Dương Bá Trạc(1884-1944)(Ảnh chụp trước lúc mất một tháng do
ông Trần Trọng Kim đem từ Chiêu Nam về) Vài nét về tác giả:Chí sĩ
Dương Bá Trạc, hiệu Tuyết Huy, quê ở làng Phú Thị, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, nay là huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Ông là anh ruột của
Dương Quảng Hàm,
Dương Tụ Quán là hai nhà giáo tiến bộ thời cận đại. Năm Canh Tý (1900), ông đỗ cử nhân lúc 16 tuổi, nhưng không ra làm quan, suốt đời lo việc nước, gặp nhiều gian khổ mà vẫn không nản chí.
Năm Giáp Thìn (1904), ông cùng Phan Châu Trinh vào mật khu Yên Thế bàn việc nước với Hoàng Hoa Thám. Sau đó, ông cùng các đồng chí đảm nhận việc giảng dạy ở trường Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội.
Năm Mậu Thân (1908), ông bị Pháp bắt và kết án 15 năm biệt xứ đày đi Côn Đảo.
Được mấy năm, chúng đưa ông về an trí tại Long Xuyên, đến năm 1917 mới trả tự do.
Trước kia, ông cùng Lương Trúc Đàm tổ chức diễn thuyết ở đền Ngọc Sơn tại Hà Nội hô hào bỏ lối học khoa cử, noi gương Nhật Bản duy tân tự cường. Khi tham gia phong trào Duy Tân, ông cùng Phạm Tư Trực, Lương Trúc Đàm, Lê Đại, Võ Hoành... có chân trong ban soạn sách giáo khoa. Toàn quyền Albert Sarraut nhiều lần mua chuộc, bổ ông làm Tri huyện, nhưng ông vẫn khảng khái từ chối.
Khi quân đội Nhật vào Đông
Dương, ngày 29-10-1943, ông bị chúng đưa sang Singapore. Đến năm 1944, ông bị bệnh ung thư và mất tại đó (ngày 26 tháng 10 năm Giáp Thân tức 11 tháng 12 năm 1944). Sau đó, thi hài ông được hỏa táng để đem về nước.
Ngày 17 tháng 3 năm 1945, trong lễ truy điệu các liệt sĩ tại Nhà hát lớn Hà Nội, ở bài điếu văn, người ta liệt tên
Dương Bá Trạc cùng với tên hai nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Ngày hôm sau, lúc năm giờ chiều, Hội Phật giáo Bắc Kỳ làm lễ truy điệu ông tại chùa Quán Sứ. Cùng ngày ấy, tại Sài Gòn, rất đông các nhân sĩ, trí thức và đồng bào cũng làm lễ truy điệu ông tại vườn ông Thượng (nay là Công viên Tao Đàn).
Tác phẩm:Văn xuôi:Hai tác phẩm mang tính chất giảng học:- Chữ Nho học lấy
- Gia lễ giản yếu
Hai tập văn:- Tiếng gọi đàn (Nghiêm Hàm, Hà Nội, 1925)
- Bức thư ngỏ cùng quan Tổng trưởng thuộc địa
Thơ:- Trai lành gái tốt (Nghiêm Hàm ấn thư quán xuất bản, Hà Nội, 1924)
- Nét mực tình (Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 1937)
Các thể loại khác:Đăng tải nhiều kỳ trên các báo, theo các chủ đề:- Việt sử khảo
- Việt sử luận
- Khảo cứu về sự thi ở nước ta
- Bàn về vấn đề học chữ Hán
Ngoài ra, ông còn viết những bài xã thuyết (có tính cách luân lý, xã hội hay liên quan đến kinh tế, chính trị đương thời), nhiều câu đối, dịch Hán văn và viết ký truyện.
Nguồn internet