Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Gửi em ở cuối sông Hồng
Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyFri Feb 17, 2023 8:01 am by Vân Nhi

» Tôi đi học
Nguyễn Hữu Chỉnh EmptySat Sep 07, 2019 4:23 pm by Vân Nhi

» Trần Hưng Đạo
Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyWed Jun 06, 2018 4:53 pm by Vân Nhi

» Huyền Chi
Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyMon Jun 04, 2018 4:35 pm by Vân Nhi

» Guitar đường phố: đỉnh của đỉnh
Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyTue May 29, 2018 7:45 am by Vân Nhi

» Quan Âm Thị Kính
Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyFri May 25, 2018 2:02 pm by Vân Nhi

» Thanh Tịnh
Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyMon May 21, 2018 3:25 pm by Vân Nhi

» Thuyền viễn xứ
Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu May 03, 2018 2:19 pm by Vân Nhi

» Xuân Tâm
Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Jul 06, 2017 1:49 pm by Vân Nhi

April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
CalendarCalendar
Most Viewed Topics
Lý Bạch
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Khuyến
Bùi Giáng
Vũ Hoàng Chương
Đoạn Trường Tân Thanh
Đại Nam Quốc Sử diễn ca
Chế Lan Viên
Trần Tế Xương
Quách Tấn
Keywords
Thiên Trần những Xương Chỉnh xuân Liên trinh nhân Khuyến Luật thầy Pháp thảm Đường Trọng quách miền Lược công nhất đoạn phan trường nguyễn dũng

 

 Nguyễn Hữu Chỉnh

Go down 
Tác giảThông điệp
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:09 am

Nguyễn Hữu Chỉnh
(?-1787)

Nguyễn Hữu Chỉnh Nhch

Nguyễn Hữu Chỉnh 阮有整 là tướng nhà Hậu Lê thời Lê Mạt, một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tới lịch sử Việt Nam thế kỷ 18.

Ông là người huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, Trấn Nghệ An nay là huyện Nghi Lộc, Nghệ An, Việt Nam.

Nguyễn Hữu Chỉnh thi đỗ Hương cống lúc mới 16 tuổi, nên còn gọi là Cống Chỉnh. Ông nổi tiếng ở kinh kỳ là người có tài ứng đối chữ nghĩa. Về võ, ông thi đỗ Tam trường.

Sách "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" chép: "Hữu Chỉnh, lúc trẻ tuổi đỗ hương tiến, là người hào phóng không bó buộc vào khuôn phép. Du lịch kinh sư, Hữu Chỉnh vào yết kiến Hoàng Ngũ Phúc. Ngũ Phúc khen là có tài khác thường, dùng làm gia khách. Khi Ngũ Phúc vào xâm lấn trong Nam, cho Hữu Chỉnh đi theo quân thứ, giữ công việc thư kí, rồi sai đến Tây Sơn khuyên Văn Nhạc (tức Nguyễn Nhạc) quy thuận với triều đình, được Văn Nhạc kính trọng".

Nguyễn Hữu Chỉnh từng làm thuộc hạ của quận Việp Hoàng Ngũ Phúc ở Đàng Ngoài. Sau khi quận Việp mất, ông tiếp tục làm thủ hạ cho cháu quận Việp là quận Huy Hoàng Đình Bảo, người được giao làm phụ chính cho Điện Đô vương Trịnh Cán, con nhỏ của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm lên ngôi lúc mới 5 tuổi.

Năm 1782, phe người con lớn của Trịnh Sâm là Trịnh Tông làm binh biến lật đổ Trịnh Cán, giết Hoàng Đình Bảo.

Nguyễn Hữu Chỉnh không hợp tác với Trịnh Tông, bỏ trốn vào Nam theo Tây Sơn và được vua Thái Đức Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm.

Năm 1786, nhân có người bạn ở Phú Xuân vào chơi, Chỉnh hỏi dò tình hình Thuận Hoá bấy giờ đã thuộc về chúa Trịnh. Biết quân Trịnh chểnh mảng, Chỉnh hiến kế cho vua Thái Đức đánh ra Phú Xuân. Vua Thái Đức nghe theo, sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cùng Chỉnh mang quân bắc tiến.

Hữu Chỉnh lập kế ly gián giữa chủ tướng thành Phú Xuân là Phạm Ngô Cầu và phó tướng là Hoàng Đình Thể. Chỉnh vờ viết thư dụ hàng phó tướng Hoàng Đình Thể, nhưng lại cố ý gửi nhầm cho Cầu khiến Cầu nghi Thể và có ý hàng Tây Sơn. Quả nhiên khi quân Tây Sơn tập kích thành Phú Xuân, Cầu bỏ mặc Thể đánh nhau với quân Tây Sơn, không tiếp ứng. Thể chết trận, Cầu đầu hàng quân Tây Sơn nhưng cũng bị giết.

Trong lúc khí thế quân Tây Sơn đang hăng, Nguyễn Hữu Chỉnh hiến kế cho Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, lấy danh nghĩa "phù Lê". Nguyễn Huệ nghe theo, bèn để Nguyễn Lữ ở lại, còn mình cùng Chỉnh mang quân bắc tiến. Chỉnh làm tiên phong đi thẳng ra tập kích Vị Hoàng, đại quân Tây Sơn đánh như gió cuốn ra bắc. Quân Trịnh rệu rã thua trận, tan vỡ chạy. Chỉ sau 1 tháng, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, Trịnh Tông bỏ chạy không thoát bèn tự sát.

Sau khi Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Hữu Chỉnh lại sắp đặt Nguyễn Huệ lấy công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ của vua Lê. Tại kinh kỳ, phe cánh họ Trịnh còn đông, nhiều người nói Hữu Chỉnh rước Tây Sơn ra để trả thù cho chủ.

Vua Thái Đức không muốn Nguyễn Huệ đánh ra Bắc Hà nên thân hành ra bắc gọi em về. Anh em vua Tây Sơn biết Nguyễn Hữu Chỉnh là người dễ thay lòng đổi dạ nên không muốn dung nạp, lập kế đột ngột rút quân về nam. Nguyễn Hữu Chỉnh biết người ở Bắc Hà ghét mình (vì dẫn đường cho quân Tây Sơn), sợ bị họ giết nên khi phát hiện quân Tây Sơn rút đi, ông vội vã chạy theo. Nguyễn Huệ thấy vậy liền sai ông trấn thủ Nghệ An là đất giáp ranh giữa Tây Sơn và đất nhà Lê.

Ở Bắc Hà sau khi Tây Sơn rút, các tướng ủng hộ họ Trịnh như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ, Dương Trọng Tế nổi dậy, dựng Trịnh Bồng làm chúa mới, tức là Án Đô vương, lại lấn át vua Lê mới là Chiêu Thống (cháu nội Hiển Tông).

Vua Lê nghe theo lời các văn thần, liền sai người vào Nghệ An mời Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp họ Trịnh. Được danh chính là lời gọi của vua Lê, ông chiêu tập hơn 1 vạn quân, bắc tiến như chẻ tre. Quân Trịnh do Phan Huy Ích được cử đi đánh bị bại, Ích bị Chỉnh bắt sống. Sau đó quân Chỉnh đánh thốc ra Thăng Long, các tướng Trịnh thua trận bỏ chạy, Án Đô vương Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Chiêu Thống sai đốt phủ chúa. Họ Trịnh từ đó không quay lại ngôi vị được nữa.

Dẹp được chúa Trịnh, Nguyễn Hữu Chỉnh được vua Chiêu Thống phong là Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Ðại Tư Ðồ, Bằng Trung công rồi Bằng công (chữ "bằng" mang nghĩa là con chim bằng).

Các tướng họ Trịnh cũ vẫn hoạt động chống lại nhà Lê. Nguyễn Hữu Chỉnh một tay đánh dẹp lần lượt đánh bại và giết cả Đinh Tích Nhưỡng, Dương Trọng Tế và Hoàng Phùng Cơ. Cả Bắc Hà khi đó không còn đối thủ, Chỉnh cậy quyền thế lại coi thường lấn át vua Lê.

Sau đó, biết tin anh em Tây Sơn bất hoà, Hữu Chỉnh có ý chống đối lại Tây Sơn, mưu lập thế lực riêng như chúa Trịnh trước đây. Muốn mở rộng ảnh hưởng vào Nam, Chỉnh thông đồng với Nguyễn Duệ chiếm đất Nghệ An, sửa luỹ Hoành Sơn, lấy Linh Giang (tức sông Gianh) làm giới hạn với Thuận Hoá. Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm (con rể Nguyễn Nhạc) hay được, bèn gửi thư cáo biến với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Vì vậy ý định của Hữu Chỉnh không thành. Từ khi đó, Văn Nhậm là người được cử ra Nghệ An để tăng cường lực lượng của Tây Sơn.

Nguyễn Hữu Chỉnh lại sai Trần Công Xán vào Nam đòi Tây Sơn đất Nghệ An do Nguyễn Văn Duệ, Vũ Văn Dũng đang trấn thủ. Vì thế, Nguyễn Huệ cử Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân mang quân ra Nghệ An, hợp sức cùng Vũ Văn Nhậm tiến ra Bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh.

Cuối năm 1787, quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy tiến ra bắc. Hữu Chỉnh có phần chủ quan, bị Vũ Văn Nhậm đánh bại nhanh chóng. Tháng 11, Vũ Văn Nhậm đánh ra Thanh Hóa. Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn sợ Vũ Văn Nhậm, và vì vợ con ông còn ở lại bên Tây Sơn, nên muốn liệu chiều để đi đến chỗ nghị hòa, nhưng còn do dự, chưa quyết định.

Ông mang 3 vạn quân đi chống cự ở sông Thanh Quyết, lại sai Nguyễn Hữu Du đem hơn 50 chiếc chiến thuyền chở hết các chiến cụ như đại pháo và hỏa khí đỗ ở cửa sông đối diện với quân Tây Sơn một con sông. Hữu Du không hề lo phòng bị. Ban đêm, quân Tây Sơn, ngầm bơi sang, dùng thừng chão dài buộc thuyền của Hữu Du kéo qua bờ phía nam. Quân Bắc Hà sợ hãi chạy trốn. Bao nhiêu đại pháo trong thuyền đều lọt vào tay quân Tây Sơn.

Quân Bắc Hà thua chạy. Nguyễn Hữu Chỉnh nửa đêm trốn từ Thanh Quyết về Thăng Long, thu gom được vài ngàn quân, hộ tống Lê Chiêu Thống chạy sang Kinh Bắc. Nhưng trấn thủ Nguyễn Cảnh Thước hàng Tây Sơn, không đón rước vua Lê nên ông phải mang Chiêu Thống qua đò sông Đáy chạy đi huyện Yên Dũng (Bắc Giang).

Khi Chiêu Thống và Hữu Chỉnh đến Mục Sơn thì quân Tây Sơn đuổi kịp. Bộ tướng của Vũ Văn Nhậm là Nguyễn Văn Hòa chia quân đánh mặt trước, rồi bí mật điều một cánh quân vòng phía sau núi đánh úp. Quân Hữu Chỉnh rối loạn, tự tan vỡ. Hữu Chỉnh thua chạy, vì ngựa què nên bị quân Tây Sơn bắt được.

Nguyễn Văn Hòa đưa Nguyễn Hữu Chỉnh về Thăng Long. Vũ Văn Nhậm kể tội ông là bất trung rồi sai xé xác ông ở cửa thành.


Nguồn: trích theo trang http://vi.wikipedia.org

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:32 am

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:36 am

Cuộc đời


Cửa sổ buồn xem ngựa trắng qua,

Vừa khôn thì lại thấy vừa già.

Trước đã cậy lòng con cái,

Sau còn nhớ đức mẹ cha.

Giầu có làng, sang có nước,

No nên Bụt, đói nên ma.

"Sắc, Không" chữ ấy âu vàng thép,

Nghĩ lại thì là bẵng cái hoa.




Nguyễn Hữu Chỉnh

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:41 am

Hịch đánh Trịnh [1]

Bản chữ Nôm:

生民沛餒民乄苉,丕皇天劺坦君師
厳亂乭篭亂買衝,意王者固番兵革
會順應世停特渚
役征誅峼呵悶凨
些低:稟氣俼南
本匇戶阮
唕祿搩沛剗役搩,璳番張子者恩韓
吿恱噖戼仌義噖,之底曹昿噽鑊漢
恨國傅歯峼背上
戼西山唱義勤王
苉卥垠焈廏堚匇,矯党逆撻謀岌紤
畱卥扅湄霪欺旱,矯窮人沙準淋炭
叿峼俼群咜頉富春
亁玌辸吏基圖華夏
儍別辻俼固斎,賊戶張櫲遍氾厰份
俸吹侙搩爭倈,碎茹夏沛收回侼搩
侙蚌鷸當群對炦
軐鯨狼澃窖緫碒
外瀓坘救援乄名,民驚亂舉兵弔罰
瑇亖岲承危底腋,準承平戼餒流離
宮笌城郭破凌凌
銃蓊船廵收汰汰
怽扱曲拯傷匇外族,乑窮塘訸獸時崔
玌騎纅群仌淁先君,吏劂讁彅焵澃堖
棊岲暴帞蘍儖項
椖峼圤搩沚衛劉
眾窮塘旗義剾衛投,戼軍數每挧沒盛
民飢饉感峼仁顒股,遣兵威強瀋強添
廣南它撅瀝樚塵
順化吏剾衛坡憥
南沒綨沁鯨滂焔,機太平蹱待乑媑
北亖城信雁荗安,僟救援憹鐭澃便
感功德噖黎敢負
弄權行戶鄭讱牐
辻皇帝撻空,甧搩隰牢絤獕鄧
罪黃巢拯固,峼貞挑緈侟屏
乨端王強煏腋無君
謀篡奪戼峼背父
長宮本汖哰卥嫡,權吒槒背泊澃乭
殿都雖珷岺仍英,命吒僲爭欺澃沛
碒拯兌彣坘顧命
炦儍鐭侟準梓宮
遣沒彈岞娋彈堏,剾岲孝堖招笹坦
底仍丗碎桰圤様,曢嘺冤乑動彣俼
志尊扶叿拯謀珄,時敕令銀錢儍待佊
詟虐杆群剾笹撨,義理儍俼坦群容
歄侊欮軍訸特官,意事意汖哰共邏
為廢立悶珄朱益
底傾危乄搩沛剗
円閉哰臣佞主惛,鎼平治峼俼罕悶
吏厳會兵驕民怨,嵦欦欮才奇沛歯
斫万全乑鑿廏衡山
兵即刻張帆北海
戈槣孟拂旗周武,歯壦處正篭斜
侟坦關凒馭漢皇,志決娎仁啚暴
插嵦本原峼寔
啔腬沛俌坘桰
岲向明沛瀓埃推,傷士女玄黃卥世
簕助順罕蜫丗別,....女些
埃別推理沛,決沒峼夏眾兮蘇
些拯負民肑,亁侼岲秋毫無犯
軐背反籒慣如苉
刼太平群底浌憻
搩潮東啻拯順匇,吏拒強僲篍壦振
帞奵廏塩和峢玉,凨賢愚坤扨歄俼
恩買威俌告坘恒
順呍逆默峼埃決.


Bản tiếng Việt:

Sinh dân phải nuôi dân làm trước, vậy hoàng thiên dựng đất quân sư
Gặp loạn đành dẹp loạn mới xong, ấy vương giả có phen binh cách
Hội thuận ứng thế đừng được chửa
Việc chinh tru lòng há muốn ru
Ta đây: Bẩm khí trời Nam
Vốn dòng họ Nguyễn
Nhờ lộc nước phải lo việc nước, đòi phen Trương tử giả ơn Hàn
Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua, chi để Tào man nhòm vạc Hán
Giận quốc phó ra lòng bội thượng
Nên tây Sơn xướng nghĩa cần vương
Trước là ngăn cột đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp ghé
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng nhân sa chốn lầm than
Ví lòng trời còn nền nếp Phú Xuân
Ắt đấu cũ lại cơ đồ Hoa Hạ
Nào biết ngôi trời có bảy, giặc họ Trương toan biến phiếm mười phần
Bỗng xui thế nước tranh ba, tôi nhà Hạ phải thu hồi hai nước
Thế bạng duật đương còn đối mặt
Thói kình lang sao khéo lắng tai
Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn cử binh điếu phạt
Trong mấy chữ thừa nguy để dạ, chốn thừa bình nên nỗi lưu ly
Cung đền thành quách phá lâng lâng
Súng ống thuyền bè thu thảy thảy
Cơn gấp khúc chẳng thương dòng ngoại tộc, đã cùng đường đuổi thú thời thôi
Dấu cưỡi rồng còn nhớ đấng tiên quân, lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ
So chữ bạo lửa nồng quá Hạng
Dò lòng người nước chảy về Lưu
Chúng cùng đường cờ nghĩa đem về đầu, nên quân số mỗi ngày một thịnh
Dân cơ cận cảm lòng nhân ngóng cổ, khiến binh uy càng thấm càng thêm
Quảng Nam đà quét sạch bụi trần
Thuận Hóa lại đem về bờ cõi
Nam một dải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần
Bắc mấy thành tin nhạn chưa yên, bề cứu viện ngồi trông sao tiện
Cảm công đức vua Lê dám phụ
Lộng quyền hành họ Trịnh khó nghe
Ngôi hoàng đế đặt không, há nước thấp lao lung thấy đặng
Tội Hoàng Sào chẳng có, lòng trinh thêu dệt vào bình
Hiệu Đoan Vương càng tỏ dạ vô quân
Mưu soán đoạt nên lòng bội phụ
Trưởng cung vốn xưa nay là đích, quyền cha trót bội bạc sao đành
Điện Đô tuy bé nhỏ nhưng anh, mệnh cha rắp tranh khi sao phải
Tai chẳng đoái đến lời cố mệnh
Mặt nào trông vào chốn tử cung
Khiến một đàn con trẻ đàn bà, đem chữ hiếu nỡ gieo xuống đất
Để những kẻ tôi ngay người thẳng, tiếng kêu oan đã động đến trời
Chí tôn phù ví chẳng mưu mình, thì sắc lệnh ngân tiền nào đợi nó
Gươm ngược cán còn đem xuống dưới, nghĩa lý nào trời đất còn dong
Lưới đứt giềng quân đuổi được quan, ấy sự ấy xưa nay cũng lạ
Vì phế lập muốn mình cho ích
Để khuynh nguy làm nước phải lo
Vả bấy nay thần nịnh chúa hôn, mở bình trị lòng trời hẳn muốn
Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối giềng tài cả phải ra
Chước vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn
Binh tức khắc giương buồm Bắc Hải
Qua sông Mạnh phất cờ Chu Võ, ra tay sử chính dẹp tà
Vào đất Quan thét ngựa Hán Hoàng, quyết chí lấy nhân đổi bạo
Sắp sửa vốn nguyên lòng thật
Giữ gìn phải ngỏ lời ngay
Chữ hướng minh phải mượn ai suy, thương sĩ nữ huyền hoàng là thế
Máy trợ thuận hẳn nhiều kẻ biết, .... nữa ta
Ai biết suy lẽ phải, quyết một lòng hạ chúng hề tô
Ta chẳng phụ dân lành, ắt hai chữ thu hào vô phạm
Thói bội phản chớ quen như trước
Chút thái bình còn để dài lâu
Nước triều đông ví chẳng thuận dòng, lại cự cưỡng rắp giơ tay chắn
Lửa cháy đá lỡ hòa lầm ngọc, dù hiền ngu khôn lọt lưới trời
Ân với uy ngỏ cáo lời hằng
Thuận hay nghịch mặc lòng ai quyết.



Nguyễn Hữu Chỉnh
(Nguồn: chép lại từ trang http://vi.wikisource.org/)

1. Bài này hịch này tương truyền của Nguyễn Hữu Chỉnh thay mặt Nguyễn Huệ soạn ra.
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:45 am

Khen kẻ đặt lời [1]


Vô duyên, trái kiếp, thiệt hòa hai,

Chẳng biết là ai giống máu ai?

Những tưởng trên thời đà suốt dưới,

Nào hay trong lại phải thua ngoài.

Nghĩ nguồn cơn nọ, gan dầm muối,

Thấy khúc nôi này, thịt sởn gai!

Khen kẻ đặt lời, sao khéo xiết,

Rằng thân người chẳng khác con bài!




Nguyễn Hữu Chỉnh

1. VXTĐ: Bài này không rõ tựa, VXTĐ tạm đặt tên khi nào tìm ra tựa sẽ đặt lại. Ai biết xin chỉ giùm, đa tạ!
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:48 am

Lỗi số [1]


Phận đành yên phận chửa yên thân,

Vàng bạc còn chen đám tục trần;

Trong hãy trả ơn bề cốt nhục,

Ngoài còn luống tưởng đạo quân thần.

Mình ta đã nghĩ ta vô lụy

Dạ chúng đà hiềm chúng bất nhân.

Ấy bởi vụng sinh hay lỗi số,

Máy thiêng khôn biết mặc xoay vần.




Nguyễn Hữu Chỉnh

1. VXTĐ: Bài này không rõ tựa, VXTĐ tạm đặt tên khi nào tìm ra tựa sẽ đặt lại. Ai biết xin chỉ giùm, đa tạ!
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:50 am

Lỡ bước [1]


Đã hẳn nào là mặt cố tri,

Giàu sang tìm đến khó tìm đi.

Bạc đen dạ chúng ta hay vậy

Vàng đá lòng ta chúng biết chi.

Có phận ra người nên giữ phận,

Lỗi thì là đứa vụng tùy thì.

May ai nấy gặp chăng mà chớ,

Lỡ bước lầm chân cũng vậy vì.




Nguyễn Hữu Chỉnh

1. VXTĐ: Bài này không rõ tựa, VXTĐ tạm đặt tên khi nào tìm ra tựa sẽ đặt lại. Ai biết xin chỉ giùm, đa tạ!
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:54 am

Than thân


Tóc chen hai thứ chửa danh chi,

Thân hỡi là thân! Thì hỡi thì[1]!

Chưa trả chưa đền ân đệ tử,

Thêm ngừng thêm tủi chí nam nhi.

Kẻ yêu, nên ít bề cao hạ[2],

Người ghét, càng nhiều tiếng thị phi[3].

Tay bé khôn bưng vừa miệng thế[4],

Giãi lòng ngay thảo cậy thiên tri[5].




Nguyễn Hữu Chỉnh

1. Thì 时: thời thế, cơ-hội
2. Cao hạ: cao thấp trên dưới, ý nói phân bì, khinh bỉ
3. Thị phi: phải trái ; ý nói khen chê, bình phẩm
4. Câu 7: ý câu này cũng như câu tục ngữ: "Tay đâu bịt được mồm thiên hạ"; ý nói mình không thể cầm giữ được người khen chê, bình phẩm
5. Thiên tri: trời biết

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:56 am

Thói đời [1]


Của chẳng riêng ai vốn của đời,

Có thì ăn mặc có thì chơi.

Bán buôn áo cũng bồ nâu đỏ

Hàng chợ cơm dù bát sứ xôi.

Rượu uống tiêu sầu năm bảy chén,

Thơ ngâm khiển hứng một vài lời.

Bá vương nhắm mắt làm chi nữa,

Lầm lẫn trời đành đã có nơi.




Nguyễn Hữu Chỉnh

1. VXTĐ: Bài này không rõ tựa, VXTĐ tạm đặt tên khi nào tìm ra tựa sẽ đặt lại. Ai biết xin chỉ giùm, đa tạ!
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 10:58 am

Than thời [1]


Thiệt chăng một đứa dại trân trân,

Tài đức thua bên cả thánh thần.

Cá nọ mèo tha đầy kẻ đuổi,

Lợn kia hùm bắt mấy người ngăn.

Tham sinh cho kiệm lòng ưu quốc,

Úy tử nên nhiều dạ ái thân.

Chữ phú mới hay đè chữ quý,

Chửa tin thì hãy nhắc đồng cân.




Nguyễn Hữu Chỉnh

1. VXTĐ: Bài này không rõ tựa, VXTĐ tạm đặt tên khi nào tìm ra tựa sẽ đặt lại. Ai biết xin chỉ giùm, đa tạ!
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 11:01 am

Trương Lưu Hầu phú


Phú:

Trương Lưu Hầu! Trương Lưu Hầu!
Ngao cực gây thiêng,
Hồ tinh cấu sáng.
Vằng vặc mi thanh mục tú, kỳ sĩ phong tư;
Nhơn nhơn thức viễn tài cao, danh nho khí tượng.
Y bát theo một mối cầm thư;
Chung đỉnh dõi năm đời khanh tướng.
Trời đất thuở cát vàng, bụi tía, áng công danh không uốn lưỡi Nghi, Tần;
Nước nhà khi bể biếc, dâu xanh, mưu báo phục há kém tay Kha, Nhượng.
Rải ngàn vàng tìm khách thiếu niên,
Nâng chiếc dép tôn người lão trượng.
Bác Lãng một chùy tiết nghĩa, trợt vẩy Tổ Long;
Trần Lưu ba quyển lược thao, mở lòng đình trưởng.

Ngôi đế sư nảy chốn phúc tâm,
Việc trù sách vận trong duy trướng.
Bóng cờ phất thập thò trên đỉnh Khoái, sơn hà trăm hai lẻ, một khắc hóa tan tành;
Tiếng tiêu đưa rủ rỉ trốn thành Cai, tử đệ tám nghìn dư, nửa đêm xuôi khảng tảng.
Việc năm năm đưa tấc lưỡi còn thừa,
Cơ nghìn dặm quyết trong màn một nhoáng.
Cung Tần rót một liều thuốc đắng, bệnh phú ông tỉnh lại lúc tê mê;
Cửa Hồng khuyên ba chén rượu nồng, hồn quý phụ xiêu về cơn chếnh choáng.
Cho dượng Phàn ương mắt tại quân trung;
Dìu ông Bái rảo chân về Bá Thượng,
Áo gấm ví von xui miệng trẻ, giục Trùng Đồng xót dạ lại cồn cồn;
Chén châu giả mẽ ghẹo gan già, làm Ngu Lão tức mình gieo choảng choảng.
Bao Quận tiễn đưa xe ngựa Hán, dập dìu xui đốt nẻo về đông;
Huỳnh Dương lẩn quẩn nước non Hàn, dong ruổi rắp gây nền thụ đảng.


Đổ mồ hôi nghe lời khách vừa xong;
Sa nước mắt nghĩ việc nhà lai láng,
Chí ngùi ngùi khôn chiếm đất trung nguyên;
Lòng ngài ngại phải chăng miền tây hướng.
Ý nhiệm bán gươm ba thứ, lòng quốc sĩ như soi;
Mưu sâu vạch đũa tám điều, mặt hủ nho mới hoảng.
Việc quyên Quan chia Tín, Bố dương quyền;
Chước hoãn chiến máy Tề, Lương phản trạng.
Gương trung nghĩa treo tranh Tề Cảnh,
Kỷ tướng quân khi gấp khúc phải liều;
Máy hiểm thâm đánh mái sơn cương, Phàn tráng sĩ lúc nguy nghi phải gượng.
Bài gián Sở giục chàng Nhụ Tử, tuốt xương, bẻ cánh chước càng ghê;
Việc vương Tề chiều kẻ vương tôn, bấm gót, rỉ tai lời phải khoảng.
Lừa Vũ đưa một bức khiêm cung,
Ngăn Sở giục ba người cưu tráng.
Hồng Câu thuở chia sông một giải, nuôi hùm vào lỏng máy tiêm cừu.
Cố Lăng khi cắt đất hai phân, đuổi khỉ những êm bài ngự tướng.
Ngắm thiên văn hay phá Sở cơ mầu;
Xem địa lý biết hưng Lưu khí vượng.

Đứa điền phu trỏ vời miền trạch tả, ai hay chăng ấy chước cao thâm;
Thuyền trưởng ông dòng đợi bến Ô Giang, ai biết chẳng là mưu liệu lượng.

Lũ trăm Tham nào đọ sức kinh luân,
Trong tam kiệt dễ so công chiến xướng.
Phấp phới lá cờ trước gió, huân lao sá kể thứ Phàn, Đằng;
Vẫy vùng cán việt lên đàn, công tích không so phường Giáng, Quán.
Đế sư cao một bậc, trọng đức tôn danh,
Hầu tước hậu ba muôn, luận công hành thưởng,
Đường báo quốc nhờ lưng Xích Đế, tiệc Nam Cung đà vẹn tiếng vin rồng;
Chước bảo thân mượn dấu Hoàng Công, miền Bắc Thành tìm nơi ấp phượng.

Giá đã cao, nên dùng đỉnh công hầu;
Mình được nhẹ, nên tiêu dao ngày tháng.
Rỡ rỡ thư son khoán sắt, lời Nãi Ông dù trỏ núi thề sông;
Thênh thênh non đá am thông, thuyền tiên tử đã quen mây mến ráng.
Trót phải duyên cùng họ Hán mà theo;
Nên làm dấu lấy chữ Lưu kẻo đãng.
Đạo ấy, sá bàn chân với ngụy, đấng cao minh chi vướng sự hữu vô;
Lòng này, ai biết Hán hay Hàn, phải biện bạch kẻo thẹn cùng phủ ngưỡng.

Trần hiêu chẳng bận ấy thần tiên;
Thanh tĩnh góp dần nên đạo dưỡng.
Ngao ngán chè thông, rượu cúc, lọ chắt chiu hồ ngọc đầy vơi;
Thảnh thơi quạt gió, đèn trăng, mảy hiu hắt đan sa nấu nướng.
Bầu tiên, chén thánh mặc khề khà;
Khóa lợi, giàm danh nào dính dáng.
Tưởng lại lúc hươu lồng, khỉ tắm, dã trống Hàm Quan, lại chùy Cửu Lý, giận anh hùng từ đấy sạch lâng lâng;
Trông về khi trâu mỏi, ngựa già, kìa xe Vân Mộng, nọ án Thượng Lâm, lòng du tử ngẫm thay cười sang sảng.
Hà, Tham vị thứ, bọt nước lênh đênh;
Tín, Việt công danh, áng mây thấp thoáng.
Thua được thừa điều Hán, Sở, túi Xích Tùng đủng đỉnh mái thanh sơn;
Nhục vinh gác truyện Tiêu, Hàn, buồm Phạm Lãi nghênh ngang dòng bích lãng.

Ở giang hồ thì danh sĩ phong lưu;
Vào lăng miếu lại đại thần thể dạng.
Nghe văng vẳng chốn sa trung rục rịch, bảng lảng lừa then, rút máy, giải chúng tâm nâng một kẻ oán thù;
Thấy hiu hiu khi quốc bản lung lay, khoan thai rút cánh, kên lông, yên trừ vị vẫy bốn người dật khoáng.
Hay dùng nào hết chước huyền vi;
Khó giấu dễ hao cơ bí tạng.
Đi lại tha hương, cố quốc, lưới anh hùng khôn dò chốn thiểm thâm;
Ra vào đế tử, tiên ông, lồng trí thuật dễ ngự trong lai vãng.
Nghĩa thủy chung biện bạch cũng êm;
Đường tiến thoái thong dong chẳng vướng.
Một lần mộng dọc ngang trong tám cõi, đủ phê pha công Hán, nợ Hàn;
Ba tấc lưỡi đưa đẩy ngoại năm năm, vừa chọn vẹn thù Tần oán Hạng.
Ngẫm từ trên Trọng Liên, Phạm Lãi nào hơn;
So xuống dưới dẫu Lý Tĩnh, Khổng Minh chưa đáng.
Ngôi đế sư mà danh cao sĩ, ngoại vật há còn trong bụng, nghìn thu chữ thắm chẳng vàng phai;
Nền nho giả mà giá danh thần, chẳng tiên nhưng cũng khác phàm, muôn kiếp sử xanh còn để sáng.
Nay độc danh thần truyện, xem thượng hữu thiên;
Trách ai thượng hữu cổ nhân, sao chẳng nguyện hy Tử Phòng, mà lại nguyện hy[1] Gia Cát Lượng.



Nguyễn Hữu Chỉnh

1. Nguyện hy: xin bắt chước. Hán Sử: “Chí sĩ nguyện hy Gia Cát Lượng, bất nguyện hy Trương Tử Phòng”, nghĩa là người học trò có chí muốn bắt chước Gia Cát Lượng mà không bắt chước Trương Tử Phòng. Đây Hữu Chỉnh nói người đời nghĩ thế là không biết người.
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 1:44 pm

Tự biết mình


Ai có hay chăng là chẳng hay?

Lòng này vốn đã dạy thân này.

Kẻo lầm kẻo lỡ người yêu ghét,

Đà tỏ đà tường kẻ thảo ngay.

Xem nỗi thế thời[1], xem đã nhạt,

Bén mùi đạo lý, bén càng say.

Phải cơ, mới biết cơ trời nhiệm[2],

Có rủi, bằng dường[3] lại có may.




Nguyễn Hữu Chỉnh

1. Thế thời : tức là thời thế
2. Nhiệm: mầu nhiệm thần bí, không thể lường trước được
3. Bằng dường: dễ có khi

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 1:54 pm

Văn tế chị [1]


Than ôi!

Dòng nước chảy về đâu, biết có về Đông Hải vậy chăng?

Hồn phách chị ở đâu, biết có về Đông Hải vậy chăng? Hay là nơi Bồng hồ, Lãng uyển, hay là Tứ phủ, Thành đô?

Ao vàng khơi thẳm, biết là thăng giáng ở nơi nào, bui còn một chút hình hài đưa về cố hương, muôn nước nghìn non, xa khơi cách trở.

Ôi! Kiếp nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như lửa đá, như chiêm bao, giây phút nên không, dù nhẫn trăm năm cũng chăng mấy.

Thương thay chị, mới hai mươi chín tuổi, cũng là kiếp hoá sinh. Gửi mình vào tài tử mười ba năm, đã dốc một lời nguyền, song cay đắng có nhau, mà vinh hiển bao giờ chưa được thấy. Rơi máu ở nơi nhân gian năm bảy bận, chỉn còn hai chút gái, và sữa măng dường ấy, dù trưởng thành ngày khác cũng rằng không. Ôi! tạo vật làm sao, con người mà đến điều đau đớn thế! Bên trời góc bể, thân cố có ai, đất khách quê người, bui một chị một em, đã hình đơn bóng chếch.

Bát ngát thay! Cánh hoa trôi nước, chiếc nhạn về Nam.

Vậy thì chén đất vàng từ đây, nấm cỏ xanh từ đây, muôn ngìn kiếp cũng từ đây, thăm thẳm biết bao giờ lại thấy vậy chăng?

Giang Đình một lá, quải liệt đôi nơi. Chín suối là đâu? Có linh xin hưởng.





Nguyễn Hữu Chỉnh

1. Chị gái của Nguyễn Hữu Chỉnh là vợ của Phạm Nguyễn Du, một danh sỹ đương thời, người đồng hương (huyện Chân Phúc). Chị ông mất năm hai mươi chín tuổi, làm vợ Phạm Nguyễn Du mười ba năm.
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh EmptyThu Sep 27, 2012 1:59 pm

Vịnh pháo


Pháo mới kêu to một tiếng đùng,

Hỡi ơi xác pháo đã tan không.

Tiếc thay thân pháo không còn nữa,

Nhưng đã tan ra vạn sắc hồng.


hay:


Giấy xanh giấy đỏ cậy tay người

Bao nả công trình tạch cái thôi!

Kêu lắm lại càng tan xác lắm

Trước sau cũng một tiếng trên đời...




Nguyễn Hữu Chỉnh

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Nguyễn Hữu Chỉnh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Hữu Chỉnh   Nguyễn Hữu Chỉnh Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Nguyễn Hữu Chỉnh
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Nguyễn Công Trứ
» Nguyễn Hữu Huân
» Lý Bạch
» Nguyễn Khuyến
» Nguyên Sa

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Thơ Tuyển Việt Nam :: Nhà Tây Sơn - Cận đại (1778 - 1930)-
Chuyển đến