quyến của ta phải đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc của tổ tông ta sẽ bị dày xéo, mà đến mồ mả của cha mẹ ngươi cũng sẽ bị kẻ khác đào lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, và trăm kiếp khác tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu vẫn còn, mà gia thanh của các ngươi cũng chẵng khỏi mang tiếng là nhà bại tướng. Đã đến khi đó các ngươi muốn chơi bời cho thỏa, được chăng?
Nay ta bảo rõ các ngươi: cái chuyện dấm lửa đống củi phải lo, mà câu sợ canh thổi rau nên nhớ. Các ngươi hãy nên huấn luyện quân-sĩ, rèn-tập cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, bêu đầu Tất-Liệt dưới cửa khuyết, ướp thịt Thoát-Hoan trong trại rơm. Như thế chẳng những là thái-ấp của ta mãi mãi là của gia truyền, mà bổng-lộc các ngươi cũng được suốt đời hưởng thụ; chẳng những gia- quyến của ta được yên giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng được sum họp đến già; chẳng những là tông-miếu ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các người dưới trăm đời nữa tiếng thơm vẫn lưu truyền; chẳng những tên tuổi ta không bị mai một, mà đến tên họ các người cũng để tiêng thơm trong sử xanh. Khi ấy các ngươi không muốn vui chơi, được chăng?
Nay ta lựa chọn binh pháp các nhà, làm một quyển sách, đặt tên là sách "Binh-thư yếu-lược". Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách ấy, nghe lời dạy-bảo của ta, ấy là duyên thầy trò kiếp xưa; Nếu các ngươi bỏ bê sách ấy, trái lời dạy-bảo của ta, ấy là mối cựu thù kiếp xưa, Sao vậy? Bởi vì như vậy tức là kẻ thù không đội chung trời, thế mà các ngươi không nghĩ tới, điềm nhiên không lo đến sự rửa thẹn, không tinh; đến việc trừ hung, không nhớ đến chuyện dạy-tập quân-sĩ. Thế là giở giáo hàng giặc, nắm tay chống giặc. Rồi đây, sau khi dẹp yên quân giặc, các ngươi sẽ phải thẹn muôn đời, còn mặt-mũi nào đứng giữa khoảng trời đất che chở? Ta muốn các ngươi biết rõ bụng ta, nhân viết mấy lời đó làm hịch.
Bản dịch: Ngô Tất Tố (Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần" NXB Đại Nam, Sài Gòn, 1960.)
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Trần Hưng Đạo Wed Jun 06, 2018 3:46 pm
Hịch Tướng Sĩ
Kìa Kỷ tín, Do-vu thủa trước, Liều một mình thoát được nạn vua. Nuốt than Dự-nhượng báo thù, Chặt tay, Thân-khoái đền bội quốc-ân. Đường Kính-đức đem thân cứu chúa, Nhan Tường-khanh mắng quở nghịch thần. Từ xưa nghĩa sĩ trung thần, Đã lòng vị nước biết thân là gì! Nếu cứ giữ nữ-nhi thường thái, Chỉ khu khu biết cái thân mình, Ở đời một cõi phù sinh, Còn đâu là tiếng hiển vinh đến rầy? Thôi chẳng kể việc ngày tiền cổ, Hãy xem ngay kia việc rõ Tống, Nguyên. Kìa như Nguyễn-lập Vương-kiên, Điếu-ngư thành ấy quân quyền được bao? Đương trăm vạn ào ào quân giặc, Giữ cho dân nay được hàm ân. Ngột-lương một chức võ thần, Tu-tư, tỳ tướng xuất thân đó mà! Đường muôn dặm xông pha chướng dịch, Trong vài tuần quét sạch Vân-Nam, Lập công tuyệt vực đã cam, Khiến cho vua chúa tiếng thơm để đời, Nay gặp buổi trong thời nhiễu loạn, Ta cùng ngươi đương đoạn gian truân Nghĩ sao sánh với cổ-nhân, Cũng nên hết bụng trung quân mới là! Kìa thử ngắm sự nhà Mông-cổ, Sứ vãng lai nhặng bộ xôn xao, Cú diều uống lưỡi thấp cao, Bẻ bai triều bệ xiết bao nhục nhằn, Tuồng dê chó cậy rằng đắc thế, Chốn triều-đường ngạo nghễ vương công. Cậy tay Tất-liệt anh-hùng, Bạc vàng biết mấy cho cùng dạ tham? Lại ỷ thế Trấn-nam hống hách, Định sang ta vét sạch của ta, Thịt đâu hoài thịt ném ra, Ném cho hổ đói chắc đà khỏi lo? Nghĩ đến sự rầy vò xấu hổ, Ngày quên ăn đêm ngủ không an. Vỗ mình thổn thức canh tàn, Chạnh đau khúc dạ, chảy ràn giọt châu Ăn gan ấy mời hầu thỏa dạ, Uống huyết kia mới hả giận này. Ví dù gan nát óc lầy, Cho rằng da ngựa bọc thây cũng đành, Hỡi chư tướng cầm binh dưới trướng, Cơm áo vua an hưởng bao lâu. Chúa lo không biết âu sầu, Hầu quân Mông-cổ không mầu hổ ngươi. Hết cờ bạc, vui chơi gà chọi, Thôi rượu chè, lại ngõi hát hay. Vợ con quấn quít đêm ngày, Ruộng vườn chăm chút riêng tây của nhà. Việc quân quốc ví mà biếng nhác, Cuộc chơi săn đã chắc vui không? Giặc Nguyên phỏng lại đùng đùng, Lấy gì chống giữ hay cùng cam tâm? Cựa gà sắc không đâm giáp giặc, Mẹo bạc gian khó đạc mưu quân! Vợ con thêm bợn vướng chân, Ruộng vườn không chuộc cái thân nghìn vàng! Đầu giặc há có vàng mua được, Sức chó săn đuổi được giặc sao? Rượu ngon giặc chẳng lao đao, Hát hay giặc chẳng hơi nào điếc tai; Nếu đến lúc vua tôi mắc nạn, Nhà các ngươi gia sản cũng tan. Các ngươi nên phải lo toan, Húp môi canh nói, nằm giàn lửa thiêu. Quân sĩ phải hết chiều dạy dỗ, Rèn tập nghề cung, nỏ, qua, mâu. Quyết tình giết giặc treo đầu, Đem công phá lỗ về tâu Triều-đình. Được như thế ta vinh đã vậy, Các ngươi cùng nổi dậy tiếng hay, Vậy nên có quyển thư này Truyền cho các tướng đêm ngày chuyên coi. Nếu biết nghĩ mà noi nhời bảo, Ấy thầy trò hòa hảo một nhà, Ví dù trái bỏ nhời ta, Dẫu trong tôi tớ cũng ra cừu thù. Bởi Mông-cổ là thù của nước, Không chung giời ở được cùng nhau. Các ngươi sao chẳng xót đau. Bấm gan chịu nhục cúi đầu làm thinh. Lại không dạy quân binh cho biết, Lâm giặc vào chịu chết bó tay. Mai sau bình định có ngày, Muôn đời để tiếng mặt giầy thế gian.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Trần Hưng Đạo Wed Jun 06, 2018 3:52 pm
Hịch Tướng Sĩ
Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín 紀 信 liều thân chịu chết thay cho vua Cao-đế; Do Vu 由 于 lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-Vương; Dư Nhượng 豫 讓 nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái 申 蒯 chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức 敬 德 là một chức quan còn nhỏ, mà liều thân cứu vua Thái-tông được thoát vòng vây; Kiểu Khanh 杲 卿 là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng Lộc Sơn 祿 山 là quân nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả-sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường tình, chết già ở xó nhà thì sao cho lưu danh sử-sách đến nghìn muôn đời như thế được?
Nay các ngươi vốn dòng vũ-tướng, không hiểu văn-nghĩa, nghe những chuyện cổ-tích ấy, nửa tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nữa; ta hãy đem chuyện đời Tống, Nguyên mới rồi mà nói: Vương công Kiên 王 公 堅 là người thế nào? Tỳ-tướng của Vương công Kiên là Nguyễn văn Lập 阮 文 立 lại là người thế nào, mà giữ một thành Điếu-ngư nhỏ mọn, chống với quân Mông-kha kể hàng trăm vạn, khiến cho dân sự nhà Tống, đến nay còn đội ơn sâu. Đường ngột Ngại là người như thế nào? Tỳ-tướng của Đường ngột Ngại là Xích tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam-chướng xa xôi, đánh được quân Nam-chiếu trong vài ba tuần, khiến cho quân-trướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt. Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu-nhương, gặp phải buổi gian-nan này, trông thấy những ngụy-sứ đi lại rầm-rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ-mắng triều-đình, đem thân dê chó mà bắt-nạt tổ-phụ, lại cậy thế Hốt tất Liệt 忽 必 烈 mà đòi ngọc-lụa, ỷ thế Vân-nam-vương để vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng, khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi tai-vạ về sau!
Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm-tức rằng chưa được xả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư-xử so với Vương công Kiên, Đường ngột Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì.
Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui-đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân-mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà mua cho được đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết, tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai; khi bấy giờ chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia-quyến của ta bị đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi; mà gia-thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có được hay không?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên cẩn-thận như nơi củi lửa, nên giữ-gìn như kẻ húp canh, dạy-bảo quân-sĩ, luyện-tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công-danh. Chẳng những là thái-ấp ta được vững bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng-lộc; chẳng những là gia-quyến của ta được yên-ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên-nhân ta được vẻ-vang, mà các ngươi cũng được phụng-thờ tổ-phụ, trăm năm vinh-hiển; chẳng những là một mình ta được sung-sướng, mà các ngươi cũng được lưu-truyền sử sách, nghìn đời thơm-tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui-vẻ, cũng tự khắc được vui-vẻ.
Nay ta soạn hết các binh-pháp của các nhà danh-gia hợp lại làm một quyển gọi là « Binh-thư yếu-lược ». Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách này, theo lời dạy-bảo, thì mới phải đạo thần-tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy-bảo, thì tức là kẻ nghịch-thù.
Bởi cớ sao? Bởi giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi cứ điềm-nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân-sĩ, khác nào như quay ngọn giáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thua quân giặc, khiến cho sau trận Bình-lỗ mà ta phải chịu tiếng xấu muôn đời, thì còn mặt-mũi nào đứng trong trời đất nữa. Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho các ngươi biết bụng ta.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Trần Hưng Đạo Wed Jun 06, 2018 3:57 pm
Hịch Tướng Sĩ
Kỷ Tín xưa liều chết thay vua Hoàng bào Hán đế xông pha Chết thay Cao tổ sơn hà lưu danh Do Vu lấy thân mình đỡ giáo 5. Tránh Chiêu Vương một thuở bạo binh Nuốt than Dự Nhượng đổi hình Trả thù quốc chủ thân mình sá chi Thân Khoái chặt tay đi nào sá Theo Tề Vương một dạ trung thành 10. Uất Trì Cung chữ không rành Trung quân ái quốc lưu danh muôn đời Theo Thế Dân tạo thời lập nghiệp Trong nguy nan liều chết hộ quân Thế Sung vây bắt bao lần 15. Cứu quân bảo quốc ngàn năm mãi còn Nhan Cảo Khanh tận cùng biên viễn Mắng Lộc Sơn lưu tiếng muôn đời Thà rắng đầu đứt lìa đời Không theo nghịch tặc một loài quân gian 20. Sử lưu dấu trăm ngàn lương đống Lòng trung thành còn lộng sử xanh Xưa nay hào kiệt hùng anh Phò vua dựng nước rành rành tiếng thơm Thói nhút nhát trẻ con phụ nữ 25. Thì tàn đời chết rũ xó nhà Lấy đâu tiết tháo vinh hoa Công danh lưu dấu để cho muôn đời Dẫn tích xưa các ngươi chiến tướng Chuyện xa xôi biết lượng đúng sai 30. Người xưa ai biết ai hay Mơ hồ chữ nghĩa ai rày làm tin Ta dẫn chuyện Tống Nguyên Mông Thát Chuyện mới đây sử sách rành rành Các ngươi thấu lý đạt tình 35. Cạn lời thấu nhẽ biết mình biết ta Thành Điếu Ngư bôn ba trăm vạn Vương Công Kiên quyết chận Nguyên Mông Nguyễn văn Lập tướng hộ công Đồng lòng giữ nước nản lòng quân Nguyên 40. Dân đất Tống bình yên một thuở Lòng quyết tâm danh sử còn ghi Ngột Lương là tướng lãnh gì Xông pha lam chướng quyết ghi công đầu Xích Tu Tư tướng theo phò trợ 45. Nửa tuần trăng rạng rỡ hùng binh Nam Chiếu thành lũy tan tành Tướng Nguyên để tiếng lưu danh rạng ngời Ta, các người sinh thời khốn khó Nước rối ren ai nỡ ai đành 50. Sứ Nguyên ngang ngược bạo hành Làm nhục cha chú triều đình mãi sao Thân chó dê nói điều quốc sỉ Phận cáo chồn miệng lưỡi ngông nghênh Mượn Hốt Tất Liệt ép trên 55. Lấy Vân Nam Vương để chèn để thâu Của đất nước mồ hôi khốn khó Đút bao nhiêu cho thỏa túi tham Ngọc luạ vàng bạc trăm ngàn Của kho trống hoác lòng gian chưa đầy 60. Đem thịt tươi dâng ngay hổ đói Đem bạc vàng dâng loại cuồng tham Là thân tự diệt lấy thân Nạn tai khốn khó muôn phần biết sao Giận quân giặc nỗi đau cắt ruột 65. Ngày quên ăn nhói buốt căm hờn Đêm nằm đập gối thét luôn Nước mắt gận buốt chảy tuôn đầm đìa Trái tim thể ai chia ai cắt Nung căm hờn uống mật nhai gan 70. Quyết diệt lũ giặc tham tàn Lột da xẻ thịt trăm lần chưa nguôi Vào trong lửa tàn đời cũng quyết Ngàn đao thương sống chết cũng đành Hờn căm nung nấu hờn căm 75. Chí trai da ngựa bọc thân sá gì Cùng với ta nghĩ suy đại sự Chung một lòng gìn giữ quốc gia Đói lòng cơm xẻ chia ra Lạnh lùng áo xống với ta cũng bằng 80. Quan chức nhỏ ta thăng ta cấp Bổng lộc sơ ta lập ta thêm Đường thủy ta cấp chiến thuyền Đường bộ ta cấp ngựa quen đường dài Cuộc sống chết gian nguy chung gánh 85. Lúc thảnh thơi ấm lạnh chung cùng Công Kiên đãi tướng ai hơn Ngột Lương xử sự vẫn còn thua xa Nhục mất nước lòng ta không thể Phận các ngươi yên thế được ư 90. Chúa nhục quốc hận chi thù Quốc sĩ khắc cốt thiên thu hận lòng Hầu tướng giặc lòng mong rửa hận Nhạc thái thường nổi giận căm gan Sá gì sứ nguỵ quân gian 95. Bức đòi o ép giận tràn cành hông Nước nguy kịch vui trong gà chọi Thú bạc bài biết lối nào ra Ruộng vườn chăm chú an nhà Vợ con ôm ấp can qua ai tường 100. Mong tích lũy gian thương lạm phú Giương cung tên săn thú làm vui Quân binh luyện tập quên rồi Rượu ngon gái đẹp say lời cầm ca Giặc Mông Thát can qua dấy động 105. Cựa gà nòi đâm chúng được chăng Mưu gian bài bạc có ngăn Ruộng vườn cướp đoạt xác thân lưu đày Vợ hầu đẹp về tay quân giặc Ruộng vườn nhiều mất tất ai hay 110. Vàng mua đầu giặc dám ai Giặc tràn thân liệt nạn tai gông cùm Chó săn khoẻ hỏi mong diệt giặc Rượu ngon say Mông Thát có mê Hát hay giặc có trốn về 115. Hay thân bại tướng búa đe xích xiềng Nỗi đau đáu không riêng ta lụy Thái ấp ta tiêu hủy mất rồi Bổng lộc quan tước các người Giặc sang cướp đoạt tiêu đời còn đâu 120. Thân quyến ta mang sầu khốc lụy Vợ con ngươi cũng hủy diệt theo Tông miếu ta bị lao đao Cửa nhà ngươi cũng xạc xào khác chi Vua bị bắt nước thì không chủ 125. Ô nhục này hỏi thử ai cam Danh ta thân liệt ngàn năm Các ngươi bại tướng cam đành được sao Không lo lắng nỗi đau trước mắt Giặc tràn vào nắm chắc bại vong 130. Cuộc vui đừng có mà mong Rành rành trước mắt phải trông phải lường Nay ta bảo tai ương nên nhớ Lửa cháy rơm phải sợ phải lo Canh nóng chớ húp ngay cho 135. Biết thời biết thế so đo cho tường Quân sĩ rèn thao trường huấn luyện Sức Bàng Mông trận chiến tham gia Cung tên Hậu Nghệ vượt qua Bêu đầu Tất Liệt lột da thỏa lòng 140. Vân Nam Vương những mong đốt xác Diệt quân Nguyên tan tác trốn về Nước non trọn một lời thề Đuổi sạch bóng giặc làng quê an lành Giặc Nguyên sạch mộng thành tráng chí 145. Thái ấp ta được giữ lâu bền Bổng lộc ngươi hưởng theo quyền Gia quyến ta được bình yên một đời Thân thuộc ngươi một thời rạng rỡ Tiên nhân ta yên ở thái thường 150. Tổ tông ngươi cũng miếu đường Quanh năm nghi ngút khói hương khác gì Ta giữ được quân uy đại chí Mộng hùng anh ngươi phỉ tấc lòng Ngàn năm sứ khắc ghi công 155. Dẹp xong Mông Thát còn mong hơn gì Viết binh pháp nghĩ suy tường tận Chắc lọc từ chiến trận khắp nơi Điều hay tinh túy các đời “Binh thư yếu lược” các ngươi phải tường 160. Phải chăm chú chuyên thường luyện tập Mọi việc binh nhất nhất tinh tường Làm người trọn đạo quân vương Nghịch bằng kháng lệnh đối phương cừu thù Vì Nguyên-Trần đối đầu sống chết 165. Phận tôi con phải biết an nguy Diệt thù không tận nghĩ suy Không rèn quân kỷ lấy gi chống Nguyên Có khác nào quay thuyền theo giặc Đem tay không diệt Thát được chăng 170. Nước non bị họa xâm lăng Trung quân ái quốc cầm bằng như không Lời hịch viết trong lòng ghi nhớ Cho các ngươi hãy rõ hết lòng Việc làm lời nói song song 175. Diệt quân Mông Thát non sông thái bình
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Trần Hưng Đạo Wed Jun 06, 2018 4:37 pm
Hịch Tướng Sĩ
Ta thường nghe: Kỷ Tín (1) đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu (2) chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng (3) nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái (4) chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức (5) một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh (6) một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên (7) là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Điếu Ngư ( 8 ) nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha (9) đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Đãi Ngột Lang (10) là người thế nào? Xích Tu Tư (11)tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu (12) trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt (13)mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương (14) mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa (15), cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường (16) đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp (17) của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" (18) làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" (19) làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông (20), mọi người đều tài như Hậu Nghệ (21), có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị (22) Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền (23) mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược (24). Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc (25), để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.
Bản dịch: Huệ Chi 1. Kỷ Tín: tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được. 2.Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu. Theo Tả Truyện, Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Đông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua mình. 3. Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ. 4.Thân Khoái: quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân Thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ. 5. Kính Đức: tức Uất Trì Cung đời Đường. Khi Đường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương Lý Thế Dân) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông chạy thoát. 6. Cảo Khanh: họ Nhan, một bề tôi trung của nhà Đường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi, ông đã cả gan chưởi mắng An Lộc Sơn và bị cắt lưỡi. 7. Vương Công Kiên: tướng tài nhà Tống, giữ Hợp Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm cự với quân Mông Cổ do Mông Kha chỉ huy ở núi Điếu Ngư suốt bốn tháng trời. Mông Kha cuối cùng bị loạn tên chết, quân Mông Cổ đành phải rút lui. 8. Điếu Ngư: tên ngọn núi hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Đời Tống, Dư Giới đắp thành ở đó. 9. Mông Kha: tức Mongka, anh của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, làm Đại Hãn Mông Cổ từ năm 1251. Mông Kha trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước phía Đông. Ông bị tử trận năm 1259 dưới chân thành Điếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy. 10. Cốt Đãi Ngột Lang: tức Uriyangqadai, tướng giỏi của Mông Cổ, con của viên tướng nổi tiếng Subutai. Cốt Đãi Ngột Lang nhận lệnh của Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam Chiếu. Cốt Đãi Ngột Lang cũng là viên tướng chỉ huy đạo quân Mông Cổ xâm lược Đại Việt lần thứ nhất (1258). 11. Xích Tu Tư: chép Xích theo Hoàng Việt Văn Tuyển. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Cân. Hai chữ gần giống nhau, không biết quyển nào chép nhầm. Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói gì về viên tướng này, và việc khôi phục lại tên Mông Cổ từ Hán tự cũng không phải là chuyện đơn giản. 12. Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở khoảng giữa tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ngày nay; thủ đô là Đại Lý, thuộc Vân Nam. 13. Hốt Tất Liệt: tức Qubilai, em ruột và là tướng của Mông Kha. Sau khi Mông Kha tử trận ở Điếu Ngư, Hốt Tất Liệt tự xưng làm Đại Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Ariq-Buka. Năm 1264, Ariq-Buka đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay), xưng Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên. 14. Vân Nam Vương: tức Hugaci hay Thoát Hoan, con ruột Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam Vương năm 1267 với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như mở rộng biên cương nhà Nguyên về phía Nam. Thoát Hoan là người chỉ huy quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1287-1288. 15. Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: điển tích lấy từ câu nói của viên tướng khét tiếng Mã Viện đời Hán chép trong Hậu Hán Thư -- Đại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ. Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây. 16. Thái thường: tên loại nhạc triều đình dùng trong những buổi tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao căng thẳng giữa ta và quân Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp sứ Nguyên, triều đình nhà Trần nhiều khi phải buộc dùng đến nhạc thái thường để mua vui cho sứ giả. Trần Quốc Tuấn xem đó là một điều nhục nhã. 17. Thái ấp: phần đất vua Trần phong cho các vương hầu. 18. Đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ: từ câu văn trong Hán Thư -- phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng, hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an. Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên. 19. Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội: xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ -- trừng ư canh nhi xuy tê hề. Người bị bỏng vì canh nóng, trong lòng đã e sợ sẵn, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn thổi như thường. 20. Bàng Mông: danh tướng đời nhà Hạ, có tài bắn cung trăm phát trăm trúng. 21. Hậu Nghệ: một nhân vật bắn cung giỏi nữa trong thần thoại Trung Quốc. 22. Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua chư hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An. 23. Mãi mãi vững bền: nguyên văn chữ Hán là vĩnh vi thanh chiên. Sách Thế Thuyết chép chuyện Vương Tử Kính đêm nằm ngủ thấy bọn trộm vào nhà "sạch sành sanh vét" mọi vật. Ông từ tốn bảo chúng rằng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi làm ơn để lại. Tác giả dùng điển tích này để chỉ những của cải được lưu truyền từ đời này sang đời khác. 24. Binh Thư Yếu Lược: tức Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược, nay đã thất truyền. Tác phẩm với đầu đề tương tự được lưu truyền hiện nay không phải là văn bản thực thụ, trong đó có vài đoạn chép các trận đánh thời Lê Nguyễn sau này. 25. Dẹp yên nghịch tặc: nguyên văn chữ Hán là bình lỗ chi hậu . Các dịch giả Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đoán Bình Lỗ là tên đất ở đâu đó vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Ở đây, chúng tôi theo Ngô Tất Tố và Phan Kế Bính dịch thoát là bình định nghịch tặc nói chung.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Trần Hưng Đạo Wed Jun 06, 2018 4:53 pm
Hịch Tướng Sĩ
Xưa Kỷ Tín liều thân chịu chết, Cứu Hán Vuơng thoát khỏi Hoàng Dương Do Vu cháu Sở Chiêu Vương, Giơ lưng đỡ giáo tìm đường cứu vua. Kìa Dự Nhượng thuở xưa người Tấn, Từng nuốt than lận đận phục thù. Kìa Thân Khoái một Tể Phu, Chặt tay theo nạn với thu vua Tề. Quan nhỏ nhưa Uất Trì Kính Đức, Giúp Thái Tông khỏi bước trùng vi. Cảo Khanh quan ở biên thùy, Già mồm chửi giặc không hề tiếc thân. Bậc nghĩa sĩ trung thần từ trước, Từng diệt thân cứu nước có nhiều. Những người kia nếu chẳng liều, Chết suông như đám nữ lưu xó nhà. Còn danh tiếng đâu mà chép lại, Cùng kiền khôn truyền mãi không ngần. Các ngươi dòng dõi vũ thần, Xưa này nào có hiểu văn nghĩa gì. Nghe câu chuyện bán nghi bán tin, Sự muôn năm nhắc đến chi vay? Nay ta hãy nói cho hay, Thử xem Tống, Thát truyện này ra sao? Vương Công Kiên người nào thế vậy? Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người nào? Điếu ngư thằng bé tẻo teo, Chống quân Mông Cổ ồn ào trăm muôn. Khiến quân Tống thắng luôn mấy trận, Đến bây giờ dân vẫn hàm ân. Ngột Lang là tướng Đốc Quân, Với Tỳ tướng Xích là nhân phẩm nào? Ngoài muôn dặm quản bao nước độc, Trong mấy ngày phá rốc quân Nam. Lòng vua Thát Đát đã cam, Đ^'n nay lừng lẫy tiếng thơm nhường nào? Ta với ngươi sinh vào đời loạn, Vừa gặp bao cơn vận hạn gian nan. Sứ Nguyên lai vãng bao lần, Mọi nơi đường sá muôn vàn nôn nao. Triều đình bị cú diều soi mói, Tể tướng thì lang sói rẻ khinh. Mượn oai Hốt Liệt tranh giành, Lấy bao của báu chưa đành lòng tham. Cậy thế chúa Vân Nam nạt nã, Đòi bạc vàng hết cả kho ta. Thịt nuôi hùm đói mãi a? Sao cho thoát khỏi lo xa sau này. Ta đây những hàng ngày quên bữa, Lúc đêm thâu ngồi dựa gối kiêu. Giọt châu tầm tã tuôn trào, Như nung gan sắt, như bào lòng son. Chí nhừng muốn moi gan lấy tiết, Lòng những toan xẻ thịt vằm da. Dù thân dầu với cỏ hoa, Dù da ngựa bọc thân đà cũng vui. Các người vốn là người môn thuộc Được trông nom mọi việc binh cơ, Áo không, ta cỡi áo cho, Cơm không, ta sẻ cơm no cho lòng. Quan nhỏ thì ta phong chức cả, Lộc ít thì ta trả lương thêm. Đi sông, ta cấp cho thuyền, Đi đường, ta cũng lệnh truyền ngựa đi. Cho cầm quân an nguy cùng lối, Cho nằm yên, vui nói cùng hàng. So Vương Kiên với Ngột Lang, Đãi chư Tỳ tướng mọi người kém chi. Nếu vua nhục ngươi thì chẳng đoái, Mà nước nguy, ngươi lại làm ngơ, Đừng hầu tướng giặc không dơ, Nghe ca thết sứ vẫn trơ táo ngồi Khi gà chọi, khi thời cờ bạc, Cuộc vui chơi, gỡ gạc đủ trò. Ruộng vườn muôn sự ấm no, Vợ con vui thú riêng cho một mình. Ham lập nghiệp, quên tình nhà, nước, Mãi đi săn, nhác việc ngăn, ngừa. Rượu chè hôm sớm say sưa, Hát hay, đàn ngọt sớm trưa thỏa lòng Đúng có lúc quân Mông, Thát tới, Cựa gà không chọc nỗi áo da, Những nghề cờ bạc tinh ma, Phải đâu kế hoạch của nhà cầm quân? Ruộng nương nào đủ phần chuộc mạng, Vợ con nào đủ cáng quân nhu? Của đâu chuốc được đầu thù ? Chó săn đâu đủ sức khua giặc trời? Rượu ngon khó làm mồi bã giặc, Hát hay không làm điếc tai thù. Bây giờ chẳng sót lắm ru? Vua tôi bị trói gô một đàn! Tước ấp ta bị tan nát cả, Bổng lộc người cũng chẳng còn gì Gia đình ta bị đuổi đi, Vợ ngươi cũng phải đến khi nhục nhằn Tông xã ta, địch quân xéo đi, Phần mộ ngươi cũng bị quật lên. Đời ta khổ nhục liên miên, Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền mãi sau! Nhà các ngươi cũng đều mang tiếng, Không khỏi làm những tướng bị thua. Các ngươi đang lúc bây giờ, Muốn mong vui thích như xưa được nào? Lời ta nhũ thấp ca ngươi nhớ, Phải coi nằm trên lửa là nguy. Kiềng canh đưa cũng thổi xùy, Luyện quân sĩ tốt tập nghề đao cung. Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ, Sức Bàn Mông, Hậu Nghệ cũng ham. Bêu đầu Hốt Liệt cho cam, Phơi luôn thịt chúa Vân Nam bên đường.
Tước ấp ta chăn thường ấm chỗ, Bổng lộc ngươi hưởng có trọn đời Gia đình ta được yên vui, Vợ con ngươi cũng lo đời trăm năm. Tông miếu ta nghìn năm hương lửa, Tổ tiên ngươi muôn thuở cương thường, Ta đây phỉ chí bồng tang, Các ngươi dường cũng vẻ vang vô cùng. Huy hiệu ta tôn sùng mãi mãi Tính danh ngươi ghi với sử xanh. Bấy giờ vui thú linh đình, Các ngươi đều muốn buồn tênh được nào? Này binh pháp soạn theo đời trước, Là "Binh Thư Yếu Lược" ban ra, Các ngươi theo đúng sách ta, Ấy là thần, chủ một nhà từ xưa. Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy, Ấy kẻ thù đã mấy đời nay, Tại sao mà lại thế vầy? Là thù không đội trời này được chung. Nếu các ngươi lòng không biết hổ, Không coi đều "sát Lỗ" là cần, Lại không vâng dạy luyện quân, Ấy là quay giáo, bó thân quy hàng. Giặn yên rồi còn mang tiếng mãi, Mặt mũi nào đứng với ca cao đây? Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây, Vậy nên thảo bức hịch nầy cho nghe.