Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Gửi em ở cuối sông Hồng
Nguyễn Trãi EmptyFri Feb 17, 2023 8:01 am by Vân Nhi

» Tôi đi học
Nguyễn Trãi EmptySat Sep 07, 2019 4:23 pm by Vân Nhi

» Trần Hưng Đạo
Nguyễn Trãi EmptyWed Jun 06, 2018 4:53 pm by Vân Nhi

» Huyền Chi
Nguyễn Trãi EmptyMon Jun 04, 2018 4:35 pm by Vân Nhi

» Guitar đường phố: đỉnh của đỉnh
Nguyễn Trãi EmptyTue May 29, 2018 7:45 am by Vân Nhi

» Quan Âm Thị Kính
Nguyễn Trãi EmptyFri May 25, 2018 2:02 pm by Vân Nhi

» Thanh Tịnh
Nguyễn Trãi EmptyMon May 21, 2018 3:25 pm by Vân Nhi

» Thuyền viễn xứ
Nguyễn Trãi EmptyThu May 03, 2018 2:19 pm by Vân Nhi

» Xuân Tâm
Nguyễn Trãi EmptyThu Jul 06, 2017 1:49 pm by Vân Nhi

April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
CalendarCalendar
Most Viewed Topics
Lý Bạch
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Khuyến
Bùi Giáng
Vũ Hoàng Chương
Đoạn Trường Tân Thanh
Đại Nam Quốc Sử diễn ca
Chế Lan Viên
Trần Tế Xương
Quách Tấn
Keywords
Thiên Liên trường nhân Trần Lược thảm Xương Khuyến đoạn Trọng những Chỉnh dũng nhất công trinh Đường thầy Luật xuân Pháp phan miền quách nguyễn

 

 Nguyễn Trãi

Go down 
Tác giảThông điệp
Vạn Xuân
Biết nhậu
Biết nhậu
Vạn Xuân


Tổng số bài gửi : 191
Points : 244
Thanks : 9
Join date : 26/12/2012

Nguyễn Trãi Empty
Bài gửiTiêu đề: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyWed Jan 02, 2013 9:03 am

Nguyễn Trãi
(1380–1442)

Nguyễn Trãi Nguyentrai

Nguyễn Trãi - anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa của Việt Nam và thế giới
Vài nét về tác giả:

Nguyễn Trãi (阮廌) sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai (抑齋), quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một quý tộc đời Trần.

Nguyễn Trãi có bốn người em theo thứ tự: Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng

Nhưng chưa được bao lâu thì bà Trần Thị Thái qua đời, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên , ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 - 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442.

Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, Tháng 8 năm 1464, Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, rồi lại truy tặng tước hiệu Thái Sư Tuệ Quốc Công, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống, bèn được nhà vua bổ nhiệm làm Tri huyện. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi.

Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu, chế văn truy tặng có câu:
“Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên
Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế"


Dịch là:

Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ
Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau


Sự nghiệp văn chương:

Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác văn chương, cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi... song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Các tác phẩm còn lại đến nay của ông, phần lớn được sưu tập và tập hợp trong bộ Ức Trai di tập của Dương Bá Cung, được khắc in vào năm 1868 đời nhà Nguyễn.

Văn chính luận:

- Quân trung từ mệnh tập là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, từ năm 1423 đến năm 1427. Bản khắc in năm 1868 chỉ ghi lại được 46 văn kiện. Năm 1970, nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp phát hiện thêm 23 văn kiện nữa do Nguyễn Trãi viết gửi cho tướng nhà Minh[68].
Bình Ngô đại cáo
- Một số bài chiếu, biểu viết dưới thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông (1433 - 1442)

Lịch sử

- Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề tác giả của trước tác này vẫn còn chưa rõ ràng, dù cho đến nay nhiều người khẳng định rằng Lam Sơn thực lục là tác phẩm do Nguyễn Trãi nhưng điều đó vẫn chỉ mang tính phỏng đoán.
Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn năm 1433
- Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia ở Vĩnh Lăng - lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ.

Địa lý:

- Dư địa chí là bộ sách về địa lý học cổ nhất còn lại của Việt Nam.

Thơ phú:

- Ức Trai thi tập là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ, trong đó có bài Côn Sơn ca nổi tiếng.
- Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục : Vô đề (192 bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài). Đây là tập thơ nôm xưa nhất của Việt Nam còn lại đến nay. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt Nam.
- Chí Linh sơn phú là bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422.
- Băng Hồ di sự lục là thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi làm vào năm 1428, kể về cuộc đời Trần Nguyên Đán.
- Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có một số tác phẩm khác như Ngọc đường di cảo, Thạch khánh đồ, Luật thư, Giao tự đại lễ nhưng đều không còn lại đến ngày nay.

Nguồn: tổng hợp internet

Về Đầu Trang Go down
Vạn Xuân
Biết nhậu
Biết nhậu
Vạn Xuân


Tổng số bài gửi : 191
Points : 244
Thanks : 9
Join date : 26/12/2012

Nguyễn Trãi Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyTue Jan 15, 2013 2:16 pm

Thư mục
VXTĐ: Các bài thơ của danh nhân Nguyễn Trãi được trích từ cuốn "Nguyễn Trãi toàn tập", tác giả Đào Duy Anh, NXB Khoa học Xã hội, In lần thứ 2 - 1976. Phần số hóa chép lại từ một số trang trên internet. VXTĐ cũng ghép thêm những bản dịch của các tác giả khác và sẽ chú thêm
Ức trai thi tập
Thơ làm trong khi chưa thành công
  • Lâm cảng dạ bạc
  • Loạn hậu cảm tác
  • Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác
  • Long Đại Nham
  • Quan hải
  • Quy Côn Sơn chu trung tác
  • Tặng hữu nhân
  • Thần Phù hải khẩu
  • Thanh minh
  • Thính vũ
  • Thôn xá thu châm
  • Thu dạ khách cảm(I)

  • Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
  • Đề Thạch Trúc oa
  • Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự
  • Đoan Ngọ nhật
  • Dục Thúy sơn
  • Hạ quy Lam Sơn kỳ 1
  • Hạ quy Lam Sơn kỳ 2
  • Hạ tiệp kỳ 1
  • Hạ tiệp kỳ 2
  • Hạ tiệp kỳ 3
  • Hạ tiệp kỳ 4
  • Ngẫu thành
    Oan thán
  • Quá Thần Phù hải khẩu
    Quan duyệt thủy trận
    Thứ Cúc Pha tặng thi
    Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thuỷ đồng phú
    Thu dạ khách cảm
    Thứ vận Trần thượng thư đề Nguyễn bố chánh thảo đường
    Thượng nguyên hộ giá chu trung tác
    Tĩnh Yên vãn lập
    Tức sự
    Vân Đồn
    Vọng Doanh
    Thơ tỏ ý chán nản và muốn về nghỉ

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyTue Jan 15, 2013 3:07 pm

    Trích: Lời dẫn về hai tập thơ "Ức trai thi tập" và "Quốc âm thi tập"

    - Nhân kỳ tái bản "Nguyễn Trãi toàn tập"
    Sau khi Nguyễn Trãi toàn tập xuất bản năm 1969, do sự góp ý kiến của một số bạn đọc và do sự tiếp tục nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy cần phải chỉnh lý bản phiên dịch Ức trai thi tập và bản phiên âm Quốc âm thi tập, và nhân dịp tái bản này, chúng tôi xin viết lại lời dẫn về hai tập thơ ấy.

    Trước hết xin nói về Ức trai thi tập

    Theo Nghệ văn chí trong sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn ở cuối đời Lê thì Ức trai thi tập của Nguyễn Trãi gồm ba quyển, do Lê Khắc Tiệm biên thứ và đề tựa năm Hồng Đức 11 (1480). Có lẽ đó là tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi được sưu tập sau khi có lệnh của vua Lê Thánh Tôn năm Quang Thuận thứ 8 (1467). Văn Tịch Chí trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ở đầu đời Nguyễn cũng nói về Ức trai thi tập như thế. Nhưng hiện nay thì tập ấy đã mất rồi.

    Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi chỉ còn lại rải rác trong các tập như sau:

    Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên soạn năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), theo mục lục ở đầu sách có chép 38 bài thơ của Nguyễn Trãi song hiện nay tại Thư viện khoa học xã hội sách ấy chỉ còn một tập 3 quyển I, II, II (bản in năm 1779), còn quyển V chép các bài thơ của Nguyễn Trãi thì chưa tìm thấy. Sau đó thì Tinh tuyển chủ gia luật thi do Dương Đức Nhân thời Lê Thánh Tôn biên tập; theo bản in thời Lê còn lại tại Thư viện khoa học xã hội, quyển IV có chép 52 bài thơ của Nguyễn Trãi mà bản Tinh tuyển chủ gia luật thi chép tay cũng như của Thư viện khoa học xã hội thì lại có đến 57 bài. Sưu tập được thơ Nguyễn Trãi nhiều nhất phải kể Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn thu được đến 105 bài, 2 bài về cổ thể và 103 bài cận thể tức Đường luật. Bản Ức trai thi tập trong Ức trai di tập do Dương Bá Cung là người cùng làng với Nguyễn Trãi sưu tập năm Tự Đức thứ 21 (1868) cũng chỉ thu được 105 bài, đúng như những bài của Lê Quý Đôn đã thu trong Thi lục thôi. Đó là nội dung chính của Ức trai thi tập hiện nay.

    Ngoài các bản ấy ra, thư viện của Viện Sử học có có một bản Ức trai thi văn tập chép tay, nó chỉ có bài tựa của Nguyễn Năng Tĩnh viết năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) mà không có các bài tựa sau nên chúng tôi đoán rằng bản ấy do Nguyễn Năng Tĩnh sưu tập. Bản ấy có đến 109 bài thơ, nhưng trong số ấy có bốn bài "Vũ trung mai", "Ngự câu liễu", "Ma nhai bi", "Mạn thuật" không có trong Thi lục của Lê Quý Đôn và trong Di tập của Dương Bá Cung, còn 105 bài thì chính cũng là những bài do họ Lê và họ Dương đã chép. Vì lời thơ và tứ thơ của bốn bài ấy khác hẳn các thơ của Nguyễn Trãi, chúng tôi ngờ rằng đó không phải là của Nguyễn Trãi thực. Đến như 14 bài thơ của Nguyễn Trãi chép trong Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích thì đều là trích ở Thi lục mà thôi.

    Đó là đại khái tình hình hiện nay của thi tập chữ Hán của Nguyễn Trãi.

    Trong tập thơ chữ Hán này có một số bài có quan hệ với những cảnh và người ở Trung Quốc.

    Trong quốc sử cũng như trong gia phả, không thấy nói đến việc Nguyễn Trãi đi Trung Quốc, cho nên đối với những bài thơ ấy người ta vẫn hoài nghi. Chúng tôi căn cứ ba điểm sau đây để nêu lên ức thuyết rằng một số trong những bài này có khả năng là của Nguyễn Trãi.

    Một là, có thể ngờ rằng những bài thơ ấy là của một sứ giả Việt Nam nào làm. nhưng xét hành trình theo thứ tự của các bài thơ thì không phải là hành trình của các sứ giả Việt Nam từ đời Lê về sau, do Lạng Sơn đi Bắc Kinh, cũng không phải là hành trình các sứ giả thời Lý - Trần theo để sang Biện Kinh của nhà Tống cùng Yên Kinh của nhà Nguyên.

    Hai là, trong những bài thơ đó có những lời chứng tỏ rằng tác giả còn là thanh niên mà đi có vẻ tự do, điều ấy cũng loại trừ cả khả năng ngờ rằng đó là thơ của Nguyễn Phi Khanh hay của một người khác trong các quan nhà Hồ bị bắt giải về Trung Quốc, mặc dầu có những câu, những chữ, những ý xem như giống thơ của Nguyễn Phi Khanh.

    Ba là, tứ thơ và lời thơ hoàn toàn nhất trí với những bài thơ khác của Nguyễn Trãi, chữ Hán cũng như quốc âm. Ví như bài "Du Nam Hoa tự" có câu: "Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy, Tày tận nhân gian kiếp kiếp trần", giống hệt câu thơ quốc âm (bài 64) "Tào Khê rửa ngàn tầm suối, Sạch chẳng còn một chút phàm".

    Ở đây chúng tôi chỉ nêu lên ức thuyết rằng những bài thơ có quan hệ với việc đi Trung Quốc ấy có thể là của Nguyễn Trãi thực, để căn cứ vào đó mà xếp những bài thơ ấy làm một phần của thi tập Nguyễn Trãi mà đặt ở sau. Còn như Nguyễn Trãi đi Trung Quốc khi nào? để làm gì? thì đó lại là vấn đề khác. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên ý kiến vắn tắt rằng, nếy Nguyễn Trãi đi Trung Quốc thì có khả năng là ở hai trường hợp.

    1. Trong phần "Sự trạng" của Ức Trai di tập do Dương Bá Cung soạn có nói rằng: "Trong cuộc nổi loạn người Minh, ba cha con Nguyễn Trãi bị bắt đem về điếm Vạn Sơn (thuộc tình Hồ Bắc). Cha bảo ông rằng: Cha già rồi, để cho em con đi thôi ...". Theo tài liệu ấy thì ông đã được theo cha sang Trung Quốc và đã ở Vạn Sơn một thời gian, vì không phải là tù nên có thể ở lại hay trở về tùy ý.

    2. Cũng có thể là trong khi bắt đầu cuộc vận động khôi phục nhà Trần, các sĩ phu và đầu mục trong nước thấy Trương Phụ và Hoàng Phúc không thể tin được để thực hiện lời hứa của nhà Minh tìm lập con cháu họ Trần, Nguyễn Trãi là người thanh niên cựu gia có chí khí đã được các bạn đồng chí cử đi để tìm cách đến Kim Lăng mà đề đạt ý nguyện ấy với vua Minh.

    Những ý kiến này chúng tôi đã nêu lên trong bài "Nguyễn Trãi có sang Trung Quốc hay không?" đăng trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 128 năm 1969.

    Trong sơ bản của Nguyễn Trãi toàn tập chúng tôi dịch cả 17 bài để ở phần này, nay thấy có 5 bài "Tặng Khổng Nhan Mạnh", "Thiều Châu tức sự", "Đề Nam Hoa thiền phòng", "Đề Lư thi gia phả", "Lam quan hoài cổ" chắc chắn là thơ người khác chép lộn vào, chúng tôi bỏ đi không dịch, còn lại 12 bài. Ở phần thơ làm sau khi thành công có một bài "Lãnh noãn tịch" có lẽ cũng là thơ của người khác bỏ lộn vào, cũng bỏ không dịch, chỉ để lại 31 bài.

    Trong suốt thời Pháp thuộc, thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi chỉ được Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch một số ít bài in trong các sách Nguyễn Trãi (Tân Dân, 1941) và Ức Trai thi văn tập (Lê Cường, 1945). Mãi đến sau Cách mạng tháng Tám thì thơ của Nguyễn Trãi mới được phiên dịch toàn bộ để công bố tức bản Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi do nhà Xuất bản Văn hóa xuất bản năm 1962. Chúng tôi thấy bản dịch của nhà Xuất bản Văn hóa còn mấy chỗ chưa ổn: nhiều bài chỉ được dịch nghĩa xuôi mà không được dịch thành thơ; nhiều bài được dịch theo thể lục bát hay thể song thất lục bát mà không theo thể nguyên tác; có đôi chỗ chữ chép sai của bản chữ Hán chưa được đính chính; có đơi bài ý nghĩa còn bị nhận sai. Chúng tôi nghĩ rằng một bản văn cổ có thể có nhiều bản dịch bổ sung cho nhau, cho nên chúng tôi đã đem thi tập chữ Hán của Nguyễn Trãi mà dịch lại.

    Chúng tôi lấy bản của Dương Bá Cung làm căn cứ. Bản này cũng như các bản in hay chép tay khác đã kể ở trên đều có những chữ sai lầm. Công Việc đầu tiên chúng tôi phải làm là hiệu đính bản của Dương Bá Cung bằng cách đối chiếu nó với các bản khác để khi nào có chỗ dị đồng thì chọn lấy chữ nào mà chúng tôi cho là đúng. Cũng có những chữ mà chúng tôi nhận định rằng các bản do tình trạng chép lại lẫn nhau đều chép sai cả, như thế thì chúng tôi bằng theo ý nghĩa hay văn lý mà đính chính lại. Về trường hợp nào chúng tôi cũng có chú thích ở sau.

    So ba bản đầy đủ là bản của Lê Quý Đôn, bản của Nguyễn Năng Tĩnh và bản của Dương Bá Cung thì thấy thứ tự các bài ở mỗi bản một khác (hai bản sau thì gần nhau hơn). Để giúp cho độc giả dễ lĩnh hội, chúng tôi theo nội dung các bài mà sắp xếp lại, đại khái theo năm phần như sau:
    1. Thơ làm trong khi chưa thành công
    2. Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    3. Thơ tỏ ý chán nản và muốn về nghỉ
    4. Thơ làm trong thời ở ẩn tại Côn Sơn
    5. Thơ làm trong thời đoán là sang Trung Quốc
    Cả thảy 99 bài
    Tháng 4 năm 1975
    Đào Duy Anh

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyThu Jan 17, 2013 9:41 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Hạ nhật mạn thành (I)

    Bản chữ Hán

    夏日漫成

    傳家舊業只青氈,
    離亂如今命苟全。
    浮世百年真似夢,
    人生萬事總關天。
    一壼白酒消塵慮,
    半榻清風足午眠。
    惟有故山心未斷,
    何時結屋向梅邊。
    Phiên âm Hán Việt

    Hạ nhật mạn thành (I)

    Truyền gia cựu nghiệp chỉ thanh chiên,
    Ly loạn như kim mệnh cẩu tuyền.
    Phù thế bách niên chân tự mộng,
    Nhân sinh vạn sự tổng quan thiên.
    Nhất hồ bạch tửu tiêu trần lự,
    Bán tháp thanh phong túc ngọ miên.
    Duy hữu cố sơn tâm vị đoạn,
    Hà thì kết ốc hướng mai biên.
    Dịch nghĩa

    Ngày hạ làm chơi (I)

    Sản nghiệp cũ nhà truyền lại chỉ có tấm chiên xanh
    Ly loạn mà thân này tạm được toàn vẹn
    Cuộc đời trăm năm bềnh bồng như giấc mộng
    Muôn việc ở đời đều do lòng trời
    Một bầu rượu trắng đủ tiêu niềm tục luỵ
    Nửa giường gió mát cũng đủ để ngủ trưa
    Chí có núi quê là lòng luôn nhớ không dứt
    Bao giờ mới được (về) cất nhà bên gốc mai ?


    Các bản dịch thơ

    Ngày hạ làm chơi(I) [1]

    Truyền gia nghiệp cũ chiếc chiên[2] thôi,
    Loạn lạc mà nay sống tạm rồi.
    Cõi thế trăm năm âu giấc mộng;
    Cuộc đời muôn việc thảy lòng trời.
    Rượu suông một nậm sầu tiêu hết;
    Gió mát lưng giường trưa ngủ chơi.
    Bui[3] có non quê lòng chửa dứt;
    Bao giờ lều chụm[4] cạnh chồi mai?


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Chăn xanh một tấm, của lưu nhà
    Ly loạn thân này tạm vượt qua
    Trôi nổi trăm năm đời mộng ảo
    Nên hư vạn sự ý trời già
    Rượu đầy hũ, tan cơn sầu muộn
    Gió nửa giường, ngon giấc ngủ trưa
    Duy có non quê là nhớ mãi
    Chừng nao lều được cất bên hoa?

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Nghiệp xưa truyền lại chăn xanh,
    Loạn ly nay mạng vẫn lành vẹn thôi.
    Trăm năm trôi nổi mộng đời,
    Đời người muôn việc, trời cao sắp bày.
    Âu lo - bầu rượu tiêu ngay,
    Nửa giường gió mát đủ vầy giấc trưa!
    Chẳng nguôi lòng với non xưa,
    Mái nhà dựng được bao giờ bên mai?!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    1. Trong tập có bài trùng tên, theo thứ tự sắp xếp, đánh thêm số để phân biệt.
    2. Chiên: Sách Tân thư chép một đêm có kẻ trộm vào trộm nhà Vương Hiến Chi, lấy hết, Vương thong thả bảo bọn kẻ trộm rằng: "Kẻ trộm này, cái chiên xanh là của gia truyền của ta, riêng cái ấy đừng có lấy nhé". Sau đó người ta dùng chữ thanh chiên để chỉ nhà Nho nghèo.
    3. Bui: dịch chữ Duy nghĩa là chỉ có, theo từ chính Nguyễn Trãi hay dùng trong Quốc âm thi tập.
    4. Chụm: Chụm lều là làm nhà tranh. Từ Chụm, Nguyễn Trãi hay dùng trong Quốc âm.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyThu Jan 17, 2013 10:30 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (I)

    Bản chữ Hán

    海口夜泊有感

    一別江湖數十年,
    海門今日繫吟船。
    波心浩渺滄洲月,
    樹影參差漵浦煙。
    往事難尋時易過,
    國恩未報老堪憐。
    平生獨抱先憂志,
    坐擁寒衾夜不眠。
    Phiên âm Hán Việt

    Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (I)

    Nhất biệt giang hồ sổ thập niên,
    Hải môn kim nhật hệ ngâm thuyền.
    Ba tâm hạo diểu thương châu nguyệt
    Thụ ảnh sâm si tự phố yên.
    Vãng sự nan tầm thời dị quá.
    Quốc ân vị báo lão kham liên.
    Bình sinh độc bão tiên ưu chí,
    Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên.
    Dịch nghĩa

    Đêm đậu thuyền ở cửa biển (I)

    Từ ra đi khoảng giang hồ đã mấy chục năm
    Cửa biển tối nay mới buộc thuyền thơ
    Lòng nước mênh mông, trăng chiếu trên bãi;
    Bóng cây so le, mặt vụn khói lồng.
    Việc xưa khó tìm, thời dễ qua mau lắm;
    Ơn nước chưa đền, mà đã già đáng thương.
    Bình sinh một mình ôm cái chí lo truớc;
    Ngồi ôm chăn lạnh không ngủ suốt đêm.


    Các bản dịch thơ

    Đêm đậu thuyền ở cửa biển (I) [1]

    Giang hồ lưu lạc mấy mươi niên[2],
    Cửa biển đêm nay lại buộc thuyền.
    Mặt sóng mênh mông trăng bãi chiếu,
    Ánh cây mờ tỏ khói duềnh lên.
    Việc xưa qua bóng khôn dìu lại,
    Ơn nước thương già[3] chửa báo đền.
    Lo trước[4] bình sinh ôm một chí,
    Thức chong ngồi lạnh chỉ ôm chiên.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Mấy mươi năm lưu lạc giang hồ
    Cửa biển thuyền đêm neo ý thơ
    Lòng nước mênh mang, trăng bãi lạnh
    Bóng cây lố nhố, bến sông mờ
    Tháng ngày lụn, khó ôn điều cũ
    Tuổi tác lên, đau nợ nước nhà
    Một chí "tiên ưu" đời giữ mãi
    Quấn chăn ngồi rét đợi đêm qua.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Mười năm giã biệt sông hồ,
    Giờ neo cửa biển thuyền thơ đêm này.
    Lòng sông, bãi rộng trăng bày,
    Nhấp nhô bến nước bóng cây khói vời.
    Chuyện xưa tìm khó, ngày trôi,
    Chưa đền ơn nước, xót người tuổi cao.
    Một đời “lo trước” giữ vào,
    Ôm chăn ngồi thức đêm thâu lạnh lùng!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    VXTĐ: 1. Trong tập có bài trùng tên, theo thứ tự sắp xếp, đánh thêm số để phân biệt.
    Sđd: 2. Cũng khó đoán lúc nào; phải chăng viết vào khoảng đương tham gia chiến đấu, khi gần thành công, từ Thanh Hóa hay Nghệ An vượt biển ra Thăng Long
    3. Già: Các bản chép là "giả (者) kham liên", chúng tôi tưởng chữ lão (老) đã bị chép lẫn thành chữ giả (者) nên sửa lại dịch là già.
    4. Lo trước: Chữ Hán là "tiên ưu". Phạm Trọng Yêm là danh sĩ đời Tống, có tiếng về khí tiết, từng nói rằng: "Tất kỳ tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc", nghĩa là lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyThu Jan 17, 2013 11:14 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Hoạ Tân Trai vận

    Bản chữ Hán

    和新齋韻

    風流郡守文章伯,
    喬木能憐我故家。
    信美江山詩易就,
    無情歲月眼將花。
    干戈十載親朋少,
    宇宙千年變故多。
    客舍香塵春晝永,
    騰騰清夢繞煙波。
    Phiên âm Hán Việt

    Hoạ Tân Trai vận

    Phong lưu quận thú văn chương bá,
    Kiều mộc năng liên ngã cố gia.
    Tín mỹ giang sơn thi dị tựu,
    Vô tình tuế nguyệt nhãn tương hoa.
    Can qua thập tải thân bằng thiểu,
    Vũ trụ thiên niên biến cố đa.
    Khách xá hương trần xuân trú vĩnh,
    Đằng đằng thanh mộng nhiễu yên ba.
    Dịch nghĩa

    Họa vần Tân Trai

    Quận thú người phong lưu, đàn anh trong chốn văn chương
    Lượng như cây cao thương ta là con nhà cũ.
    Non sông vẫn đẹp lắm, hứng thơ dễ đến;
    Năm tháng luống vô tình, khiến mắt sắp lòa.
    Mười nămcan qua bà con bạn bè đều ít;
    Nghìn năm trong vũ trụ biến cố xảy nhiều,
    Giữa hương trầm nơi quán khách, ngày xuân dài mãi;
    Mộng nhẹ vượt xa quanh quất chỗ sóng mây (chỗ ẩn dật).


    Các bản dịch thơ

    Họa vần Tân Trai

    Quận thú[1] phong lưu văn cự phách[2],
    Cây cao[3] thương tớ vốn nhà xưa[4].
    Non sông thật đẹp thơ mau hứng,
    Ngày tháng vô tình mắt sắp mờ.
    Vũ trụ nghìn năm tang hải lắm[5],
    Can qua một cuộc quyến bằng thưa[6].
    Hương trầm[7] quán khách ngày xuân diễn[8],
    Giấc mộng yên ba[9] cứ vẩn vơ.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Phong lưu quận thú hàng văn bá
    Cổ thụ xui tôi nhớ cảnh nhà
    Xinh đẹp non sông, thơ dễ gợi
    Vô tình năm tháng mắt gần hoa
    Mười năm ly loạn thân bằng thiếu
    Chẳng tận càn khôn biến cố thừa
    Nhuốm bụi hồng thơm xuân quán khách
    Mộng luôn quất quít chốn yên hà.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Văn chương quận thú đứng đầu,
    Khiến ta quê cũ cây cao thấu lòng,
    Đẹp bày sông núi: thơ xong,
    Vô tình năm tháng mắt trông sắp mờ.
    Mười năm loạn, bạn còn sơ,
    Ngàn năm vũ trụ rủi ro nhiều rồi!
    Mùa xuân quán khách hương đời,
    Lâng lâng mộng nhẹ khói vời sóng quanh.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Quận thú: Chức thái thú một quận, chức tri phủ.
    2. Cự phách: chỉ người đàn anh, dùng để dịch chữ bá là đàn anh.
    3. Cây cao: Chữ Hán "kiều mộc", cây cao bóng cả chỉ người lớn, người trên bảo hộ người dưới.
    4. Nhà xưa: Chữ Hán là "cố gia", nhà cũ, nhà xưa, chỉ con nhà danh vọng đời trước.
    5 & 6: Tang hải: Dâu bể, tức là biến cố lớn - Quyến bằng: Bà con bạn bè - Vì vần hai câu 5,6 chúng tôi phải dịch đảo với nhau.
    7. Hương trần: Từ nhà Phật, một cảnh trong sáu cảnh "lục trần"; chỉ các hương vị thơm tho, từ mùi hương đốt hay xong cho thơm, mùi bách ,mùi trầm, mùi xạ, mùi lan, hương đàn ông đàn bà xức mình và ướp quần áo, cho đến hương vị đồ ăn uống, xem như bụi bặm làm nhơ lòng thanh tĩnh.
    8. Diễn: nghĩa là xa, là dài, ngày diễn là ngày dài. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi bài 154 có câu: "Cuộc lần cờ thấp tan ngày diễn".
    9. Yên ba: Khói và sóng. Trương Chí Hòa người Trung Quốc đời Đường từ quan về ẩn, ở trong khoảng giang hồ, tự hiệu Yên Ba điếu đồ.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyThu Jan 17, 2013 3:19 pm

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Ký cữu Dịch Trai Trần Công

    Bản chữ Hán

    寄舅易齋陳公

    兵餘親戚半離零,
    萬死殘軀偶一生。
    往事空成槐國夢,
    別懷誰寫渭楊情。
    不來自擬同王式,
    避亂終當學管寧。
    欲問相思愁別處,
    孤齋風雨夜三更。
    Phiên âm Hán Việt

    Ký cữu Dịch Trai Trần Công

    Binh dư thân thích bán ly linh,
    Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh.
    Vãng sự không thành Hoè quốc mộng,
    Biệt hoài thuỳ tả Vị Dương tình.
    Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức,
    Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh.
    Dục vấn tương tư sầu biệt xứ,
    Cô trai phong vũ dạ tam canh.
    Dịch nghĩa

    Gửi cậu Dịch Trai Trần Công

    Sau cuộc binh hỏa, thân thích đã rơi rụng một nửa;
    Trải muôn chết thân tàn ngẫu nhiên còn sống.
    Việc cũ xưa đã thành giấc mộng Hoè quốc;
    Nhớ xa nhau ai tả được mối tình Vị Dương
    Không đến những tưởng giống như Vương Thức;
    Tránh nạn rốt cuộc nên theo Quản Ninh.
    Muốn hỏi chỗ nhớ nhung sầu biệt (của tôi)?
    Ấy là một phòng vắng gió mưa suốt ba canh.


    Các bản dịch thơ

    Gửi cậu Dịch Trai Trần Công

    Loạn xong thân thích mấy còn ai?
    Chết hụt thân tàn bỗng sót tôi.
    Hoè mộng[1] đã đành quên vãng sự;
    Vị dương[2] khôn xiết tả ly hoài[3].
    Nghĩ như Vương Thức không sang được[4],
    Đành học Quản Ninh[5] tránh loạn thôi.
    Sầu biệt tương tư dù hỏi chốn;
    Gió mưa phòng vắng suốt đêm côi.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Sau loạn, bà con mất nửa phần
    Nạn nhiều, sống sót, quả thiên ân
    Chuyện qua nào khác mơ Hòe quốc
    Đất Vị đành đau nỗi cách phân
    Vương Thức từng ngưng lời trực gián
    Quản Ninh đà dạy chước an thân
    Mối sầu tự dỗ nơi xa xứ
    Phòng quạnh, đem mưa gió chuyển vần.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Người thân sau loạn chia lìa,
    Vạn lần suýt chết thân kia may còn.
    Mộng Hòe, việc cũ không xong
    Xa nhau ai tả tình nồng Vị Dương !?
    Không về, nghĩ giống họ Vương,
    Quản Ninh tránh loạn, học cùng ông thôi
    Nhớ quê xa hỏi sầu khơi,
    Phòng đơn mưa gió tơi bời ba canh.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Hòe mộng: Chuyện người nằm ngủ trưa dưới gốc hòe mơ thấy mình được phú quí ở nước Hòe An, tỉnh mộng thấy phú quí mất cả. Cũng gọi là mộng Nam Kha. VXTĐ: Xem thêm Giấc Nam Kha
    2. Vị dương: Bài "Vị dương" Kinh Thi có câu Ngã tống cậu thị, viết chí Vị dương" (Ta đưa cậu ta, bảo đến Vị dương). Đó là bài thơ Tần Khang công đưa Tấn Văn công về nước, Văn công là cậu Khang công nên sau người ta dùng chữ "Vị dương tình" để chỉ tình cậu cháu.
    3. Chúng tôi theo bản Thị lục chép là "biệt hoài". Bản Dương Bá Cung chép lẫn là "biệt lân 別憐" có lẽ sai.
    4. Vương Thức: Người Trung Quốc đời Hán, làm thầy dạy Xương Ấp vương. Xương Ấp vương nối ngôi vì hoang dâm mà bị phế, vua sai sứ giả đến hỏi sao thầy học không biết can, trả lời rằng dạy mấy trăm bài Kinh Thi là can rồi đó; được khỏi tội; sau được trúng làm bác sĩ, bị Giang công làm nhục, cáo bệnh xin miễn quan về nhà - "Không sang được", tức là ở bên này không sang được bên ấy, vì có giặc ở đó.
    5. Quản Ninh: Người Trung quốc đời Hậu Hán, tránh loạn "Hoàng Cân" sang ở Liêu Đông, người đi theo rất đông, ờ thành ấy đem Thi Thư dạy học, triều đình gọi không về.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyThu Jan 17, 2013 4:07 pm

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Ký hữu (I)

    Bản chữ Hán

    記友

    半生世路嘆屯邅,
    萬事惟應付老天。
    寸舌但存空自信,
    一寒如故亦堪憐。
    光陰焂忽時難再,
    客舍凄涼夜似年。
    十載讀書貧到骨,
    盤惟苜蓿坐無氈。
    Phiên âm Hán Việt

    Ký hữu (I)

    Bình sinh thế lộ thán truân chiên,
    Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
    Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
    Nhất hàn như cố diệc kham liên.
    Quang âm thúc hốt thời nan tái,
    Khách xá thê lương dạ tự niên.
    Thập tải độc thư bần đáo cốt,
    Bàn duy mục túc, tọa vô chiên.
    Dịch nghĩa

    Gửi bạn (I)

    Bình sinh đường đời than nhiều vất vả;
    Muôn việc chỉ nên phó mặc trời già!
    Tấc lưỡi hãy còn, luống tin hãy còn nói được;
    Vẫn nghèo như cũ cũng đáng thương thôi.
    Quang âm vùn vụt thời khó trở lại,
    Quán khách lạnh lùng đêm dài như năm.
    Mười năm đọc sách mà nghèo đến xương;
    Trong mâm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi không có lót chiên.


    Các bản dịch thơ

    Gửi bạn (I) [1]

    Bình sinh vất vả ngán đường đời,
    Muôn việc đành nên phó mặc trời.
    Tấc lưỡi hãy còn, ăn nói được,
    Chiếc thân vẫn khó, xót thương thôi.
    Bóng xuân thấm thoắt thì khôn kéo,
    Quán khách lạnh lùng đêm quá dài.
    Đọc sách mười năm mà kiết xác[2],
    Ăn tràn rau muống[3], chẳng chiên ngồi[4].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Truân chuyên từng ngán bước đường đời,
    Muôn việc đành thôi phó mặc trời.
    Tấc lưỡi còn đây thường tự tín,
    Thân nghèo mãi thế đáng thương thôi.
    Lạnh lùng khách xá đêm dài mấy,
    Vùn vụt quang âm bóng xế rồi.
    Đọc sách mười năm nghèo đến tuỷ,
    Ăn không rau đậu, chẳng chiên ngồi.

    Bản dịch: Trúc Khê


    Biết bao gian khổ suốt đường đời
    Vạn sự đành cam phó mặc trời
    Tấc lưỡi tự tin, mong giữ được
    Cảnh nghèo khó giảm, đáng than thôi
    Ngày mau tháng lụn khôn lùi lại
    Quán lạnh đêm thâu cứ thấy dài
    Đèn sách mười năm, nghèo kiệt xác
    Cơm toàn rau ráng, đệm đâu ngồi?

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Đường đời gian khổ xiết bao!
    Biết bao nhiêu chuyện đành giao lão trời.
    Vẫn tin tấc lưỡi còn thôi,
    Cái nghèo vẫn thế một đời thương thay.
    Khó về vun vút tháng ngày,
    Đêm buồn quán khách năm chày vắng tăm.
    Nghèo xơ đọc sách mười năm,
    Chỗ ngồi chẳng đệm, không mâm rau bày.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    VXTĐ: 1. Trong tập có bài trùng tên, theo thứ tự sắp xếp, đánh thêm số để phân biệt.
    Sđd: 2. Kiết xác: Chữ Hán là "bần đáo cốt". Thơ của Đỗ Phũ cũng có chữ "cùng đáo cốt".
    2. Rau muống: Chữ Hán là "bàn vô mục túc" (mâm không có món mục túc). Tiết Lệnh Chi người đời Đường, làm quan ở Đông cung, không có bỗng lộc gì, làm thơ tự than có câu: "Bàn trung hà sở hữu, Mục túc trường lan can" (Trong mâm có gì đó? Chỉ mục túc liên miên). Mục túc là một thừ rau đậu tầm thường, người ta dùng để ăn chay hay là dùng cho gia súc ăn, cũng dùng làm phân xanh. Các bản đều chép "Bàn vô mục túc", nghĩa là trong mâm không có rau mục túc, như thế thì câu thơ tối nghĩa. Đối chiếu với câu thơ của Tiết Lệnh Chi, chúng tôi tưởng có lẽ là "Bàn duy mục túc" (Chữ Duy và chữ Vô dễ lẫn với nhau). Như thế thì câu thơ nghĩa là ăn chỉ toàn rau mục túc. Chúng tôi theo ý mà lấy rau muống thay vào món mục túc cùa Trung quốc.
    3. Chiên ngồi: Chỗ ngồi không có đệm chiên lót, vì nghèo không sắm được.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyFri Jan 18, 2013 3:14 pm

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Lâm cảng dạ bạc

    Bản chữ Hán

    林港夜泊

    港口咱潮暫繫舠,
    韽韽隔岸響蒲牢。
    船窗客夜三更雨,
    海曲秋風十丈濤。
    膜外虛名身是幻,
    夢中浮俗事堪拋。
    一生氣習渾如昨,
    不為羈愁損舊豪。
    Phiên âm Hán Việt

    Lâm cảng dạ bạc

    Cảng khẩu thanh triều tạm hệ đao,
    Am am cách ngạn hưởng bồ lao.
    Thuyền song khách dạ tam canh vũ,
    Hải khúc thu phong thập trượng đào.
    Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn,
    Mộng trung phù tục sự kham phao.
    Nhất sinh khí tập hồn như tạc,
    Bất vị ky sầu tổn cựu hào.
    Dịch nghĩa

    Đêm đậu thuyền ở Lâm cảng

    Cửa lạch nghe thủy triều tạm buộc thuyền con,
    Văng vẳng cách bờ nghe tiếng bồ lao (chuông).
    Bên cửa thuyền đêm ở đất khách mưa suốt ba canh;
    Trong vụng biển gió thu sóng nổi mười trượng.
    Danh hão để ngoài lòng, thân là ảo ảnh;
    Đời phù sinh trong giấc mộng, việc đáng quăng đi
    Một đời quen nết vẫn như ngày trước
    Không vì mối sầu xa nhà mà sút hào khí cũ đi.


    Các bản dịch thơ

    Đêm đậu thuyền ở Lâm cảng [1]

    Cửa lạch nghe triều buộc tạm thuyền,
    Cách bờ văng vẳng tiếng chuông chiền,
    Song bồng đêm khách mưa rì rã;
    Vụng biển[2] hơi thu sóng đảo điên.
    Danh hão ngoài da, thân huyễn hoặc;
    Kiếp trần trong mộng, chuyện huyên thiên.
    Một đời quen nết chưa chừa được.
    Xiêu giạt nào hao khí thiếu niên.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Cửa khẩu thuyền neo bởi sóng trào
    Bờ xa chiều vắng, tiếng chuông gieo
    Cạnh thuyền mưa vỗ ba canh suốt
    Trước gió mòi dâng chục trượng cao
    Đeo vỏ thân danh đều huyễn cả
    Bỏ đời mộng tưởng đáng làm sao!
    Trót quen nếp nghĩ khôn đường chữa
    Đâu bởi ly hương giảm khí hào!

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Nghe triều, cửa cảng neo thuyền,
    Cách bờ vang tiếng chuông rền vẳng lơi.
    Ba canh thuyền khách mưa rơi,
    Gió thu biển vắng, sóng mười trượng dâng.
    Để ngoài danh hão, giả thân,
    Mộng quen trôi nổi việc cần bỏ thôi!
    Một đời nếp trước quen rồi,
    Không vì sống gửi sầu vơi chí hào.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd: 1. Đại Nam nhất thống chí chép là Lẫm cảng, tức là sông Thần Phù, Phù Sa, Ngọc Lâm (Có lẽ tên Lâm cảng là do tên Ngọc Lâm mà ra), huyện Yên Mô, xưa có ngã lạch thông với sông Hổ (hạ lưu của sông Lâm Sàng đổ ra cửa Càn). Hồ Quí Ly chống quân Minh sai chở đá lấp ngã thông ấy, nay lạch ấy đã thành đất bằng, chỉ còn lại một cái đầm gọi là đầm Lẫm. Lê Thánh Tôn trong bài thơ vịnh cửa Thần Phù có câu: "Chương hoàng (tức Hồ Quí Ly) xem chở đá lấp sông".
    2. Bản Dương Bá Cung chép là "hải khách 海客", chúng tôi xem các bản khác mà sửa là "hải khúc 海曲", nghĩa là vụng biển.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyFri Jan 18, 2013 4:00 pm

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Loạn hậu cảm tác

    Bản chữ Hán

    亂後感作

    神州一自起干戈,
    萬姓嗷嗷可奈何。
    子美孤忠唐日月,
    伯仁雙淚晉山河。
    年來變故侵人老,
    秋越他鄉感客多。
    卅載虛名安用處,
    回頭萬事付南柯。
    Phiên âm Hán Việt

    Loạn hậu cảm tác

    Thần châu nhất tự khởi can qua,
    Vạn tính ngao ngao khả nại hà.
    Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt,
    Bá Nhân song lệ Tấn sơn hà.
    Niên lai biến cố xâm nhân lão,
    Thu việt tha hương cảm khách đa.
    Tạp tải hư danh an dụng xứ,
    Hồi đầu vạn sự phó Nam Kha.
    Dịch nghĩa

    Đêm đậu thuyền ở Lâm cảng

    Thần châu từ lúc nổi cuộc can qua,
    Muôn dân rên xiết biết làm sao được
    Tử Mỹ giữ lòng trung mồ côi đối với ngàyg thán nhà Đường;
    Bá Nhân ứa nước mắt hai hàng mà khóc non sông nhà Tấn
    Mấy năm đây biến cố khiến người ta mau già,
    Qua mùa thu ở đất lạ lòng khách nhiều cảm.
    Ba chục năm hư danh có dùng làm gì?
    Quay đầu muôn việc cũ đều phó cho giấc Nam Kha


    Các bản dịch thơ

    Đêm đậu thuyền ở Lâm cảng

    Thần Châu[1] từ thuở nổi can qua[2],
    Rên xiết muôn dân đến thế mà.
    Tử Mỹ[3] ôm trung Đường xã tắc,
    Bá Nhân[4] chan lệ Tấn sơn hà.
    Thu về đất lạ lòng nhiều cảm,
    Đời biến lâu nay khách chóng già[5].
    Ba chục năm trời danh tiếng hão,
    Quay đầu muôn việc giấc Nam kha[6].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Thần Châu từ độ nổi can qua
    Lầm cát nhân dân chốn chốn nao
    Tử Mỹ lo Đường lòng quặn héo
    Bá Nhân thương Tấn lệ tuôn trào
    Già người: Đời tiếp tang thương đến
    Não khách: Thu đưa cảm hận vào
    Ba chục năm trời danh tiếng hão
    Ngoảnh đầu muôn việc tựa chiêm bao.

    Bản dịch: Trúc Khê


    Đất tổ từ khi vương loạn lạc
    Muôn dân rên xiết, khổ làm sao!
    Theo Đường, Tử Mỹ lòng trung giữ
    Vì Tấn, Bá Nhân giọt lệ trào
    Bao chuyện năm qua, đầu nhuốm bạc
    Mấy thu đất khách, dạ mòn hao
    Ba mươi năm ấy là danh hão
    Một giấc Nam Kha, có khác nào!

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Thần Châu từ đạo binh đao,
    Muôn dân rên xiết làm sao được này.
    Theo Đường, Tử Mỹ đêm ngày,
    Nước non nhà Tấn lệ vầy Bá Nhân.
    Mấy năm xảy việc già dần,
    Thu qua, khách mãi bâng khuâng quê người.
    Danh suông ba chục năm rồi,
    Quay đầu muôn việc mộng vời Nam Kha.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd: 1. Thần châu: Dùng để chỉ nước nhà một cách quý mến.
    2. Nổi can qua: Có chiến tranh từ khi quân Minh xâm lược nước ta.
    3. Tử Mỹ: Tức Đỗ Phủ, thi hào Trung quốc ở đời Đường, trong cuộc loạn An Lộc Sơn, thường đau đớn ôm lòng cô trung đối với nhà Đường - Chữ Hán "nhật nguyệt" là ngày tháng, tượng trưng cho ngôi vua (niên hiệu).
    4. Bá Nhân: Chu Nghĩ, người Trung Quốc đời Tấn, làm Thượng thư tả bộc xạ. Khi nhà Tấn mất, ông chạy sang Giang Đông cùng các danh sĩ yến hội ở Tân Đình, nhìn non sông mà ứa lệ khóc.
    5. Hai câu 5,6, chúng tôi dịch đảo lộn với nhau.
    6. Nam Kha: Xem chú thích ở bài "Ký cữu Dịch Trai Trần Công" ở trên.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 21, 2013 9:26 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác

    Bản chữ Hán

    亂後到崑山感作

    一別家山恰十年,
    歸來松匊半翛然。
    林泉有約那堪負,
    塵土低頭只自憐。
    鄕里纔過如夢到,
    干戈未息幸身全。
    何時結屋雲峰下,
    汲澗烹茶枕石眠。
    Phiên âm Hán Việt

    Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác

    Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,
    Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
    Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,
    Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
    Hương lí tài qua như mộng đáo,
    Can qua vị tức hạnh thân tuyền (toàn).
    Hà thời kết ốc vân phong hạ,
    Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.
    Dịch nghĩa

    Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác

    Từ khi đi khỏi núi nhà vừa mười năm.
    Trở về thì tùng cúc đã nửa hoang rậm.
    Có hẹn với rừng suối sao ta nỡ phụ?
    Cúi đầu nơi cát bụi chỉ tự thương mình.
    Làng quê mới qua, như thấy chiêm bao đến;
    Can qua chưa dứt, may được vẹn chiếc thân.
    Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây,
    Để múc nước khe nấu chè, và gối đá ngủ?


    Các bản dịch thơ

    Sau loạn đến Côn Sơn[1] cảm tác

    Xa cách mười năm chốn cổ san;
    Quay về tùng cúc đã lan man.
    Suối rừng có hẹn sao nên phụ;
    Đất bụi cúi đầu chỉ tự than.
    Vừa lại quê nhà như thấy mộng;
    May trong binh lửa vẫn tuyền thân.
    Bao giờ dưới ngọn mây về ở,
    Nước suối chè tươi ngủ thạch bàn[2]?


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Mười năm cách biệt chốn gia can
    Tùng cúc về thăm đã mọc lan
    Thân ấy trót quăng theo gió bụi
    Ước xưa đành phụ với lâm toàn
    Quê hương về tưởng trong mơ mộng
    Binh lưả từng qua lắm hiểm gian
    Bao được non mây nhà một túp
    Trà chuyên nước suối ngũ bên ngàn.

    Bản dịch: Trúc Khê


    Cách biệt mười năm cảnh núi nhà
    Về xem tùng các nửa tiêu sơ
    Suối rừng trót hẹn, đành xao lãng
    Đất bụi nghiêng mình, tự xót xa
    Bước đến làng quê, lòng ngỡ mộng
    Chưa tàn khói lửa, phước còn ta
    Dưới chân mây núi lều mong cất
    Nước suối pha trà, gối đá mơ...

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Mười năm rời chốn núi quê,
    Về đây tùng, cúc nửa bề tan hoang.
    Thôi đành lỗi hẹn suối ngàn,
    Cúi đầu bụi, đất: miên man dạt dào.
    Qua làng cứ ngỡ chiêm bao,
    Lửa binh chưa dứt may sao thân còn!
    Bao giờ nhà dựng dưới non,
    Nước khe, trà hãm gối nồng đá mây?!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Côn Sơn: Núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương , Trần Nguyên Đán là ông ngoại của Nguyễn Trãi về ẩn ở đấy trong khi Hồ Quý Ly chuyên quyền, kinh dinh động Thanh Hư ở trong núi. Nguyễn Trãi thừa hưởng nghiệp ấy.
    2. Thạch bàn: Vì vần bắt buộc, chúng tôi lấy ý "ngủ thạch bàn" thay ý gối đầu lên đá mà ngủ. Hiện ở nửa chừng núi Côn Sơn còn có chỗ gọi là Thạch Bàn ở bên suối, tương truyền là chỗ Nguyễn Trãi thường hay nằm nghĩ.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 21, 2013 9:41 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Long Đại Nham

    Bản chữ Hán

    龍岱岩

    去年虎穴我曾窺,
    龍岱今觀石窟奇。
    鰲負出山山有洞,
    鯨遊塞海海為池。
    壼中日月天難志,
    世上英雄此一時。
    黎范風流嗟漸遠,
    青苔半蝕璧間詩。
    Phiên âm Hán Việt

    Long Đại Nham

    Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy,
    Long Đại kim quan thạch quật kỳ.
    Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động,
    Kình du tắc hải, hải vi trì.
    Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão,
    Thế thượng anh hùng thử nhất thì.
    Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn,
    Thanh đài bán thực bích gian thi.
    Dịch nghĩa

    Núi Long Đại

    Năm trước hang cọp ta đã từng xem,
    Nay lại xem hang đá kỳ Long Đại (động rồng).
    Con ngao đội núi lên, núi có động;
    Cá kình bơi lấp biển, biển thành ao.
    Nhật nguyệt trong bầu, cảnh trời khó già,
    Anh hùng trên đời, đấy là một thuở,
    Phong lưu của họ Lê họ Phạm, than ôi đã xa dần;
    Rêu xanh đã gặm hết nửa thơ trên vách đá.


    Các bản dịch thơ

    Núi Long Đại

    Hang hùm[1] năm trước đã từng coi,
    Nay lại hang rồng[2] cũng đến chơi.
    Ngao[3] đội núi lên thành động đấy,
    Kình[4] bơi biển lấp hoá ao rồi.
    Trong bầu[5] nhật nguyệt trời luôn trẻ,
    Một thuở anh hùng[6] tiếng để đời.
    Lê Phạm[7] phong lưu đâu thấy nữa,
    Vách thơ rêu biếc nửa pha phôi.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Đã từng năm trước thăm hang hổ
    Long Đại nay xem động đá kỳ
    Ngao đội đất, tạo vòm rỗng núi
    Kình khoanh ao, chặn biển xây đê
    Trời trăng khó lão trong bầu Tạo
    Danh kiệt hằng llưu chỉ thuở thì
    Lê Phạm văn phong dần vắng thấy
    Rêu tường xóa lấp nửa phần thi.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Mười năm rời chốn núi quê,
    Về đây tùng, cúc nửa bề tan hoang.
    Thôi đành lỗi hẹn suối ngàn,
    Cúi đầu bụi, đất: miên man dạt dào.
    Qua làng cứ ngỡ chiêm bao,
    Lửa binh chưa dứt may sao thân còn!
    Bao giờ nhà dựng dưới non,
    Nước khe, trà hãm gối nồng đá mây?!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Hang hùm: Chỉ sào huyệt của giặc Minh ở Đông Đô.
    2. Long đại: Nay gọi là núi Hàm Rồng, ở làng Đông Sơn huyện Đông Sơn, gần thỉ trấn Thanh Hóa.
    3. Ngao: Có truyền thuyết rằng phía Đông biển Đột Hải có ba quả núi Thần chân không dính vào đâu, là chỗ ở của các Thánh, Thượng đế sai 15 con ngao (rùa lớn ở biển) đội núi để giữ lấy, gọi là tam đảo, tam hồ. Người ta cho núi Long Đại cũng là núi tiên do ngao đội.
    4. Kình: Cá kình là loài cá lớn. Có tích núi này ở giữa biển, nhưng có cá kình bơi mà lấp biển đã thành ao. Bản in chữ Hán chép Du (遊) là bơi thành chữ Quá (過 ) là qua và chữ Tắc (塞) là lấp thành chữ Hàn (寒) là lạnh. Nay theo các bản khác mà sửa lại.
    5. Bầu: Sách đạo giáo nói rằng xưa có người tên là Trương Thân, nhà thường treo một cái bầu lớn, hóa làm trời đất, trong có mặt trời, mặt trăng, đêm chui vào đấy mà ngủ, tự gọi là "Hồ thiên", tức là trời trong bầu hay bầu trời.
    6. Anh hùng: Anh hùng bấy giờ, chắc Nguyễn Trãi nhớ Hồ Quí Ly, vì năm 1283 Hồ Quí Ly đóng đồn ở núi này để chống quân Chế Bồng Nga.
    7. Lê Phạm: Tức Lê Quát, người huyện Đông Sơn và Phạm Sư Mạnh, người huyện Đông Triều, hai người có đề thơ ở hang núi Hàm Rồng. Hai người có tiếng văn học ở đương thời, người ta thường gọi chung là Lê Phạm.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 21, 2013 10:52 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Quan hải

    Bản chữ Hán

    關海

    樁木重重海浪前,
    沉江鐵鎖亦徒然。
    覆舟始信民猶水,
    恃險難憑命在天。
    禍福有媒非一日,
    英雄遺恨幾千年。
    乾坤今古無窮意,
    卻在滄浪遠樹煙。
    Phiên âm Hán Việt

    Quan hải

    Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
    Trầm giang thiết tỏa diệc đồ nhiên.
    Phúc chu thủy tín dân do thủy,
    Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
    Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,
    Anh hùng di hận kỉ thiên niên.
    Kiền khôn kim cổ vô cùng y,
    Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.
    Dịch nghĩa

    Đóng cửa biển

    Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển;
    Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
    Thuyền bị lật mới tin rằng dân là như nước;
    Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
    Họa phúc có manh mối không phải một ngày;
    Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
    Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng.
    Vẫn là chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời.


    Các bản dịch thơ

    Đóng cửa biển

    Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển[1];
    Khoá sông xích sắt cũng vầy thôi[2].
    Lật thuyền mới rõ dân như nước[3];
    Cậy hiểm khôn xoay mệnh ở trời.
    Hoạ phúc gây mầm không một chốc;
    Anh hùng để hận mấy trăm đời[4].
    Vô cùng trời đất gương kim cổ,
    Cây khói xa mù bát ngát khơi[5].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Cọc đóng trùng trùng trước sóng khơi
    Lại ngầm lưới sắt bủa nơi nơi
    Đắm thuyền biết hẳn dân như nước
    Dựa hiểm bằng đâu mệnh tại trời
    Phúc họa chẳng thành do một buổi
    Anh hùng lưu hận mãi muôn đời
    Xưa nay vẫn ý càn khôn ấy
    Cây khói trời Thương trở lại thôi.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi,
    Thêm ngầm dây sắt- uổng công thôi.
    Lật thuyền, thấm thía: dân như nước,
    Cậy hiểm mong manh: mệnh ở trời.
    Họa phúc có nguồn, đâu bỗng chốc?
    Anh hùng để hận, dễ gì nguôi?
    Xưa, nay, trời đất vô cùng ý,
    Nơi sóng xanh cây khói tuyệt trời...

    Bản dịch: Hưởng Triều

    Sđd:
    1 & 2. Rào lim, xích sắt: Đóng cọc lim ngăn cửa biển và căng xích sắt ngăn cửa sông là nhắc việc Hồ Quí Ly phòng thủ mặt biển chống giặc Minh.
    3. Lật thuyền: Hồ Quí Ly thất bại là vì dân không ủng hộ. Xưa có câu "Nước hay chở thuyền mà cũng hay lật thuyền", cũng như dân ủng hộ nhà vua mà cũng có thể lật đổ nhà vua.
    4. Anh hùng: Nguyễn Trãi thi đậu và làm quan ở đời Hồ, vẫn xem Hồ Quí Ly là anh hùng, tuy thất bại.
    5. Cái vô tận, vô cùng của thời gian và không gian thể hiện ở chỗ cảnh xa mù bát ngát này.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 21, 2013 11:11 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Quy Côn Sơn chu trung tác

    Bản chữ Hán

    歸昆山舟中作

    十年飄轉嘆蓬萍,
    歸思搖搖日似旌。
    幾托夢魂尋故里,
    空將血淚洗先塋。
    兵餘斤斧嗟難禁,
    客裡江山只此情。
    鬱鬱寸懷無奈處,
    船窗推枕到天明。
    Phiên âm Hán Việt

    Quy Côn Sơn chu trung tác

    Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,
    Quy tứ dao dao nhật tự tinh.
    Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,
    Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh.
    Binh dư cân phủ ta nan cấm,
    Khách lý giang sơn chỉ thử tình.
    Uất uất thốn hoài vô nại xứ,
    Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
    Dịch nghĩa

    Làm khi đi thuyền về Côn Sơn

    Mười năm xiêu dạt thân mình như cỏ bồng cánh bèo.
    Lòng muốn về nhà ngày nào cũng như cờ rung động luôn.
    Bao nhiêu lần nhờ hồn mộng mà tìm làng cũ;
    Chỉ suông đem nước mắt pha máu mà rửa mộ tổ tiên.
    Ttải binh lửa than ôi khó ngăn búa rìu;
    Trong cảnh khách đối với giang sơn chỉ chút tình này.
    Ức uất tấc lòng không làm sao được;
    Cửa thuyền xô gối không ngủ đến trời bình minh.


    Các bản dịch thơ

    Làm khi đi thuyền về Côn Sơn [1]

    Mười năm xiêu giạt ngán bình bồng;
    Nỗi nhớ như cờ chẳng ngớt rung[2].
    Quê quán hằng đem hồn gởi mộng;
    Mả mồ suông rưới lệ pha hồng [3].
    Thời loàn hoạ khó ngăn rìu búa;
    Dặm khách tình này chỉ núi sông.
    Uất uất tấc lòng đành thế vậy,
    Cửa bồng xô gối đến hừng đông.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Mười năm thân thế cứ lang thang
    Thay ngọn cờ tinh chính bóng dương
    Lúc ngũ thường mơ về cố lý
    Bao phen nhớ tới lễ từ đường
    Nơi quê phép nước không ngăn cấm
    Đất khách tình nhà cứ xót thương
    Trằn trọc không yên nằm lại dậy
    Nhìn trời mong sáng suốt đêm trường

    Bản dịch: Trúc Khê


    Bình bồng phiêu lạc đã mười năm
    Ý định hồi hương một dạ chăm
    Hồn mộng gửi về quê vắng cũ
    Lệ hồng mơ rưới mộ xa xăm
    Búa rìu khó cản sau thời loạn
    Chốn khách xin dành chút cảm thâm
    Khôn giải tấc lòng đầy uẩn khúc
    Thuyền chao, gối động, sáng đêm nằm.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Bềnh bồng trôi giạt mười năm,
    Chuyện về lòng cứ, đăm đăm mỗi ngày.
    Quê xưa, gửi mộng tìm đây,
    Rửa suông lệ máu đèn này cha ông.
    Khó ngăn rìu búa, loạn xong,
    Nước non: đất khách chỉ còn tình thôi!
    Tấc lòng buồn nhớ không nguôi,
    Cửa thuyền gối đẩy đến trời sáng lên.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Côn Sơn: Núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương , Trần Nguyên Đán là ông ngoại của Nguyễn Trãi về ẩn ở đấy trong khi Hồ Quý Ly chuyên quyền, kinh dinh động Thanh Hư ở trong núi. Nguyễn Trãi thừa hưởng nghiệp ấy.
    2. Rung: chữ Hán "dao dao", nghĩa là dao động luôn không chút nào yên.
    3. Lệ pha hồng: Chỉ biết khóc thương mà không được về quê để tảo mộ tổ tiên. Lệ pha hồng là chảy nước mắt pha máu.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 21, 2013 1:54 pm

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Tặng hữu nhân

    Bản chữ Hán

    贈友人

    貧病余憐汝,
    疏狂汝似余。
    同為千里客,
    俱讀數行書。
    瓠落知何用,
    栖遲諒有餘。
    他年淽溪約,
    短笠苛春鋤。
    Phiên âm Hán Việt

    Tặng hữu nhân

    Bần bệnh dư lân nhữ;
    Sơ cuồng nhữ tự dư.
    Ðồng vi thiên lý khách;
    Câu độc sổ hàng thư.
    Hộ lạc tri hà dụng,
    Thê trì lượng hữu dư.
    Tha niên Nhuỵ Khê ước,
    Ðoản lạp hạ xuân sừ.
    Dịch nghĩa

    Tặng bạn

    Nghèo và bệnh ta thương ngươi;
    Phóng túng điên rồ ngươi giống ta
    Cũng đều làm khách nơi muôn dặm;
    Cũng đều đọc sách được mấy hàng.
    Nông quá như chúng mình biết làm gì được;
    Chơi nhởn thì chắc là chúng mình có thừa.
    Hẹn năm nào về Nhụy Khê;
    Đội nón ngắn (chụp) vác cuốc xuân (làm nông dân).


    Các bản dịch thơ

    Tặng bạn

    Nghèo ốm ta thương bạn,
    Ngông cuồng bạn giống ta.
    Cùng xiêu[1] nơi lạ lẫm,
    Đều đọc sách dăm ba.
    Nông nổi[2] dùng chi được,
    Nhởn nhơ thạo quá mà.
    Nhuỵ Khê năm khác hẹn[3],
    Nón chụp cuốc xuân nhà[4].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Cảm bạn nghèo thêm bệnh
    Giống nhau ta cuồng ngông
    Đều làm khách nghìn dặm
    Sách cùng đọc mấy giòng
    Nông cạn đời vô dụng
    Nhởn nhơ hẳn khôn cùng
    Nhị Khê hẹn năm tới
    Đội nón chụp bừa xuân.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Ta thương bạn bệnh thêm nghèo,
    Giống ta, bạn cũng lại đèo cuồng ngông!
    Dặm ngàn làm khách nhau cùng,
    Bạn, ta: sách đọc mấy dòng như nhau.
    Rỗng thô, dùng biết ra sao!?
    Có dư thong thả xét vào nhàn đây!
    Nhị Khê hẹn ước năm rày,
    Đầu che nón rách ruộng cày mùa xuân!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Xiêu: Trôi giạt. Nguyễn Trãi hay dùng từ này.
    2. Hồ lạc: Bản Dương Bá Cung và các bản khác đều chép lộn là "hộ lạc". "Hồ lạc" mới đúng. Đây là chữ của sách Trang tử thiên "Tiêu diêu du", nghĩa là nông choèn nông cạn.
    3. Bản Dương Bá Cung chép là "Nhụy Khê điếu (釣)" và có chú rằng có bản là Ước (約) (Theo các bản Thi lục, Thi tuyển, Năng Tĩnh). Chúng tôi cho rằng Ước (約) là đúng, nên dịch là hẹn - Xã Nhụy Khê ở huyện Thường Tính tỉnh Hà Tây, quê quán của Nguyễn Trãi.
    4. Chữ Hán "đoản lạp" là nón ngắn, tức là nón chụp của người nông dân, đội cho gọn - Chữ sừ (鋤), điền khí để giẫy cỏ, vốn là cái cuốc chứ không phải cái bừa. Câu này ý nói khi về Ngụy Khê thì sẽ đội nón chụp và vác cuốc ra đồng trong mùa xuân. Chúng tôi dịch là "cuốc xuân nhà", nghĩa là cuốc trong mùa xuân ở quê nhà. - So với câu 6 bài 13 của Quốc âm thi tập: "Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi".

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyTue Jan 22, 2013 3:02 pm

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Thần Phù hải khẩu

    Bản chữ Hán

    神符海口

    故國歸心落雁邊,
    秋風一葉海門船。
    鯨噴浪吼雷南北,
    槊擁山連玉後前。
    天地多情恢巨浸,
    勳名此會想當年。
    日斜倚棹滄茫立,
    冉冉寒江起暮煙。
    Phiên âm Hán Việt

    Thần Phù hải khẩu

    Cố quốc quy tâm lạc nhạn biên,
    Thu phong nhất diệp hải môn thuyền.
    Kình phun lãng hống lôi nam bắc,
    Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền.
    Thiên địa đa tình khôi cự tẩm,
    Huân danh thử hội tưởng đương niên.
    Nhật tà ỷ trạo thương mang lập,
    Nhiễm nhiễm hàn giang khởi mộ yên.
    Dịch nghĩa

    Cửa Thần Phù

    Lòng về quê cũ theo chỗ chim nhạn đậu.
    Chiếc thuyền ở cửa biển như chiếc lá trước gió thu.
    Sóng rồng như kình phun, sấm gầm ở nam và bắc,
    Núi liền như giáo dựng, ngọc bày cả trước và sau.
    Trời đất đa tình, mở vụng biển lớn;
    Công danh hội ấy, nhớ lại năm nào.
    Lúc mặt trời xế, dựa chèo đứng đứng giữa mông mênh.
    Ngùn ngụt sông lạnh chiều hôm nổi khói.


    Các bản dịch thơ

    Cửa Thần Phù [1]

    Quê cũ lòng về theo cánh nhạn;
    Lá thu cửa biển chiếc thuyền xiêu[2].
    Kình phun, sóng vỗ gầm nam bắc,
    Giáo dựng, non bày biếc trước sau.
    Trời đất có tình phô vụng lớn;
    Công danh gặp hội nhớ năm nào[3].
    Bóng tà dựa mái[4] mênh mông đứng,
    Sông lạnh ngun ngun nổi khói chiều.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Lòng theo cánh nhạn về quê cũ
    Cửa bể thuyền lan lướt gió thu
    Sóng dậy sấm gầm nam lẫn bắc
    Núi liền giáo dựng trước cùng sau
    Vịnh kia công Tạo, hình lưu dấu
    Thuở nọ danh lừng, tiếng chửa lu
    Chiều xuống dựng chèo trông bát ngát
    Khói mờ lên, sông lạnh âm u.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Nhạn ven, lòng hướng quê xưa,
    Cửa khơi một lá gió thu đưa thuyền.
    Bắc nam sấm động, song kình,
    Giáo che núi ngọc nối liền trước sau.
    Vịnh to, trời đất tình trao,
    Công danh nghĩ đến năm nào hội đây!
    Tựa chèo: bát ngát xế ngày,
    Khói chiều khơi dậy, song bày lạnh thêm!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Thần Phù: Cửa biển xưa ở giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, nay đã bị lấp, chỗ cửa cũ nay cách bờ biển quá chục cây số. Xưa là cửa biển nhiều sóng gió nên có câu: "Lênh đênh qua cửa Thần Phù, Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm" - Theo cánh nhạn: Dịch theo sự góp ý của Ban Hán Nôm.
    2. Xiêu: Trôi giạt. Nguyễn Trãi hay dùng từ này.
    3. Nhớ năm nào: Nhớ lại công của Hồ Quí Ly lấy đá lấp ngả sông với cửa Thần Phù để chống quân Minh.
    4. Dựa mái: Bản Dương Bá Cung chép là "thái trạo (採棹)", chúng tôi theo các bản khác mà sửa lại là "ỷ trạo (倚棹)" và dịch là dựa mái.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyTue Jan 22, 2013 4:42 pm

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Thanh minh

    Bản chữ Hán

    清明

    一從淪洛他鄉去,
    屈指清明幾度過。
    千里墳塋違拜掃,
    十年親舊盡消磨。
    乍晴天氣模稜雨,
    過半春光廝句花。
    聊把一杯還自彊,
    莫教日日苦思家。
    Phiên âm Hán Việt

    Thanh minh

    Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,
    Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
    Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
    Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
    Sạ tình thiên khí mô lăng vũ,
    Quá bán xuân quang tê cú hoa.
    Liên bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
    Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.
    Dịch nghĩa

    Thanh minh

    Kể từ khi lưu lạc ra làng khác,
    Đếm đốt ngón tay thanh minh đã qua mấy lần.
    Xa nghìn dặm mồ mả không được lạy quét;
    Trải mười năm thân cựu đã thảy hao mòn.
    Chợt tạnh khí trời vào tiết mưa rào;
    Đã quá nửa xuân hoa tê cú nở.
    Khuây nâng một chén phải cố gượng uống,
    Để đừng có ngày ngày phải khổ về nhớ nhà.


    Các bản dịch thơ

    Thanh minh

    Luân lạc từ khi ra đất khách,
    Thanh minh tính đã trải bao hồi.
    Mả mồ nghìn dặm khôn thăm viếng,
    Thân cựu mười năm thảy rụng rơi.
    Chợt tạnh mưa rào[1] đương tiết đấy,
    Nở hoa tê cú[2] nửa xuân rồi.
    Khuây nâng một chén còn nên gượng,
    Đừng để nhớ nhà khổ chẳng thôi.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Kể từ đất khách ta lưu lạc
    Đã trải Thanh Minh mấy độ rồi
    Nghìn dặm mộ phần không viếng được
    Mười năm thân thích tận tàn thôi
    Giữa chừng mưa giảm, trời thêm thoáng
    Quá nửa xuân tàn, hoa kém tươi
    Chén rượu giờ nâng, môi gắng gượng
    Cố hương mong nhẹ mối quan hoài.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Tha hương đất khách từ lưu lạc,
    Bấm đốt thanh minh đã mấy lần.
    Muôn dặm mộ phần khôn viếng lễ,
    Mười năm thân thích cứ vơi dần.
    Mưa rào đổ tạnh, đang vào tiết,
    Hoa đẹp đơm bông, quá nửa xuân.
    Gượng chén tay nâng khoây khỏa chút,
    Nỗi nhà nỗi khổ liệu xua tan.

    Bản dịch: Ngô Văn Phú


    Từ khi trôi dạt chốn xa,
    Thanh minh bấm đốt trải qua mấy lần.
    Mả mồ ngàn dặm khó thăm,
    Người thân mất hết mười năm phai tàn.
    Chợt trời tạnh lúc mưa sang,
    Xuân qua đã nửa, hoa tàn kém tươi.
    Gượng buồn, chén rượu nhắp môi,
    Nhớ nhà nỗi khổ đừng khơi mỗi ngày.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Mưa rào: Chữ Hán là mô lăng vũ. Mô lăng là sờ cạnh, ý là không dứt khoát, có cũng được không cũng được. "Mô lăng vũ" là mưa đó mà tạnh đó, tức mưa rào. Câu thơ "Sạ tình" này ý nói Thanh minh vào tiết tháng ba là tiết mưa rào, trời chợt tạnh đó, nhưng chưa chắc lại chợt mưa lúc nào.
    2. Tê cú: Bản in chữ Hán có lời chú là hoa đồ mi. Ở Trung quốc xưa trong tiết Thanh minh vua thường đem rượu đồ mi cho bầy tôi uống, do đó dùng hoa đồ mi để chỉ tiết Thanh minh. Mồng 3 tháng 3 âm lịch là quá nửa mùa xuân.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyWed Jan 23, 2013 9:54 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Thính vũ

    Bản chữ Hán

    聽雨

    寂寞幽齋裏,
    終宵聽雨聲。
    蕭騷驚客枕,
    點滴數殘更。
    隔竹敲窗密,
    和鐘入夢清。
    吟餘渾不寐,
    斷續到天明。
    Phiên âm Hán Việt

    Thính vũ

    Tịch mịch u trai lý,
    Chung tiêu thính vũ thanh.
    Tiêu hao kinh khách chẩm!
    Điểm trích sổ tàn canh.
    Cách trúc xao song mật,
    Hoà chung nhập mộng thanh.
    Ngâm dư hồn bất mị,
    Đoạn tục đáo thiên minh.
    Dịch nghĩa

    Nghe mưa

    Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
    Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
    Tiếng não nùng làm kinh động gối khách;
    Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
    Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ;
    Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
    Ngâm rồi vẫn không ngủ được;
    Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.


    Các bản dịch thơ

    Nghe mưa

    Vò võ trai phòng vắng;
    Suốt đêm nghe tiếng mưa.
    Não nùng rung gối khách;
    Thánh thót mấy canh dư[1].
    Cách trúc khua song nhặt;
    Hoà chuông động giấc mơ[2].
    Ngâm rồi vẫn chẳng ngủ;
    Đứt nối đến tờ mờ.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Phòng tối u tĩnh mịch
    Đêm trường lắng mưa rơi
    Nhẹ nhàng lay gối khách
    Giọt nối giọt canh dài
    Cửa ngoài tre sột soạt
    Nhập mộng chuông khua hoài
    Thơ ngâm rồi khó ngủ
    Dứt nối đến trời mai.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Trong phòng mờ tối vắng sao,
    Nghe mưa tí tách rì rào thâu đêm.
    Não nề khách sợ gối thêm,
    Canh tàn đếm lượt theo liền giọt rơi.
    Trúc khua song kín xa xôi,
    Hòa vào giấc mộng trong vời tiếng chuông.
    Ngâm xong chẳng được giấc nồng,
    Dứt rồi nối đến rạng đông tờ mờ!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Canh dư: Chữ Hán "sổ tàn canh", nghĩa là "mấy canh tàn"; dịch là "mấy canh dư" cũng gần nghĩa như thế, tức là đã hết mấy canh mà vẫn mưa.
    2. Chữ Hán là "mộng thanh", chúng tôi tưởng dịch "giấc mơ" là đủ, thế là có ý chỉ giấc rồi, không phải là cơn mộng dữ nặng nề.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyWed Jan 23, 2013 10:30 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Thôn xá thu châm

    Bản chữ Hán

    村舍秋砧

    滿江何處響東丁,
    夜月偏驚久客情。
    一種蕭關征婦怨,
    總將離恨入秋聲。
    Phiên âm Hán Việt

    Thôn xá thu châm

    Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh;
    Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình.
    Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán,
    Tổng tương ly hận nhập thu thanh.
    Dịch nghĩa

    Tiếng châm mùa thu ở thôn xóm

    Cả sông chốn nào cũng nghe tiếng thình thình.
    Trăng đêm riêng kinh động lòng người làm khách lâu ngày.
    Một nỗi lòng oán của người chinh phụ có chồng ở Tiêu quan;
    Thảy đều là đem mối hận biệt ly ngụ vào tiếng mùa thu.


    Các bản dịch thơ

    Tiếng châm mùa thu ở thôn xóm [1]

    Khắp sông đâu đấy nện thình thình;
    Đất khách trăng khuya bỗng giật mình.
    Quan ải mịt mù[2] chinh phụ oán,
    Tiếng thu[3] thảy gởi biệt ly tình.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Tiếng chày đâu dội khắp trên sông
    Xa xứ đêm trăng khách chạnh lòng
    Hay ải Tiêu quan chinh phụ khóc
    Tiếng thu lời ly hận hòa chung?

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Chày đông vang vọng khắp sông,
    Trọ lâu, khách chợt chạnh lòng đêm trăng.
    Oán gieo chinh phụ Tiêu Quan,
    Bao nhiêu ly hận đượm tràn tiếng thu!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Châm: Hòn đá để đấp vải mà giặc.
    2. Quan ải: Chữ Hán là "Tiêu Quan", một cửa ải xưa ở miền Cam Túc của Trung quốc. Vì chữ Tiêu Quan khó hiểu, chúng tôi dịch ý là "cửa ải mịt mù".
    3. Tiếng thu: Tức tiếng đập giặt vải ở trên đá, là tiếng quen của mùa thu, vì mùa thu trời bắt đầu lạnh, người ta giặt vải mới dệt để may áo rét.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyWed Jan 23, 2013 10:48 am

    Thơ làm trong khi chưa thành công
    Thu dạ khách cảm (I)

    Bản chữ Hán

    秋夜客感

    旅舍蕭蕭席作門,
    微吟袖手過黃昏。
    秋風落葉羈情思,
    夜雨青燈客夢魂。
    亂後逢人非夙昔,
    愁中送目寓乾坤。
    到頭萬事皆虛幻,
    休論凡亡與楚存。
    Phiên âm Hán Việt

    Thu dạ khách cảm (I)

    Lữ xá tiêu tiêu tịch tác môn,
    Vi ngâm tụ thủ quá hoàng hôn.
    Thu phong lạc diệp ki tình tứ,
    Dạ vũ thanh đăng khách mộng hồn.
    Loạn hậu phùng nhân phi túc tích,
    Sầu trung tống mục ngụ càn khôn.
    Ðáo đầu vạn sự giai hư huyễn,
    Hưu luận Phàm vong dữ Sở tồn.
    Dịch nghĩa

    Ðêm thu khách cảm (I)

    Quán khách tiêu điều treo chiếu làm cửa;
    Ủ tay vào tay áo ngâm nhỏ qua buổi hoàng hôn.
    Gió thu lá rụng xào xạc gợi tình lữ thứ;
    Đêm mưa đèn xanh leo lét khiến khách chiêm bao.
    Sau loạn gặp người không ai là quen cũ;
    Trong sầu đưa mắt ngụ ý vào càn khôn (trời đất).
    Cuối cùng muôn việc đều là hư ảo;
    Thôi đừng bàn chuyện Phàm mất với Sở còn.


    Các bản dịch thơ

    Ðêm thu khách cảm (I) [1]

    Tiêu điều quán khách chiếu làm màn[2];
    Ngồi ủ tay[3] ngâm buổi bóng tàn.
    Gió bấc lá rơi tình lữ thứ;
    Mưa đêm đèn lạnh[4] mộng gia san.
    Loạn xong gặp gỡ tinh người mới;
    Sầu đến đưa nhìn ngoài cảnh trần.
    Rốt cuộc muôn điều hư ảo cả;
    Sở còn Phàm mất hãy thôi bàn[5].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Quán trọ buồn, chiếu thay cửa liếp
    Ủ tay ngâm khẽ cuối hoàng hôn
    Gió thu lá rụng vương tình tứ
    Mưa tối đèn lu gợi mộng hồn
    Loạn dứt tìm đâu người cố cựu
    Sầu dâng hướng mãi cõi càn khôn
    Chung cung muôn sự đều hư ảo
    Thôi luận Phàm tiêu với Sở còn.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Chiếu làm cửa quán gió lay,
    Ủ tay vào áo, cuối ngày khẽ ngâm.
    Gió thu lá rụng tình dâng,
    Đèn xanh, khách thả mộng hồn đêm mưa.
    Loạn xong, chẳng gặp người xưa,
    Nỗi sầu mắt gửi tiễn đưa đất trời.
    Cuối cùng muôn việc giả thôi!
    Sở còn, Phàm mất dừng rồi bàn chi!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    VXTĐ : 1. Trong tập có bài trùng tên, theo thứ tự sắp xếp, đánh thêm số để phân biệt.
    Sđd: 2. Bài này nhiều chỗ chúng tôi phải dịch ý. Như câu một nguyên tác là "chiếu làm cửa", chúng tôi dịch là "chiếu làm màn", tức là chiếu treo làm màn ở trước cửa; câu 4 nguyên tác là "hồn mộng ở đất khách", chúng tôi dịch là "mộng gia san", tức mộng trở về núi ở quê nhà; câu 5 nguyên tác nói "gặp gỡ không phải người cũ", chúng tôi dịch là "tinh người mới"; câu 6 nguyên tác là "đưa mắt ngụ vào vũ trụ", chúng tôi dịch là "đưa nhìn ngoài cảnh trần".
    3. Ủ tay: Chữ Hán là "tự thủ", nghĩa là chắp tay mà lồng bàn tay vào tay áo để ủ cho ấm. Dịch là chắp tay thì không đủ ý, chúng tôi dịch là Ủ, biết rằng thế cũng chưa đủ nhưng còn hơn là Chắp.
    4. Đèn lạnh: Chữ Hán là "Thanh đăng", đèn xanh, đèn leo lét trong đêm khuya, trong cảnh cô đơn. Trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi nói "đèn lạnh" theo nghĩa ấy (câu 6 bài 46, câu 4 bài 120).
    5. Sở Phàm: Sách Trang Tử " (Ðiền Tử Phương)" nói: Vua nước Sở với quân trưởng nước Phàm. Người tả hữu vua Sở nói: " Có ba triệu chứng tỏ nước Phàm phải mất". Quân trưởng nước Phàm nói: "Nước Phàm có mất cũng không đủ để mất cái còn của tôi; nước Sở có còn cũng không đủ để còn tcái còn; do đó mà xem thì nước Phàm chưa hẳn mất mà nước Sở chưa hẳn còn", ý nói mất chưa hẳn là mất, còn chưa hẳn còn.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyFri Jan 25, 2013 4:31 pm

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Bạch Ðằng hải khẩu

    Bản chữ Hán

    白藤海口

    朔風吹海氣凌凌,
    輕起吟帆過白藤。
    鱷斷鯨刳山曲曲,
    戈沉戟折岸層層。
    關河百二由天設,
    豪傑功名此地曾。
    往事回頭嗟已矣,
    臨流撫影意難勝。
    Phiên âm Hán Việt

    Bạch Ðằng hải khẩu

    Sóc phong xung hải khí lăng lăng,
    Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Ðằng.
    Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
    Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
    Quan hà bách nhị do thiên thiết,
    Hào kiệt công danh thử địa tằng.
    Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
    Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
    Dịch nghĩa

    Cửa Bạch Đằng

    Gió bấc thổi trên biển, khí biển lạnh rùng
    Nhẹ kéo buồm thơ để qua cửa Bạch Ðằng.
    Như cá sấu bị chặt, cá mập, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một;
    Như mũi qua chìm, cây xích gãy, bên bờ lớp lớp chống.
    Quan hà hiểm hai người chống trăm người do trời xếp đặt;
    Hào kiệt lập công danh đất ấy từng là nơi
    Quay đầu xem việc cũ, ôi xong rồi!
    Cúi xuống dòng mò bóng, ý khôn nói xiết


    Các bản dịch thơ

    Cửa Bạch Đằng [1]

    Khi biển hơi may thổi lạnh rùng;
    Bạch Đằng qua cửa nhẹ buồm dong.
    Chòm chòm núi đá kình rời đoạn[2];
    Lớp lớp bờ lau kiếm nát chồng[3].
    Quan ải trăm, hai[4], trời đặt hiểm;
    Anh hùng sự nghiệp[5] đất nên công.
    Việc xưa ngoái lại ôi rồi hết;
    Ngao ngán mò xem bóng giữa dòng.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Gió biển bắc phương về giá buốt
    Buồm reo vượt cửa khẩu sông Đằng
    Núi như kình ngạc phân đòi đoạn
    Đất tựa kích đao rải ngổn ngang
    Hai chống hàng trăm, trời yểm trợ
    Nhiều nên hào kiệt, đất tiềm tàng
    Ôi, quay đầu lại ôn muôn sự
    Ánh nước nhìn ra, ý nặng vương.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Biển vời gió bấc giá băng,
    Buồm reo qua cửa Bạch Đằng nhẹ thênh.
    Núi chia trống trải ngạc, kình,
    Bờ cao kích gãy, giáo chìm lớp lang.
    Trời làm sông, ải hiểm ngăn,
    Công lao hào kiệt, tiếng tăm chốn này.
    Ngoảnh đầu chuyện cũ: than thay!
    Cúi soi bóng nước, ý bày khó khăn!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Bạch Đằng: Cửa Bạch Đằng bấy giờ là cửa sông Chanh, ở phía đông thị trấn Quảng Yên ngày nay, chứ không phải là cửa Nam Triệu.
    2 & 3. Tả cảnh mà tưởng tượng như đó là kết quả của chiến công oanh liệt đời xưa.
    4. Trăm hai: Chữ Hán là "bách nhị", chữ ở sách Sử ký nói nước Tần có thế hiểm trở, 2 vạn quân Tần có thể địch nổi 2 trăm vạn quân của các nước chư hầu, tức 2 người địch được trăm người.
    5. Anh hùng: Chỉ các anh hùng xưa, Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn đã từng lập công ở chốn này.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 28, 2013 10:01 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Chu Công phụ Thành Vương đồ

    Bản chữ Hán

    周公輔成王圖

    懿親輔政想周公,
    處變誰將伊尹同。
    玉几遺言常在念,
    金藤故事感言功。
    安危自任扶王室,
    左右無非保聖躬。
    子孟豈能占彷彿,
    擁昭僅可挹餘風。
    Phiên âm Hán Việt

    Chu Công phụ Thành Vương đồ

    Ý thân phụ chính, tưởng Chu Công,
    Xử biến thùy tương Y Doãn đồng.
    Ngọc kỷ di ngôn thường tại niệm,
    Kim đằng cố sự cảm ngôn công.
    An nguy tự nhiệm phò vương thất,
    Tả hữu vô phi bảo thánh cung.
    Tử Mạnh khởi năng chiêm phưởng phất,
    Ủng Chiêu cẩn khả ấp dư phong.
    Dịch nghĩa

    Tranh Chu Công giúp Thành Vương

    Người thân tốt phụ chính nhớ đến Châu Công;
    Xử cảnh quyền biến, ai đem để cùng với Y Doãn?
    Lời trối ở ghế ngọc luôn luôn để dạ;
    Cái họp kim đằng trước kia đâu dám bảo là công.
    Tự mang trách nhiệm phò Vương thất lúc an lúc nguy;
    Giúp vầy không điều gì là không giữ mình Thánh chúa.
    Tử Mạnh há có thể xemphưởng phất được chăng!
    Cái việc ủng phò Chiêu Đế cũng phải nhường đứng dưới gió.


    Các bản dịch thơ

    Tranh Chu Công giúp Thành Vương

    Người thân phụ chính nhớ Chu Công;
    Y Doãn quyền nghi vốn một dòng[1].
    Ghế ngọc trối lời thường để dạ[2];
    Hộp vàng câu chuyện dám khoe công[3].
    Tự đương trách nhiệm phò vương thất;
    Gì chẳng phù trì giữ thánh cung.
    Tử Mạnh[4] dám đâu xem phưởng phất?
    Ủng Chiêu[5] cũng chỉ vái dư phong[6].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Giữ vai phò chánh, nhớ Châu Công
    Y Doãn tòng quyền ai sánh cùng?
    Lời trối ngai vàng hằng tạc dạ
    Hôm xưa sớ nghĩa dám xưng công
    Phò Vương tự nguyện an nguy gánh
    Giữ Thánh hằng lo tả hữu xông
    Tử Mạnh khó bề so sánh kịp
    Ủng Chiêu vừa xứng hưởng dư phong.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Phò chính tốt, nhớ Châu công,
    Xử như Y Doãn ai cùng sánh đây?
    Lời bên ghế ngọc dạ này,
    Dây vàng việc cũ công bày dám xưng!
    An nguy gánh vác phò vương,
    Giúp vua trái phải vẫn thường lo toan
    Dám đâu Tử Mạnh sánh ngang,
    Phò Chiêu cũng chỉ cuối làn gió thôi!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Y Doãn: Công thần của nhà Thương, giúp vua Thang đánh Kiệt, vua Thang chết, cháu là Thái Giáp vô đạo, Y Doãn đầy đi đất Đồng, được 3 năm Thái Giáp hối hận, Y Doãn lại đón về Kinh đô, Mạnh Tử khen y Doãn là thánh.
    2. Trối lời: Vũ vương ốm, Chu Công cầu với tổ tiên xin chết thay, quan sử đặt lời chúc vào hộp buộc bằng dây vàng (nên gọi là kim đằng). Vũ vương chết, Thành vương nối ngôi, Chu Công phụ chính. Quản Thúc dèm, Chu Công lánh ở sang Đông đô. Sau Thành vương mở hộp kim đằng ra xem, biết bụng Chu Công, bèn rước Chu Công về.
    4 & 5. Tử Mạnh: Tức là Hoắc Quang, đại tướng quân của nhà Hán, vâng di chiếu của Hán Vũ đế, ủng phò Chiêu đế (ủng Chiêu). Ý Nguyễn Trãi nói Hoắc Quang chỉ có thể vái theo dư phong của Chu Công, chứ không ngang hàng với Chu Công được.
    6. Dư phong: Chỉ chỗ cuối gió, nghĩa bóng là ảnh hưởng của người sau chịu của người trước.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 28, 2013 10:42 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Chu trung ngẫu thành kỳ 1

    Bản chữ Hán

    舟中偶成其一

    雨後春潮漲海門,
    天風吹起浪花噴。
    半林殘照篩煙樹,
    隔水孤鐘搗月村。
    風景可人詩入畫,
    湖山滿目酒盈樽。
    舊遊歷歷余曾記,
    往事重尋只夢魂。
    Phiên âm Hán Việt

    Chu trung ngẫu thành kỳ 1

    Vũ hậu xuân triều trướng hải môn,
    Thiên phong xuy khởi lãng hoa phunbồn.
    Bán lâm tàn chiếu si yên thụ,
    Cách thủy cô chung đảo nguyệt thôn.
    Phong cảnh khả nhân thi nhập hoạ,
    Hồ sơn mãn mục tửu doanh tôn.
    Cựu du lịch lịch dư tăng ký,
    Vãng sự trùng tầm chỉ mộng hồn.
    Dịch nghĩa

    Ngẫu nhiên làm trong thuyền - kỳ 1

    Sau mưa nước triều xuân tràn cửa biển;
    Gió trời nổi lên hoa sóng tóe phun.
    Bây nửa rừng bóng chiều xế như rây qua khói;
    Thôn cách sông tiếng chuông vắng như giã sáng trăng.
    Phong cảnh chiều người, có thơ trong hoạ
    Núi hồ đầy mắt, rót rượu chén tràn.
    Những chuyến chơi cũ ta còn nhớ mồn một;
    Việc xưa muốn tìm lại chỉ nhờ hồn mộng thôi.


    Các bản dịch thơ

    Ngẫu nhiên làm trong thuyền - kỳ 1

    Sau mưa cửa biển nước sinh con[1];
    Trời gió dâng lên tuyết sóng phun.
    Rừng nửa khói lồng rây bóng xế[2];
    Chuông đâu sông cách giã trăng thôn[3].
    Giang sơn như vẽ thơ nhiều hứng[4];
    Phong cảnh ưa nhìn rượu quá ngon[5].
    Chơi cũ ta từng ghi một một;
    Chuyện xưa tìm lại thảy không còn.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Sau mưa, cửa biển, nước xuân trào,
    Hoa sóng tung trời gió nổi cao.
    Bóng xế nửa rừng cây khói biếc,
    Chuông đâu phía bãi nện trăng chiều.
    Ưa người, phong cảnh thơ vào họa,
    Ðầy mắt non sông rượu ắp bầu.
    Từng cuộc chơi xưa ta nhớ rõ,
    Chuyện qua, tìm lại giữa chiêm bao.

    Bản dịch: Khương Hữu Dụng


    Mưa tạnh, triều xuân dâng cửa biển
    Gió lên, sóng cuộn tợ trăng hoa
    Nửa rừng bóng xế, cây lồng khói
    Cách bến chuông rền trăng xóm xa.
    Quang cảnh gây nguồn thi lẫn họa
    Núi hồ đẹp mắt, rượu đầy vơi
    Nhớ thay từng buổi giao du trước
    Kỷ niệm chừ ôn qua mộng thôi.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Tạnh mưa cửa biển triều xuân,
    Gió lên - hoa sóng trào dâng bọt đầy.
    Ánh chiều khói nửa rừng cây,
    Xóm trăng chuông lẻ rền lay cách bờ.
    Cảnh làm người vẽ vào thơ,
    Rượu đầy chén thỏa núi hồ ngắm thôi!
    Còn ghi nhớ chuyến đi chơi,
    Chuyện xưa ấy gặp tìm nơi mộng hồn.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Nước sinh con: Nước thủy triều lên người ta gọi là "con nước"; nước triều sinh thêm một con là nước lên thêm một mực. Vì thế ở đây chỉ nước triều lên chúng tôi dùng hình tượng "nước sinh con".
    2. Tác giả dùng hình tượng buổi chiều tà làn khói vắt trên cây khoảng nửa rừng như cây bóng xế của mặt trời.
    3. Tác giả dùng hình tượng chày đánh suông như giã ánh trăng trong thôn cách sông. So câu Kiều: Tiếng chày nện sương.
    4. Chữ "phong cảnh" câu trên và chữ "Hồ sơn" câu dưới, chúng tôi vì niêm luật phải đổi cho nhau, thấy cũng không hại tứ thơ. Chữ "khả nhân" dịch ý là "nhiều hứng".
    5. Ưa nhìn: Chữ "mãn mục" nghĩa là "đầy mắt" mà dịch là "ưa nhìn" và chữ "tửu doanh tôn" mà dịch là "rượu quả ngon" cũng đều là dịch ý.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 28, 2013 11:18 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Chu trung ngẫu thành kỳ 2

    Bản chữ Hán

    舟中偶成其二

    海角天涯肆意遨,
    乾坤到處放吟毫。
    漁歌三唱煙湖闊,
    牧笛一聲天月高。
    清夜憑虛觀宇宙,
    秋風乘興駕鯨鰲。
    悠然萬事忘情後,
    妙理真堪付濁醪。
    Phiên âm Hán Việt

    Chu trung ngẫu thành kỳ 2

    Hải giác thiên nhai tứ ý ngao,
    Kiền khôn đáo xứ phóng ngâm hào.
    Ngư ca tam xướng yên hồ khoát,
    Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao.
    Thanh dạ bằng hư quan vũ trụ,
    Thu phong thừa hứng giá kình ngao.
    Du nhiên vạn sự vong tình hậu,
    Diệu lý chân kham phó trọc lao.
    Dịch nghĩa

    Ngẫu nhiên làm trong thuyền - kỳ 2

    Góc biển chân trời mặc ý đi chơi;
    Trong trời đất đến đâu cũng phóng bút ngâm vịnh.
    Ba câu hát ông chài, hồ khói rộng;
    Một tiếng sáo chú mục, trời trăng cao.
    Đêm thanh đứng dựa không mà xem vũ trụ;
    Gió thu muốn thừa hứng mà cưỡi kình ngao.
    Lâng lâng sau khi quên hết muôn việc,
    Lẽ mầu nhiệm thực đáng phó cho rượu ngon.


    Các bản dịch thơ

    Ngẫu nhiên làm trong thuyền - kỳ 2

    Góc biển bên trời mặc ý chơi;
    Đến đâu cũng phóng bút ngâm hoài[1].
    Ông chài hồ rộng ba câu hát;
    Chú mục trăng cao một tiếng còi.
    Đêm vắng tựa không xem tạo biến[2];
    Gió thu thừa hứng cưỡi kình bơi.
    Lâng lâng muôn việc khi quên hết,
    Lẽ nhiệm đành nhường chén rượu thôi[3].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Góc biển chân mây, thỏa bước hào,
    Kiền không đâu cũng hứng thơ trào.
    Ca chài sớm nổi hồ lan rộng,
    Sáo mục chiều vang trăng vút cao.
    Ðêm vắng khoảng không vang vũ trụ,
    Gió thu cơn hứng cưỡi kình ngao.
    Sau khi muôn vật lâng lâng trút,
    Gửi chén quỳnh kia lẽ nhiệm mầu.

    Bản dịch: Khương Hữu Dụng


    Chân trời góc biển bước khinh khinh
    Khắp xứ đề thơ thỏa ý bình
    Ngư phủ hò vang hồ khói thoảng
    Mục đồng sáo dội cõi trăng thanh
    Kề đêm vắng, ngắm xem trời đất
    Ngỡ gió thu đưa cưỡi ngạc kình
    Nhẹ nhõm tinh thần, quên thế sự
    Nhiệm mầu sẵn có chất men quỳnh.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Chân trời góc bể rong chơi,
    Đất trời đâu cũng bút vời ngâm vang.
    Chài ca hồ rộng khói giăng,
    Trăng cao tiếng sáo kẻ chăn vút trời!
    Dựa đêm thanh, ngắm không-thời,
    Gió thu nhân hứng cưỡi chơi ngao kình.
    Thảnh thơi bao việc quên tình,
    Lẽ chân: rượu đục cũng đành gửi trao.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Ngâm hoài: Chữ Hán là "phóng ngâm hào", nghĩa là phóng cái bút ngâm thơ, chúng tôi dịch là "phóng ngâm hoài", nghĩa là phóng cái hứng thú ngâm thơ.
    2. Tạo biến: Dùng "tạo hóa" thì được chữ liền, nếu lấy tạo là danh từ, hóa là động từ thì có thể đối với kình bới ở câu sau được. Nhưng "tạo hóa" thường không thể hiểu tách như thế mà là một khái niệm đơn nhất, cho nên chúng tôi phải dùng từ "tạo biến" với ý nghĩa là con tạo, thợ tạo biến hóa, cũng hợp với ý nghĩa của nguyên văn là "quan vũ trụ".
    3. Chén rượu: Chữ Hán "phó trọc giao" là phó cho hớp rượu ngon, dịch là: "vừa chén rượu thôi", tưởng ý không sai. "Trọc giao" là rượu đục, tức rượu ngon.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 28, 2013 1:52 pm

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Đề Bá Nha cổ cầm đồ

    Bản chữ Hán

    題伯牙鼓琴圖

    鐘期不作鑄金難,
    獨抱瑤琴對月彈。
    靜夜碧宵涼似水,
    一聲鶴唳九皋寒。
    Phiên âm Hán Việt

    Đề Bá Nha cổ cầm đồ

    Chung Kỳ bất tác chú kim nan,
    Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.
    Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ,
    Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.
    Dịch nghĩa

    Đề bức hoạ Bá Nha đánh đàn

    Không làm được Chung Kỳ vì đúc vàng khó;
    Một mình ôm đàn ngọc đối trăng mà đàn.
    Đêm lặng vòm trời biếc lạnh như nước,
    Một tiếng hạc rít lạnh ngắt ở chín chằm.


    Các bản dịch thơ

    Đề bức hoạ Bá Nha đánh đàn

    Chung Kỳ vàng dễ đúc nên đâu[1];
    Đối nguyệt ôm đàn một khắc nào!
    Vòm biếc đêm thanh trời tựa nước,
    Giữa chằm[2] hạc rít lạnh làm sao!


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Chung Kỳ khó đúc bằng vàng,
    Một mình ôm gảy cung đàn dưới trăng.
    Đêm yên, nước biếc, trời trong,
    Hạc kêu một tiếng, lạnh tăm chín đầm.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Đường thi có câu thơ của Đường Tăng: "An năng đắc hoàng kim, Chú tác Chung Tử Kỳ" (Sao có được vàng mà đúc Chung Tử Kỳ).
    2. Giữa chằm: Chữ Hán "Cửu cao" nghĩa là chín chỗ nước sâu ở chằm. Kinh thi có câu: "Hạc minh vu cửu cao, thanh vãn vu thiên", nghĩa là hạc kêu ở giữa chằm, tiếng nghe tận trời. Dịch thoát chín chỗ sâu trong chằm là giữa chằm.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Jan 28, 2013 3:09 pm

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Đề Hoàng ngự sử Mai Tuyết hiên
    (Thất ngôn trường thiên)
    Bản chữ Hán

    題黃御史梅雪軒

    豸冠峨峨面似鐵,
    不獨愛梅兼愛雪。
    愛梅愛雪愛緣何?
    愛緣愛雪梅清潔。
    天然梅雪自兩奇,
    更添臺柏真三絕。
    羅浮仙子冰為魂,
    頃刻能令瓊作屑。
    夜深琪樹碎玲瓏,
    月戶風窗寒凜烈。
    若非風遞暗香來,
    紛紛一色何由別。
    巡簷不怕玉樓寒,
    銀海搖光更清徹。
    九重軫念及遐氓,
    萬里錦衣遙駐節。
    霜風捲地氣橫秋,
    身在炎荒心魏闕。
    交南十月暖如春,
    夢中只有花堪折。
    將心托物古有之,
    高蠋深期蹈前哲。
    東坡謂竹不可無,
    濂溪愛連亦有說。
    乾坤萬古一清致,
    灞橋詩思西湖月。
    Phiên âm Hán Việt

    Đề Hoàng ngự sử Mai Tuyết hiên

    Trãi quan nga nga diện tự thiết,
    Bất độc ái mai kiêm ái tuyết.
    Ái mai ái tuyết ái duyên hà,
    Ái duyên tuyết bạch mai thanh khiết.
    Thiên nhiên mai tuyết tự lưỡng kỳ,
    Cánh thiêm đài bách chân tam tuyệt.
    La Phù tiên tử băng vi hồn,
    Khoảnh khắc năng linh quỳnh tác tiết.
    Dạ thâm kỳ thụ toái linh lung,
    Nguyệt hộ phong song hàn lẫm liệt.
    Nhược phi phong đệ ám hương lai,
    Phân phân nhất sắc hà do biệt.
    Tuần thiềm bất phạ ngọc lâu hàn,
    Ngân hải dao quang cánh thanh triệt.
    Cửu trùng chẩn niệm cập hà manh,
    Vạn lý cẩm y dao trú tiết.
    Sương phong quyển địa khí hoành thu,
    Thân tại viêm hoang lâm nguỵ khuyết.
    Giao nam thập nguyệt noãn như xuân,
    Mộng trung chỉ hữu hoa kham chiết.
    Tương tâm thác vật cổ hữu chi,
    Cao trục thâm kỳ đạo tiền triết.
    Đông Pha vị trúc bất khả vô,
    Liêm Khê ái liên diệc hữu thuyết.
    Càn khôn vạn cổ nhất thanh trí,
    Bá Kiều thi tứ Tây Hồ nguyệt.
    Dịch nghĩa

    Đề hiên Mai Tuyết của Hoàng ngự sử

    Mũ giải trãi dáng cao mạnh mẽ, mặt tựa sắt
    Không riêng yêu mai mà còn yêu tuyết nữa
    Vì sao yêu mai và yêu tuyết?!
    Bởi vì tuyết trắng trong và mai thì trong sạch
    Mai và tuyết là hai loại kỳ lạ trong thiên nhiên
    Lại thêm cái đài gỗ bách, cả ba thực sự rất tuyệt vời
    Tiên ở núi La Phù hồn băng giá
    Ngọc quỳnh khoảnh khắc vụn vỡ tan tành
    Đêm khuya khoắt cây ngọc vỡ tan lòa xòa lóng lánh
    Trăng bên cửa, gió qua song lạnh buốt ghê hồn
    Nếu không có gió đổi thay, hương đến lặng thầm
    Làm sao phân biệt được một màu hỗn độn?
    Tử Chiêm đi tuần tra không sợ lầu ngọc lạnh căm
    Biển bạc ánh sáng lay động lại thêm trong suốt
    Vua nơi chín tầng thương xót dân chúng ở vùng xa xôi
    Gặp tiết, áo gấm nhà vua dừng chân nơi xa xôi ngàn dặm
    Gió sương cuốn đất, khí thu giăng giăng
    Thân nơi chốn hoang vu xa xăm ở phương nam, nhưng lòng vẫn hướng về cửa khuyết cung vua
    Miền Giao Nam tháng mười ấm như mùa xuân
    Loài hoa đáng hái chỉ ở trong giấc mộng thôi
    Lòng trao gửi vật xưa cũ
    Theo bậc hiền trí cao xa từ trước
    Với Đông Pha không thể không có trúc
    Liêm Khê yêu sen lại có thuyết
    Đất trời muôn thuở rất là trong lắng
    Ý thơ nơi cầu Bá, trăng soi Tây Hồ.


    Các bản dịch thơ

    Đề hiên Mai Tuyết của Hoàng ngự sử

    Hiên ngang mũ trãi[1] mặt tựa sắt,
    Không những yêu mai lại yêu tuyết.
    Yêu mai yêu tuyết bởi vì đâu?
    Vì tuyết trắng mà mai thanh khiết.
    Thiên nhiên mai tuyết hai giống kỳ,
    Lại thêm bách đài[2] đủ tam tuyệt.
    Tiên nữ La Phù[3] giá làm hồn,
    Khoảnh khắc ngọc quỳnh ra nát bét.
    Đêm khuya cây ngọc tan long lanh,
    Trăng ngõ gió song lạnh ráo riết.
    Nếu không hương ngầm gió thoảng đưa,
    Một sắc lan man sao phân biệt?
    Dạo thềm[4] không sợ lạnh ngọc lâu[5];
    Biển bạc ánh lay trong thấu, triệt[6].
    Chín trùng thương xót dân phương xa,
    Muôn dặm áo gấm sai trú tiết.
    Gió sương cuốn đất khí thu hăng[7],
    Thân ở phương Nam lòng Ngụy khuyết[8].
    Giao nam tháng mười ấm như xuân,
    Trong mộng chỉ hoa này đáng chiết.
    Đem lòng gởi vật người thuở xưa,
    Cao bước dốc mong theo tiền triết.
    Đông Pha bảo trúc không thể thiếu[9];
    Liêm Khê yêu sen có thuyết hay[10].
    Càn khôn muôn thuở niềm trong trắng,
    Tứ thơ cầu Bá[11] trăng hồ Tây[12].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Mũ trãi cao cao gương mặt sắt
    Yêu luôn tuyết, nào chỉ yêu mai
    Vì sao yêu không một mà hai?
    Bởi tuyết trắng, còn mai thanh khiết
    Trang điểm bách đài quả tam tuyệt
    Hai loại trời cho vẻ thanh cao
    Tỉnh dưới gốc mai tiên nữ còn đâu?
    Trong khoảnh khắc ngọc quỳnh tan tuyệt
    Cành ngọc khuya lung linh bách chiết
    Gió song, trăng cửa lạnh khôn cùng
    Nhờ thoáng hương đưa ấm cõi lòng
    Một màu lan man khó phân biệt
    Lầu ngọc dạo thềm không ngại rét
    Lung linh ánh bạc giải ngân hà
    Chín trùng xót cảnh dân phương xa
    Cờ mao tiết cẩm bào vạn lý
    Nhuốm gió sương lòng tăng tiết khí
    Hướng về Ngụy khuyết tự phương Nam
    Tháng mười Giao Chỉ ấm như xuân
    Trong mộng chỉ mai là đáng chiết
    Vật quý lòng trao người cửu biệt
    Nền triết xưa quyết học nâng cao
    Với Đông Pha trúc khó thiếu nào
    Chẳng khác gì sen Liêm Khê thích
    Thanh trí nghìn xưa trong trời đất
    Như thi cầu Bá, nguyệt Hồ Tây.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Cao cao mặt sắt mũ quan,
    Mai riêng yêu mến, yêu sang tuyết này.
    Duyên nào yêu tuyết yêu mai?
    Bởi vì tuyết trắng mai đây trong ngời!
    Thiên nhiên - mai tuyết lạ rồi,
    Lại thêm đài bách tuyệt vời cả ba.
    Hồn tiên buốt giá núi La,
    Ngọc quỳnh giây lát vụn ra tan tành.
    Đêm cây ngọc vỡ long lanh,
    Gió song, trăng cửa lạnh tanh vô vàng.
    Nếu không gió đổi hương thầm,
    Làm sao định được lan man một màu.
    Tuần Chiêm lầu lạnh sợ đâu!
    Trong veo lóng lánh thêm vào biển ngân
    Dân xa thương xót: chín tầng,
    Xe vua áo gấm dặm ngàn xa xăm,
    Gió sương thu cuốn, hơi giăng,
    Hướng lòng cửa khuyết, chốn hoang thân người
    Giao Nam xuân ấm tháng mười,
    Loài hoa đáng hái có nơi mộng là!?
    Trao lòng gửi vật xưa kia,
    Theo chân hiền trí cao xa trước này.
    Đông Pha chẳng thiếu trúc đây,
    Liêm Khê có thuyết yêu loài sen thôi.
    Lắng trong muôn thuở đất trời,
    Ý thơ cầu Bá, trăng lơi Tây Hồ.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Mũ trãi: Mũ quan ngự sử, trên cầu mũ có khắc hình sừng con giải trãi là loài thú có một sừng, Người Trung Quốc xưa cho rằng, hễ là người không chính trực thì nó tất húc, nên dùng nó để tượng trưng quan ngự sử giữ việc đàn hặc các quan.
    2. Bách đài: Chỉ đài ngự sử, vì xưa ờ Trung quốc trong phủ ngự sử trồng nhiều cây bách.
    3. La Phù: Núi tiên ở miền tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Sách Long Thành lục chép rằng Triệu Sư Hùng đi chơi núi La Phù gặp người đàn bà áo trắng đón vào quán rượu, Sư Hùng say nằm ngủ, sáng dậy thấy mình nằm dưới gốc mai. Câu này là theo tích ấy.
    4. Dạo thềm:

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyTue Jan 29, 2013 1:59 pm

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Đề kiếm

    Bản chữ Hán

    題劍

    藍山自昔臥神龍,
    世事懸知在掌中。
    大任有歸天啓聖,
    昌期一遇虎生風。
    國讎洗盡千年恥,
    金匱終藏萬世功。
    整頓乾坤從此了,
    世間那更數雄英。
    Phiên âm Hán Việt

    Đề kiếm

    Lam Sơn tự tích ngoạ thần long
    Thế sự huyền tri tại chưởng trung
    Ðại nhiệm hữu quy thiên khải thánh
    Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong
    Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ
    Kim quỹ chung tàng vạn thế công
    Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu
    Thế gian na cánh sổ anh hùng.
    Dịch nghĩa

    Đề gươm

    Rồng thần từ xưa nằm ở Lam Sơn,
    Việc đời đã biết trước như nắm trong tay.
    Việc lớn đã chọn người, trời báo cho thánh biết;
    Thời thịnh mà gặp được thì hùm sinh gió tức bay được.
    Thù nước đã rửa sạch sỉ nhục hàng nghìn năm;
    Trong hộp vàng cuối cùng xếp công muôn thuở.
    Chỉnh đốn càn khôn từ đó là xong;
    Thế gian lại có đếm xỉa gì bực người anh hùng nữa


    Các bản dịch thơ

    Đề gươm

    Lam Sơn từ thuở rồng chưa bay[1],
    Từng liệu việc đời nắm giữa tay.
    Trao gánh non sông trời báo triệu[2];
    Gặp thì mây gió cọp sinh vây[3].
    Nước hờn rửa nhục nghìn năm sạch;
    Hòm quí[4] vùi công vạn thuở này.
    Chỉnh đốn càn khôn thôi tự đó;
    Anh hùng, thiên hạ kể chi đây[5].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Lam Sơn đất đã có thần rồng
    Sự thể tay cầm rõ tích tông
    Trời khéo chọn vai người đảm trách
    Dịp thừa hóa gió cọp hoành tung
    Nghìn năm nhục rửa, nguôi thù nước
    Một tráp vàng lưu, mãi nhớ công
    Từ đấy đất trời đà chỉnh đốn
    Thế gian đếm được mấy anh hùng?

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Lam Sơn xưa có rồng thần,
    Chuyện đời xa biết trong bàn tay thôi.
    Giao cho việc lớn: ý trời!
    Hổ sinh thành gió gặp thời sáng tươi.
    Nghìn năm thù nước rửa rồi,
    Tráp vàng cất giữ muôn đời chiến công.
    Đất trời xếp đặt đã xong,
    Cõi đời đếm được anh hùng bao lăm.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Rồng chưa bay: Tức rồng còn nằm. Chỉ Lê Lợi khi còn ẩn ở Lam Sơn.
    2. Trời báo triệu: Chữ Hán "thiên khải thánh" là trời báo cho thánh biết, bằng cách cho Lê Lợi bắt được kiếm thần.
    3. Cọp sinh vây: Chữ Hán "Hổ sinh phong" là cọp sinh gió, chúng tôi dịch ý là "cọp sinh vây", có thể bay được (vây tức là cánh, chữ Hán có chữ Hổ dực).
    4. Hòm quí: Chữ Hán "kim quỹ" là hòm vàng. Hán Cao tổ ghi công các công thần vào hòm vàng rồi cất vào nhà đá.
    5. Câu này than người đời không đếm xỉa gì đến người anh hùng nữa khi giặc đã yên, cái công lớn đem chôn cất vào kim quỹ, thế là xong rồi.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyTue Jan 29, 2013 2:38 pm

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Đề Ngọc Thanh quán

    Bản chữ Hán

    題玉清館

    紫府樓臺倚碧岑,
    十年今夕一登臨。
    松花落地金壇靜,
    磬響穿雲道院深。
    金鼎丹成人已去,
    黃梁夢覺事難尋。
    猿愁鶴怨無窮意,
    寒日蕭蕭竹隔林。
    Phiên âm Hán Việt

    Đề Ngọc Thanh quán

    Tử phủ lâu đài ỷ bích sầm,
    Thập niên kim tịch nhất đăng lâm.
    Tùng hoa lạc địa kim đàn tĩnh,
    Khánh hưởng xuyên vân đạo viện thâm.
    Kim đỉnh đơn thành nhân dĩ khứ,
    Hoàng lương mộng giác sự nan tầm.
    Viên sầu hạc oán vô cùng ý,
    Hàn nhạc tiêu tiêu trúc cách lâm.
    Dịch nghĩa

    Đề quán Ngọc Thanh

    Lâu đài phủ tía dựa trên núi biếc;
    Mười năm rồi tối nay mới lại lên thăm.
    Hoa tùng rụng đất, kim đàn lặng lẽ;
    Tiếng khách thấu mây, đạo viện thẳm sâu.
    Đỉnh vàng nấu thuốc xong, người tiên đi mất;
    Kê vàng giấc mộng tỉnh, việc cũng khó tìm.
    Vượn sầu hạc oán, ý vô cùng khôn xiết
    Ngày lạnh lao xao tiếng trúc cách rừng.


    Các bản dịch thơ

    Đề quán Ngọc Thanh [1]

    Lâu đài phủ tía[2] dựa non cao;
    Hàng chục năm nay mới lại trèo.
    Rải đất hoa tùng đàn đạo vắng,
    Thâu mây tiếng khánh[3] viện tiên sâu.
    Đỉnh thành thuốc đỏ[4] người đi mất;
    Mộng tỉnh kê vàng[5] việc thấy đâu!
    Hạc oán vượn sầu khôn xiết nỗi,
    Cách rừng ngày lạnh trúc lao xao.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Lâu đài tía dựa non cao
    Chiều nay nhớ lại chuyến nào mười năm
    Kim đàn đầy rụng hoa thông
    Rung mây tiếng khánh viễn thâm đạo tràng
    Người tiên rời khỏi đĩnh vàng
    Tiếc khi tỉnh mộng hoàng lương khó tìm
    Vượn sầu hạc oán bao niềm
    Lao xao tiếng trúc rừng bên lạnh lùng.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Dựa non phủ tím lầu đài
    Mười năm lên đến tối nay một lần.
    Bệ vàng vắng rụng hoa thông,
    Viện sâu khánh vọng xuyên tầng mây vang.
    Người đi xong thuốc đỉnh vàng,
    Giấc kê tỉnh mộng khó khăn để tìm,
    Vượn sầu, hạc oán bao niềm,
    Vi vu ngày lạnh trúc bên kia rừng!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Ngọc Thanh: quán ở xã Đạm Thủy, huyện Đông Triều tỉnh Hải Dương.
    2. Phủ tía: Chỗ ở của các tiên thánh đạo giáo.
    3. Tiếng khánh: Bản Dương Bá Cung chép là "bích thanh"; bản Thi lục chép là "khánh thanh" chúng tôi cho là đúng. Bản kia lộn chữ Khánh thành chữ Bích.
    4. Thuốc đỏ: Tức là đơn dược, thuốc tiên luyện bằng đơn sa (sắc đỏ).
    5. Kê vàng: Theo điển chép trong chuyện Chẩm trung ký đời Đường, có người vào nhà hàng đợi nhà hàng nấu kê, nằm ngủ thiếp đi, chiêm bao được giàu sang, khi tỉnh dậy thì nồi kê của nhà hàng vẫn chưa chín, do đó người ta thường nói mộng kê vàng (hoàng lương).

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyTue Jan 29, 2013 3:10 pm

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Đề Thạch Trúc oa

    Bản chữ Hán

    題石竹窩

    傍石移栽竹幾竿,
    玲瓏色映碧琅玕。
    煙梢露滴衣裳冷,
    地骨雲生枕簞寒。
    幽致已應塵外想,
    清標還愛雪中看。
    窗前月白供佳賞,
    退食聊將寓暫歡。
    Phiên âm Hán Việt

    Đề Thạch Trúc oa

    Bạng thạch di tài trúc kỷ can,
    Linh lung sắc ánh bích lang can.
    Yên sao lộ trích y thường lãnh,
    Địa cốt vân sinh chẩm điệm hàn.
    U trí dĩ ưng trần ngoại tưởng,
    Thanh tiêu hoàn ái tuyết trung khan.
    Song tiền nguyệt bạch cung giai thưởng,
    Thối thực liêu tương ngụ tạm hoan.
    Dịch nghĩa

    Đề Thạch Trúc oa

    Bên đá dời đến trồng trúc mấy cây;
    Trong sắc sáng long lanh chiếu ánh ngọc xanh biếc.
    Giọt móc trên ngọn vương khói khiến xiêm áo lạnh;
    Xương đất (tức là đất) bốc mây lên, gối đệm cũng lạnh
    Tính u nhã đã nên tưởng ở ngoài trần tục;
    Tính thanh tao xem ở trong tuyết còn thú hơn.
    Trước cửa sổ khi trăng sáng cho ta thưởng thức vẻ đẹp;
    Sau bữa cơm ta lấy làm chỗ tạm ngụ niềm vui.


    Các bản dịch thơ

    Đề Thạch Trúc oa

    Trúc dời bên đá mấy cây chơi[1];
    Sắc ánh long lanh ngọc biếc tươi.
    Gối nệm lạnh hơi xương đất bốc[2];
    Áo quần dầm móc ngọn mây rơi[3].
    Bụi trần u nhã không hề vướng;
    Trời tuyết thanh tao lại thích coi.
    Trăng tỏ trước song bày cảnh đẹp;
    Lui chân chốn ấy tạm tìm vui.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Trúc dời bên đá mấy cây
    Lung linh ánh ngọc đó đây rạng ngời
    Đầu cành nhuốm áo sương rơi
    Đất chuyền lạnh gối, bốc hơi đá ngầm
    Tưởng chừng thoát hẳn bụi trần
    Ngắm nhìn tuyết trắng vô ngần thanh tao
    Ngoài song trăng sáng rọi vào
    Cơm xong, tạm hưởng đây bao thú nhàn.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Trúc trồng bên đá vài cây,
    Long lanh sắc ngọc, ánh bày biếc xanh.
    Khói sương - xiêm áo lạnh tanh,
    Hơi mây lòng đất gối chăn lạnh lùng.
    Ẩn sâu tưởng thoát cõi trần,
    Thanh cao, vẫn thích ngắm làn tuyết thôi.
    Thưởng trăng trước cửa đẹp vời,
    Ăn xong, hãy tạm ở nơi vui vầy!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Ngọc biếc tươi: Chữ Hán là "bích lang can", tức là đá ngọc sắc biếc.
    2. Xương đất: Đá, xưa người ta cho là xương của đất. Sách Lãi Hải tập nói: Đá sinh hoặc hình vuông; vuông là xương của đất.
    3. Ngọn mây: Chữ Hán là "yên sao", nghĩa là ngọn khói, ngọn vướng khói, vì cây tre cao như lên tận mây.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyThu Jan 31, 2013 9:06 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự

    Bản chữ Hán

    題安子山花煙寺

    安山山上最高峰,
    纔五更初日正紅。
    宇宙眼窮滄海外,
    笑談人在碧雲中。
    擁門玉槊森千畝,
    掛石珠流落半空。
    仁廟當年遺跡在,
    白毫光裏睹重瞳。
    Phiên âm Hán Việt

    Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự

    Yên sơn sơn thượng tối cao phong,
    Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng.
    Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại,
    Tiếu đàm nhân tại bích vân trung.
    Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu,
    Quải thạch châu lưu lạc bán không.
    Nhân miếu đương niên di tích tại.
    Bạch hào quang lý đỗ trùng đồng.
    Dịch nghĩa

    Đề ở chùa Hoa Yên núi Yên Tử

    Trên núi Yên Tử ở chòm cao nhất
    Mới đầu canh năm mà mặt trời đã rực hồng.
    Mắt nhìn vũ trụ ra tận ngoài biển xanh;
    Người ta nói cười ở trong làn mây biếc.
    Giáo ngọc (cây trúc) cắm ở cửa rậm rà nghỉn mẫu;
    Tua châu (nhũ đá) treo ở đá rủ xuống lưng chừng.
    Vua Nhân Tôn bấy giờ còn để dấu;
    Trông ánh hào quang trông thấy rõ mắt đôi con ngươi.


    Các bản dịch thơ

    Đề ở chùa Hoa Yên núi Yên Tử

    Trên non Yên Tử[1] chòm cao nhất,
    Trời mới canh năm đã sáng tinh.
    Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả;
    Nói cười người ở giữa mây xanh.
    Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa[2];
    Bao dãi tua châu đá rủ mành[3].
    Dấu cũ Nhân tôn còn vẫn đấy,
    Trùng đồng[4] thấy giữa áng quang minh[5].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Trên núi Yên Tử chòm cao nhất
    Vừa mới canh năm đã sáng trời
    Tầm mắt bao trùm nơi biển tận
    Từng mây nghe thoảng tiếng ai cười
    Rừng vươn giáo dựng tre nghìn mẫu
    Đá rũ rèm buông nhũ nửa vời
    Miếu cổ Nhân Tông hằng để dấu
    Mắt còn trắng tỏa ánh đôi ngươi.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Yên Sơn trên đỉnh núi cao,
    Trời hồng đã ửng vừa vào canh năm.
    Ngoài khơi, vũ trụ xa xăm,
    Người cười nói giữa mây tầng biếc trong.
    Cửa ngàn giáo ngọc rậm đông,
    Đá treo tua ngọc nửa chừng rủ buông.
    Vẫn còn dấu miếu Nhân Tông,
    Thấy vầng sáng trắng đôi tròng con ngươi.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Yên Tử: Núi Yên Tử ở huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương, lại có tên là núi Đầu Voi. Tương truyền Yên Kỳ Sanh tu luyện ở đấy cho nên đặt tên là núi Yên Tử. Sách Phong Vực chí chép rằng trên núi Yên Tử có ngọn Tử Tiêu, am Ngọa Vân và Long Động, chùa Yên Hóa ở trên ngọn cao nhất, Trần Nhân Tôn ở đấy tu đạo Phật, tức là Trúc Lâm đệ nhất tổ.
    2. Tre gài cửa: Núi Yên Tử nhiều trúc, còn cả rừng trúc hoa rất đẹp ở đỉnh núi.
    3. Đá rủ mành: Chỉ thạch nhũ ở đá rủ xuống.
    4. Trùng đồng: Tương truyền Trần Nhân Tôn có tướng lạ là mắt có hai con ngươi, chữ Hán là "trùng đồng". Hiện còn tháp có tượng đá của Trần Nhân Tôn.
    5. Áng quang minh: Chữ Hán là "bạch hào quang lý", nghĩa là trong ánh hào quang trắng. Sách Phật nói Đức Phật có hào tướng sắc trắng ở giữa lông mày phóng ra ánh sáng. Vì truyền rằng Trần Nhân Tôn tu thành Phật nên tác giả nói trong ánh hào quang trắng ở lông mày tỏa ra, thấy rõ mắt hai con ngươi.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyThu Jan 31, 2013 3:15 pm

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Đoan Ngọ nhật

    Bản chữ Hán

    端午日

    天中共喜值佳辰,
    酒泛菖蒲節物新。
    進帖當年思永叔,
    沉湘底事嘆靈均。
    闢邪不用絲纏臂,
    隨俗聊為艾結人。
    願把蘭湯分四海,
    從今澡雪舊污民。
    Phiên âm Hán Việt

    Đoan Ngọ nhật

    Thiên trung cộng hỉ trị giai thần,
    Tửu phiếm xương bồ tiết vật tân.
    Tấn thiếp đương niên tư Vĩnh Thúc,
    Trầm Tương để sự thán Linh Quân.
    Tịch tà bất dụng ti triền tý,
    Tùy tục liêu vi ngải kết nhân.
    Nguyện bả lan thang phân tứ hải,
    Tòng kim tháo tuyết cựu ô dân.
    Dịch nghĩa

    Ngày Đoan Ngọ

    Giữa trưa cùng vui, gặp thời tiết tốt;
    Rượu rắc xương bồ là vật mới ngày tết.
    Nhớ Vĩnh Thức năm ấy dâng thiếp can vua;
    Than việc Linh Quân tự trầm ở sông Tương
    Để trừ tà không dùng tơ buộc quanh cánh tay;
    Theo phong cũng bện cây ngải làm hình người.
    Nguyện đem nước thang lan chia khắp bốn biển,
    Để từ nay rửa sạch cái nhơ nhớp cũ cho dân.


    Các bản dịch thơ

    Ngày Đoan Ngọ

    Giữa trưa ngày tết lúc cùng vui,
    Rượu mới xương bồ uống tết chơi[1].
    Nhớ Vĩnh Thúc can dâng thiếp trực[2];
    Thương Linh Quân chết tỏ trung côi[3].
    Tơ màu chẳng thích bùa trừ quỷ[4];
    Ngải cứu đành theo tục bện người[5].
    Nguyện lấy thang lan[6] chia bốn biển,
    Vi dân rửa sạch vết tanh hôi.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Tiết đẹp cùng vui giữa buổi trưa
    Quà ngon, rượu tết ướp xương bồ
    Dòng Tương nhớ Linh Quân gieo mạng
    Tờ sớ từng Vĩnh Thúc can vua
    Chẳng buộc vào tay tơ khử quỷ
    Đành treo trước cửa ngải trừ ma
    Thang lan bốn bể nguyền phân phối
    Để quyết vì dân tẩy vết dơ.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Đẹp trời lúc sáng vui cùng,
    Xương bồ, rượu mới bềnh bồng tiết sang.
    Nhớ năm Vĩnh Thúc thiếp dâng,
    Sông Tương xót việc Linh Quân trầm mình.
    Trừ tà, chẳng buộc tơ quanh,
    Ngải kia theo tục, kết thành hình nhân
    Nước lan, bốn bể nguyện phân,
    Bẩn xưa rửa sạch cho dân từ giờ!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Xương bồ: Một thứ cây nhỏ, ở Trung quốc có tục ngày tết Đoan ngọ thì lấy cây xương bồ tán nhỏ ra mà rắc vào rượu để uống.
    2. Vĩnh Phúc: Tức Âu Dương Tu đời Tống Nhân Tôn, dâng sớ can vua về việc bãi chức nhiều quan đại thần trung nghĩa.
    3. Linh Quân: tức là Khuất Nguyên. Tết Đoan ngọ chính là ngày giỗ Khuất Nguyên.
    4. Bùa trừ quỉ: Tết Đoan ngọ có tục đeo bùa ngũ sắc để trừ tà.
    5. Bện người: Tết Đoan ngọ có tục lấy câu ngải cứu bện hình người, để khô mà dùng làm thuốc; người ta lại hay bện theo hình con động vật thuộc về năm ấy, ví dụ như năm Tý thì bện hình con chuột, năm Sửu thì bện hình con trâu.
    6. Thang lan: Nước nấu lá lan, tức lá sả, để gội đầu và tắm cho thơm.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyThu Jan 31, 2013 4:32 pm

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Dục Thúy sơn

    Bản chữ Hán

    浴翠山

    海口有仙山,
    年前屢往還。
    蓮花浮水上,
    仙景墜塵間。
    塔影針青玉,
    波光鏡翠鬟。
    有懷張少保,
    碑刻蘚花斑。
    Phiên âm Hán Việt

    Dục Thúy sơn

    Hải khẩu hữu tiên san,
    Niên tiền lũ vãng hoàn.
    Liên hoa phù thủy thượng,
    Tiên cảnh trụy nhân gian.
    Tháp ảnh, trâm thanh ngọc,
    Ba quang kính thúy hoàn.
    Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
    Bi khắc tiển hoa ban.
    Dịch nghĩa

    Ngày Đoan Ngọ

    Nơi cửa biển có ngọn núi tiên;
    Năm trước đã nhiều lần đi về ở đấy.
    Như hoa sen nổi trên mặt nước;
    Như cảnh tiên rớt xuống trần gian.
    Bóng tháp như hình trâm ngọc xanh cài vào;
    Ánh nước như gương chiếu búi tóc biếc.
    Thấy cảnh nhớ đến Trương Thiếu Bảo,
    Bia khắc đã lốm đốm hoa rêu.


    Các bản dịch thơ

    Ngày Đoan Ngọ [1]

    Cảnh động ngay cửa biển;
    Năm nào vẫn dạo rong.
    Hoa sen trôi mặt nước;
    Cõi tục nổi non bồng[2].
    Bóng tháp cài trâm ngọc;
    Tóc mây[3] chiếu kính sông.
    Nhớ xưa Trương thiếu bảo[4],
    Bia khắc đốm rêu phong.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Cửa biển có núi tiên,
    Năm xưa lối về quen.
    Non bồng nơi cõi tục,
    Mặt nước nổi đài sen.
    Bóng tháp ngời trâm ngọc,
    Tóc mây gợn ánh huyền.
    Chạnh nhớ Trương Thiếu Bảo,
    Bia rêu lốm đốm nền.

    Bản dịch: Huy Cận


    Có ngọn núi tiên đầu cửa biển
    Mấy lần năm trước đã qua đây
    Lênh đênh nước tựa đài sen nở
    Tiên cảnh đâu như lạc chốn này
    Bút tháp tựa trâm cài ngọc biếc
    Tưởng chừng nước rọi làn tóc mây
    Cảnh xui hồi tưởng ngài Thăng Phủ
    Bia cổ rêu phong một lớp dày.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Núi tiên cửa biển chốn này,
    Vẫn thường qua lại nơi đây năm rồi.
    Hoa sen trên nước nổi trôi,
    Cảnh tiên như đã rớt rơi cõi người.
    Tháp cài trâm ngọc xanh vời
    Sóng vầy tóc biếc sáng ngời gương soi.
    Nhớ ông Trương Thiếu Bảo thôi!
    Rêu hoa lốm đốm kia rồi đá bia!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Dục Thúy: Tức là núi Non Nước ở Ninh Bình.
    2. Non Bồng: Vì phải hiệp vần, chúng tôi dùng hình tượng "non bồng" để chỉ cảnh Tiên.
    3. Tóc mây: Chữ Hán là "thúy hoàn", nghĩa là búi tóc xanh biếc như màu lông chim trả, chúng tôi thay bằng hình tượng "tóc mây" cho dể hiểu.
    4. Trương Thiếu Bảo tức là Trương Hán Siêu, danh sĩ đời Trần, có đề thơ khắc vào đá ở núi Non Nước, tỉnh Ninh Bình, tức núi Dục Thúy. Xưa tên núi theo tên chùa là Non Nước. Sau Trương Hán Siêu đổi gọi là núi Dục Thúy (tắm màu biếc).

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyFri Feb 01, 2013 8:37 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Hạ quy Lam Sơn kỳ 1

    Bản chữ Hán

    賀歸藍山其一

    權謀本是用除姦,
    仁義維持國勢安。
    臺閣有人儒席煖,
    邊陲無事柳營閒。
    遠方玉帛圖王會,
    中國威儀睹漢官。
    朔祲已清鯨浪息,
    南州萬古舊江山。
    Phiên âm Hán Việt

    Hạ quy Lam Sơn kỳ 1

    Quyền mưu bổn thị dụng trừ gian,
    Nhân nghĩa duy trì quốc thế an.
    Đài các hữu nhân nho tịch noãn,
    Biên thùy vô sự liễu doanh nhàn.
    Viễn phương ngọc bạch đồ vương hội,
    Trung quốc uy nghi đổ Hán quan.
    Sóc tẩm dĩ thanh kình lãng tức,
    Nam châu vạn cổ cựu giang san.
    Dịch nghĩa

    Mừng về Lam Sơn - kỳ 1

    Quyền mưu vốn là để trừ gian ác;
    Nhân nghĩa thì giữ gìn cho thế nước được yên.
    Chốn đài cát có người giỏi, chiếu nhà nho ấm;
    Nơi biên thùy không có việc, doanh liễu được nhàn.
    Phương xa dâng ngọc lụa, vẽ cảnh hội nhà vua;
    Uy nghi của Trung quốc được thấy lại quan nhà Hán.
    Yêu khí phương bắc đã dẹp quang, sóng kình đã lặng;
    Đất Nam châu vẫn giữ giang sơn muôn đời.


    Các bản dịch thơ

    Mừng về Lam Sơn - kỳ 1

    Quyền mưu[1] vốn dĩ để trừ gian;
    Nhân nghĩa giữ gìn thế nước an.
    Ấm chiếu nhà nho nơi quán các;
    Nhàn gươm ông tướng chốn biên quan.
    Phương xa ngọc lụa, tranh vương hội[2];
    Nước cũ uy nghi, dạng Hán quan[3].
    Quái Bắc[4] đã tiêu, kình ngạc lặng;
    Nam châu[5] muôn thuở vẹn giang san.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Quyền mưu cốt để trừ gian
    Dùng phương nhân nghĩa nước yên muôn đời
    Chiếc nhà nho ấm tuyệt vời
    Khi nơi đài các là nơi sum vầy
    Biên thùy yên tĩnh đó đây
    Trại binh tướng sĩ tháng ngày nhàn cư
    Lụa là châu ngọc phương xa
    Hiến dâng trong cảnh hởi hồ hội vua
    Hán quan làm rạng cơ đồ
    Dẹp xong bắc quái, kình ngư chẳng còn
    Nam châu bền giữ giang san...

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Trừ gian dùng đến mưu quyền,
    Lẽ nhân nghĩa giữ nước yên, vui đời.
    Chiếu nho, đài ấm có người,
    Trại doanh biên giới thảnh thơi nhẹ nhàng.
    Phương xa ngọc, lụa dâng sang,
    Oai nghiêm trong nước thấy quan Hán rồi!
    Sóng kình, khí bắc lặng hơi,
    Đất Nam vẫn giữ muôn đời nước non.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Quyền mưu: Mưu kế dùng trong nhất thời.
    2. Tranh Vương hội: Năm Trịnh Quán thứ 3 nhà Đường của Trung Quốc, tù trưởng Đông Tạ man vào chầu, Nhan Sư Cổ thấy áo mũ người Man khác lạ, tâu xin vẽ tranh "Vương hội đồ".
    3. Đặng Hán quan: Hán Quang Vũ đánh đổ Vương Mãng, khôi phục nhà Hán, thành nhà Đông Hán, người ta nói rằng lại được thấy lại quan nhà Hán như cũ.
    4. Quái bắc: Chữ Hán là "sóc tấm", nghĩa là khi yêu quái ở miền Bắc. Câu này nghĩa là dẹp yên giặc Minh.
    5. Nam châu: chỉ nước ta.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyFri Feb 01, 2013 8:54 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Hạ quy Lam Sơn kỳ 2

    Bản chữ Hán

    賀歸藍山其二

    憶昔藍山玩武經,
    當時志已在蒼生。
    義旗一向中原指,
    廟算先知大事成。
    月竁日城歸德化,
    卉裳椎髻識威聲。
    一戎大定何神速,
    甲洗弓囊樂太平。
    Phiên âm Hán Việt

    Hạ quy Lam Sơn kỳ 2

    Ức tích Lam Sơn ngoạn Vũ Kinh,
    Đương thời chí dĩ tại thương sinh.
    Nghĩa kỳ nhất hướng trung nguyên chỉ,
    Miếu toán tiên tri đại sự thành.
    Nguyệt xuế nhật thành quy đức hoá,
    Huỷ thường chuỳ kế thức uy thanh.
    Nhất nhung đại định hà thần tốc,
    Giáp tẩy cung nang lạc thái bình.
    Dịch nghĩa

    Mừng về Lam Sơn - kỳ 2

    Nhớ khi xưa ở Lam Sơn xem sách võ kinh,
    Bấy giờ chí cũng đã vì dân đen rồi (mà đấu tranh).
    Cờ nghĩa mới trỏ về Trung nguyên một cái,
    Mưu kế của triều đình đã biết trước việc lớn tất thành công.
    Chốn hang mặt trời thành mặt trăng cũng theo đức hóa;
    Người xiêm áo cỏ buộc tóc dùi cũng biết uy thanh.
    Một cuộc dụng binh dẹp loạn sao thần tốc thế?
    Rửa áo giáp bỏ cung vào túi vui cuộc thái bình.


    Các bản dịch thơ

    Mừng về Lam Sơn - kỳ 2

    Nhớ thuở Lam Sơn đọc võ kinh[1],
    Bấy giờ chí đã ở thương sinh.
    Cờ nhân mới nhắm Trung Nguyên trỏ[2];
    Mưu thánh đà hay đại sự thành.
    Hang thẳm rừng xa theo đức hoá[3];
    Tóc dùi xiêm cỏ biết uy thanh[4].
    Một quân cả dẹp, bao thần tốc,
    Rửa giáp treo cung hội thái bình.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Binh thư từng đọc thuở Lam Sơn
    Một quyết vì dân chí chẳng sờn
    Khi nhắm trung nguyên cờ khởi hướng
    Là xem miếu toán ý thành chơn
    Hang cùng ngõ hẻm chiều theo đức
    Uy lớn danh lừng tận xứ man
    Thần tốc chẳng ngờ công đại định
    thái bình nay hưởng, giáp, cung nhàn.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Lam Sơn nghiền ngẫm sách binh,
    Xưa vì trăm họ sôi kinh bấy giờ.
    Trung Nguyên về nghĩa theo cờ,
    Sẽ nên việc lớn đoán sơ biết rồi.
    Chốn xa theo đức đổi đời,
    Búi chùy, áo cỏ tiếng khơi mọi miền.
    Gọn nhanh một trận dẹp yên,
    Thái bình vui hưởng, giáp tên cất vào.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Võ kinh: Khi Lê Lợi còn chuẩn bị khởi nghĩa, thường đọc binh thư.
    2. Cờ nhân: Chữ Hán là "nghĩa kỳ" là cờ nghĩa. Vì niêm luật chúng tôi dịch là "cờ nhân" vì đây là cuộc nổi binh nhân nghĩa - Trung nguyên: Chỉ miền căn bản của Trung quốc, đây tác giả dùng để chỉ miền căn bản của nước ta.
    3. Hang thẳm rừng xa: Nhật xuế là hang mặt trời mọc, chỉ miền cực Đông, nguyệt thành là nơi mặt trăng ở, chỉ miền cực Tây, tức các miền xa xôi.
    4. Tóc dùi xiêm cỏ: Chỉ các dân tộc thiểu số. Tóc dùi là tóc buộc làm một mớ bỏ thòng sau gáy như cái dùi - Xiêm cỏ là cái váy làm bằng xỏ có vỏ cây kết thành.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyFri Feb 01, 2013 9:10 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Hạ tiệp kỳ 1

    Bản chữ Hán

    賀捷其一

    蠢爾蠻酋敢寇邊,
    積凶稔惡已多年。
    九重睿念憐遐俗,
    萬里鸞輿冒瘴煙。
    山戍已聞收魏博,
    宸奎又見刻燕然。
    從今四海車書一,
    盛德豐功萬古前。
    Phiên âm Hán Việt

    Hạ tiệp kỳ 1

    Xuẩn nhĩ man tù cảm khấu biên,
    Tích hung nẫm ác dĩ đa niên.
    Cửu trùng duệ niệm liên hà tục,
    Vạn lý loan dư mạo chướng yên.
    Sơn thú dĩ văn thu Nguỵ Bác,
    Thần Khuê hựu kiến khắc Yên Nhiên.
    Tòng kim tứ hải xa thư nhất,
    Thịnh đức phong công vạn cổ tiền.
    Dịch nghĩa

    Mừng thắng trận - kỳ 1

    Bọn tù trưởng man ngu xuẩn kia sao dám quấy biên thùy;
    Chứa hung dồn ác đã nhiều năm lắm.
    Lòng cửu trùng sáng suốt thương hại tục xa;
    Nên kiệu loan muôn dặm phải xông pha lam chướng.
    Đã nghe quân thú miền núi thu được Ngụy Bác rồi;
    Lại đã thấy chữ ngự khắc ở đá núi Yên Nhiên.
    Từ nay bốn biển cỡ xe thể chữ đều theo một lối,
    Đức thịnh công to hơn cả nghìn xưa.


    Các bản dịch thơ

    Mừng thắng trận - kỳ 1

    Ngu xuẩn man tù[1] dám quấy biên;
    Chất hung chứa ác đã bao niên.
    Ơn dung tục lạ do lòng thánh[2];
    Kiệu mạo hơi lam vượt dặm nghìn.
    Đồn núi đã nghe thu Nguỵ Bác[3];
    Chữ vàng lại thấy khắc Yên Nhiên[4].
    Từ nay bốn biển xa thư một[5],
    Công đức còn hơn cổ thánh hiền.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Quả là ngu xuẩn, lũ man di
    Hung ác bao năm chốn viễn thùy
    Lòng Thánh vốn dung, lề tục giữ
    Khí lam nào nệ, kiệu loan đi
    Hay tin Ngụy Bác vừa thu được
    Lại thấy Yên Nhiên công đã ghi
    Khuôn mẫu chữ, xe giờ nhất luật
    Từ xưa công đức dễ đâu bì.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Cõi bờ xuẩn quấy lũ man,
    Chứa hung, dồn ác nhiều năm lắm rồi!
    Chín tầng hiểu thòi xa xôi,
    Xe vua khí độc vẫn xuôi dặm ngàn.
    Quân thâu Ngụy-Bác tìn loan,
    Yên-Nhiên đã thấy khắc Thần Khuê đây.
    Bốn phương là một từ nay,
    So muôn đời trước đức dày, công to!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Man tù: Tù trưởng Man. Năm 1432, Lê Thái Tổ thân đi đánh tù trưởng Thái ở Mường Lễ là Đèo Cát Hãn, thắng trận, Đèo Cát Hãn chạy trốn, nhà Lê lấy đất của Cát Hãn đặt làm châu Phục Lễ, tức miền Lai Châu ngày nay.
    2. Lòng thánh: Chữ Hán "Cửu trùng duệ niệm" là lòng sáng suốt của nhà vua, chúng tôi dịch ý là "lòng thánh".
    3. Ngụy Bác: Trấn Ngụy Bác do nhà Đường đặt ở khoảng huyện Đại Danh tỉnh Trực Lệ ngày nay, đặt chức Tiết độ sứ, sau Tiết độ sứ là Điền Duyệt phản, bị đánh bại. Đây là việc nhà Đường thu phục được trấn Ngụy Bác để ví việc Lê Thái Tổ đánh được Đèo Cát Hãn lấy đất đặt châu Phục Lễ.
    4. Yên Nhiên: Núi ở phía Bắc tỉnh Ninh Hạ Trung quốc. Đậu Hiến nhà Hậu Hán đánh đuổi Bắc Thiền Vu đến núi ấy, lên núi khắc đá ghi công rồi trở về. Mượn điển này để ví việc Lê Thái Tổ đánh thắng Đèo Cát Hãn, làm một bài thơ khắc vào đá ở thượng lưu sông Đà tại Lai Châu để ghi công (Hoài lai cố bi), và một bài khắc trên núi ở Thác Bờ (Hào tráng cố bi).
    5. Xa thư một: Cỡ xe và thể chữ mọi địa phương đều theo một lối, tức là thống nhất. Lấy điển nhà Tần thống nhất sáu nước định trong sáu nước cỡ xe và thể chữ đều theo một lối, tức thống nhất văn hóa.
    6. Cổ: Chữ Hán "vạn cổ tiền", nghĩa là hơn cả nghìn xưa, vì vần chúng tôi dịch ý là hơn "cổ thánh hiền", là hơn cả những bực thánh hiền công đức to lớn đời xưa.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyFri Feb 01, 2013 10:05 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Hạ tiệp kỳ 2

    Bản chữ Hán

    賀捷其二

    奸臣賊子罪難容,
    到底終投憲網中。
    窮壤豈堪延喘息,
    大庭應已奏膚公。
    角聲萬里溪山月,
    旗腳千岩草木風。
    四海永清從此始,
    榑桑早辨掛天弓。
    Phiên âm Hán Việt

    Hạ tiệp kỳ 2

    Gian thần tặc tử tội nan dung,
    Đáo để chung đầu hiến võng trung.
    Cùng nhưỡng khởi kham diên suyễn tức,
    Đại đình ưng dĩ tấu phu công.
    Giác thanh vạn lý khê sơn nguyệt,
    Kỳ cước thiên nham thảo mộc phong.
    Tứ hải vĩnh thanh tòng thử thỉ,
    Phù tang tảo biện quải thiên cung.
    Dịch nghĩa

    Mừng thắng trận - kỳ 2

    Bọn tôi gian ác và con làm giặc khó dung tha,
    Cuối cùng rồi cũng sa vào lưới pháp luật.
    Đất cùng há còn để cho nó thoi thóp mãi!
    Cho nên ở triều đình đã được báo tin công lớn (thắng trận) báo ra.
    Tiếng tù và trên muôn dặm rung ánh trăng khe núi;
    Cán cờ gió lay cùng với cây cối trong khoảng nghìn non
    Bốn biển yên lặng mãi từ đây bắt đầu;
    Sớm đem treo cung trời ở cây phù tang.


    Các bản dịch thơ

    Mừng thắng trận - kỳ 2

    Gian thần tặc tử tội không tha;
    Chẳng thoát sau cùng lưới pháp sa.
    Hang thẳm há cho thoi thóp mãi;
    Sân triều nên đã báo công ra[1].
    Trăng khe muôn dặm vang sừng ốc;
    Cờ xí nghìn non phất cỏ hoa[2].
    Bốn biển từ đây yên lặng cả,
    Cung trời sớm được nghỉ xông pha[3].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Ôi bầy tặc tử! Khó dung gian!
    Lưới pháp đành sa, đã sẵn giàn
    Tận đất tàn hơi, thân mãi rúc
    Về triều thắng trận tin đà loan
    Dưới trăng núi, ốc rền khắp chốn
    Trong gió cây, cờ phất rỡ ràng
    Bốn bể từ nay yên lặng mãi
    Cung trời sớm mắc nhánh phù tang.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Tôi gian làm giặc khó tha,
    Rốt cùng lưới pháp phải sa vào tròng.
    Dài hơi, thở gấp đất cùng
    Triều đình công lớn báo dâng tin rồi.
    Suối trăng muôn dặm vang còi,
    Bóng cờ nghìn núi gió vời cỏ cây.
    Mãi yên bốn bể từ nay,
    Cành phù tang sớm treo đây cung trời.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Báo công ra: Nguyên văn nghĩa là báo tin công lớn về Triều đình.
    2. Cỏ hoa: Chữ Hán là "thảo mộc phong", chỉ cây cối gió lay cùng phấp phới với cờ xí, chúng tôi dịch ý là cờ xí "phất cỏ hoa".
    3. Cung trời: Nguyên văn nghĩa là treo cung trời ở cây phù tang. Phù tang là thứ cây thần ở động tiên. Câu này chắc là dựa theo câu thơ của Nguyễn Tịch đời Tấn: "Long cung quải phù tang; Trường kiếm ý thiên ngoại", nghĩa là "Cung cong treo ở cây phù tang; Gươm dài dựa ở ngoài trời" (Bội văn vận phủ). Câu này có nghĩa là binh giáp được xếp nghỉ.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Feb 04, 2013 10:26 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Hạ tiệp kỳ 3

    Bản chữ Hán

    賀捷其三

    聖朝柔遠憫昏愚,
    奈爾無知自殞軀。
    累世仇深憐鏡怨,
    欺天罪大鬼神誅。
    莫將前世扳今代,
    不作忠臣效逆囚。
    為報後來藩鎮者,
    征輪覆轍在前途。
    Phiên âm Hán Việt

    Hạ tiệp kỳ 3

    Thánh triều nhu viễn mẫn hôn ngu,
    Nại nhĩ vô tri tự vẫn khu.
    Lũy thế cừu thâm lân cảnh oán,
    Khi thiên tội đại quỷ thần tru.
    Mạc tương tiền thế ban kim đại,
    Bất tác trung thần hiệu nghịch tù.
    Vị báo hậu lai phiên trấn giả,
    Chinh luân phúc triệt tại tiền đồ.
    Dịch nghĩa

    Mừng thắng trận - kỳ 3

    Thánh triều yên vỗ về người xa, thương hại kẻ ngu tối;
    Sao bây chẳng biết gì mà tự hại thân?
    Thù sâu bao nhiêu đời, khiến đất láng giềng oán;
    Dối trời là tội lớn quỷ thần giết không tha.
    Chớ có lấy việc đời trước mà vin vào đời nay;
    Không làm trung thần lại đi làm đứa phản nghịch.
    Để bảo cho kẻ phiên trấn sau này biết,
    Cái dấu xe đi xa đổ ở đường trước kia kìa.


    Các bản dịch thơ

    Mừng thắng trận - kỳ 3

    Thánh triều yên vỗ kẻ ngu ngoan;
    Sao chẳng biết gì tự hại thân!
    Hàng xóm sâu căm thù lũy thế;
    Quỷ thần nào thứ tội khi quân.
    Nay đừng nên ví gương tiền đại[1];
    Trung há không hơn tiếng nghịch thần[2]?
    Để bảo sau này phiên trấn đó,
    Dấu xe đổ trước khá lo toan.


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Triều đình vốn xót kẻ hôn mê
    Ngu xuân đành thân diệt thảm thê
    Gây hại lân bang, hờn mãi gánh
    Khinh Trời, thần quỷ khử không nề
    Nay đừng ỷ cựu hòng gây thế
    Chẳng chịu trung thành, học lập phe
    Phiên trấn sau này xin cẩn trọng
    Vết xe từng đổ trước đường kia.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Vua lo yên chốn mê xa,
    Các ngươi sao chẳng biết mà hại thân.
    Đời chồng sâu cảnh oán tràn.
    Dối trời tội lớn quỷ thần dẹp ngay!
    Chớ lôi đời trước vào nay,
    Tôi trung chẳng khứng, theo bầy tù lao.
    Báo ai trấn giữ về sau,
    Bánh xe lăn trước đổ nhào đường đi.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Gương tiền đại: Đời Lý Trần thượng lưu sông Đà nước Ngưu Hống, thường hay cấu kết với người Ai Lao xuống đánh phá miền biên thùy nước ta (đó là việc đời trước), đến đời Trần Hiến Tôn nhà Trần mới dẹp yên mà lấy đất Ngươi Hống làm châu Mường Lễ.
    2. Nghịch thần: Chữ Hán là "nghịch tù", nghĩa là kẻ bề tôi phản nghịch bị cầm tù, chúng tôi chuyển dịch làm "nghịch thần".

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Feb 04, 2013 10:45 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Hạ tiệp kỳ 4

    Bản chữ Hán

    賀捷其四

    欺天罔上謂天高,
    天網恢恢更莫逃。
    戶外重山空設險,
    林間棲鳥不歸巢。
    蠻溪路遠紆鸞馭,
    玉帳謀深出虎韜。
    四海只今俱帖靜,
    預知後逸本先勞。
    Phiên âm Hán Việt

    Hạ tiệp kỳ 4

    Khi thiên võng thượng vị thiên cao,
    Thiên võng khôi khôi cánh mạc đào.
    Hộ ngoại trùng sơn không thiết hiểm,
    Lâm gian thê điểu bất quy sào.
    Man khê lộ viễn vu loan ngự,
    Ngọc trướng mưu thâm xuất hổ thao.
    Tứ hải chỉ kim câu thiếp tĩnh,
    Dự tri hậu dật bổn tiên lao.
    Dịch nghĩa

    Mừng thắng trận - kỳ 4

    Dối Trời lừa vua rồi bảo rằng Trời cao!
    Lưới Trời lồng lộng càng không thể trốn.
    Núi trùng điệp trước cửa đặt hiểm cũng không ăn thua!
    Chim đậu trong rừng không về tổ được
    Khe man đường xa xe kiệu loan phải đi quanh lượn;
    Mưu sâu trong trướng ngọc trổ ra phép hổ thao.
    Bốn bể từ nay yên ổn cả;
    Biết trước rằng muốn rỗi sau thì trướd phải nhọc nhằn.


    Các bản dịch thơ

    Mừng thắng trận - kỳ 4

    Dối trời rồi lại bảo trời cao;
    Lồng lộng lưới trời trốn ngã nào?
    Lớp núi hiểm sâu đều uổng cả;
    Chim rừng tan tác biết về đâu!
    Đường xa khe thẳm phiền loan giá[1];
    Trướng ngọc mưu thần[2] trổ hổ thao[3].
    Bốn biển như nay yên lặng cả;
    Cho hay "hậu dật" bởi "tiên lao".


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Đổ lỗi Trời cao chẳng đến đâu!
    Dối Trời gạt chúa, lưới trên đầu
    Trước nhà núi dựng còn vô hiệu
    Cạnh tổ chim nương chẳng được nào
    Khe núi thêm phiền xe giá khó
    Trướng rồng đã sẵn lược mưu sâu
    Từ nay bốn bể bình yên cả
    Nhọc trước tức nhàn sẽ đến sau.

    Bản dịch: Lê Cao Phan


    Trời, vua: dối bảo trời cao,
    Lưới trời rộng lớn tránh sao được này!
    Không ngăn ngoài cửa non bày,
    Chim về rừng chẳng được ngay tổ rồi.
    Kiệu loan khe suối xa xôi.,
    Ra quân trướng ngọc mưu người sâu xa.
    Từ nay bốn biển thái hòa,
    Biết rằng nhọc trước, sau là nhàn thôi!

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    Sđd:
    1. Loan giá: Chỉ xa giá nhà vua.
    2. Mưu thần: "Ngọc trường mưu thâm" nghĩa là mưu sâu trong trường ngọc, tức mưu sâu của nhà vua, chúng tôi dịch ý là "mưu thần".
    3. Hổ thao: Một trong sáu phép dụng binh đời xưa của Trung quốc, chép trong sách Lục Thao.

    Về Đầu Trang Go down
    Vạn Xuân
    Biết nhậu
    Biết nhậu
    Vạn Xuân


    Tổng số bài gửi : 191
    Points : 244
    Thanks : 9
    Join date : 26/12/2012

    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi EmptyMon Feb 04, 2013 11:16 am

    Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
    Ngẫu thành (I)

    Bản chữ Hán

    偶成

    喜得身閒官又冷,
    閉門盡日少相過。
    滿堂雲氣朝焚柏,
    遶枕松聲夜瀹茶。
    修己但知為善樂,
    致身未必讀書多。
    平生迂闊真吾病,
    無術能醫老更加。
    Phiên âm Hán Việt

    Ngẫu thành (I)

    Hỉ đắc thân nhàn quan hựu lãnh,
    Bế môn tận nhật thiểu tương qua.
    Mãn đường vân khí triêu phần bách,
    Nhiễu chẩm tùng thanh dạ thược trà.
    Tu kỉ đãn tri vi thiện lạc,
    Trí thân vị tất độc thư đa.
    Bình sinh vu khoát chân ngô bệnh,
    Vô thuật năng y lão cánh gia.
    Dịch nghĩa

    Ngẫu nhiên làm (I)

    Mừng được thân nhàn mà chức quan lại rỗi;
    Đóng cửa trọn ngày ít lại qua với ai.
    Đầy nhà hơi mây bốc, vì buổi mai đốt gỗ bách;
    Quanh gối tiếng tùng reo, lúc đêm pha nước chè.
    Sửa mình chỉ biết làm thiện là vui;
    Lập thân chưa hẳn cần đọc nhiều sách.
    Bình sinh vu khoát thực là bệnh của ta
    Không thuật gì chữa được mà già lại thêm nặng.


    Các bản dịch thơ

    Ngẫu nhiên làm (I)[*]

    Thân nhàn quan rảnh[1] sướng cho ta;
    Đóng cửa thâu ngày ít lại qua.
    Mây tỏa đầy nhà, mai đốt bách[2];
    Tùng reo quanh gối, tối đun trà.
    Sửa mình chỉ biết lành hơn cả;
    Nên phận đâu cần học lắm mà!
    Vu khoát[3] đời ta mang bệnh ấy,
    Không phương chữa, lão năng thêm ra[4].


    Bản dịch: Đào Duy Anh
    (Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976)

    Các bản dịch khác:

    Thân nhàn lại rỗi việc quan,
    Suốt ngày đóng cửa, qua sang ít người.
    Trầm sáng đốt, tỏa mây trời,
    Nước trà đêm nấu, gối lời thông reo.
    Tu thân việc thiện chắt chiu,
    Lập thân chưa hẳn đọc nhiều sách đâu.
    Viển vông ta bệnh từ lâu,
    Thuốc nào chữa được, già đầu nặng thêm.

    Bản dịch: Không rõ


    Rảnh quan, mừng được nhàn thân,
    Suốt ngày khép cửa ít dần người qua.
    Sớm mai khói bách đầy nhà,
    Thông reo quanh gối pha trà đêm thôi.
    Sửa mình, làm thiện vui rồi!
    Đọc nhiều chưa hẳn giúp người được thay!
    Viễn vông vốn bệnh ta này,
    Không đường cứu chữa, thêm đây tuổi già.

    Bản dịch: Dương Anh Sơn

    VXTĐ: [*]. Trong tập có bài trùng tên, theo thứ tự sắp xếp, đánh thêm số để phân biệt.
    Sđd:
    1. Quan rảnh: Chữ Hán là "quan hựu lãnh", nghĩa là chức quan lại là chức nhàn tản, tức là chức quan rảnh việc.
    2. Mai đốt bách: Buổi mai đốt gỗ bách (giống gỗ thông) trong nhà cho thơm, để tan khí ẩm, cho nên khói tỏa đầy nhà như mây.
    3. Vu khoát: Chỉ nói và làm xa với thực tế, tức viễn vông.
    4. Lão thêm ra: Càng già càng nặng thêm bệnh.

    Về Đầu Trang Go down
    Sponsored content





    Nguyễn Trãi Empty
    Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Trãi   Nguyễn Trãi Empty

    Về Đầu Trang Go down
     
    Nguyễn Trãi
    Về Đầu Trang 
    Trang 1 trong tổng số 1 trang
     Similar topics
    -
    » Kính viếng Đại nguyên soái Võ Nguyên Giáp
    » Nguyễn Vỹ
    » Nguyên Sa
    » Khuất Nguyên
    » Nguyễn Cư Trinh

    Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
     :: Thơ Tuyển Việt Nam :: Hậu Lê (1427 - 1778)-
    Chuyển đến