Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Gửi em ở cuối sông Hồng
nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyFri Feb 17, 2023 8:01 am by Vân Nhi

» Tôi đi học
nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptySat Sep 07, 2019 4:23 pm by Vân Nhi

» Trần Hưng Đạo
nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 06, 2018 4:53 pm by Vân Nhi

» Huyền Chi
nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyMon Jun 04, 2018 4:35 pm by Vân Nhi

» Guitar đường phố: đỉnh của đỉnh
nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyTue May 29, 2018 7:45 am by Vân Nhi

» Quan Âm Thị Kính
nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyFri May 25, 2018 2:02 pm by Vân Nhi

» Thanh Tịnh
nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyMon May 21, 2018 3:25 pm by Vân Nhi

» Thuyền viễn xứ
nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu May 03, 2018 2:19 pm by Vân Nhi

» Xuân Tâm
nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jul 06, 2017 1:49 pm by Vân Nhi

May 2024
MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  
CalendarCalendar
Most Viewed Topics
Lý Bạch
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Khuyến
Đoạn Trường Tân Thanh
Bùi Giáng
Vũ Hoàng Chương
Đại Nam Quốc Sử diễn ca
Chế Lan Viên
Trần Tế Xương
Quách Tấn
Keywords
Chỉnh nhất Lược công trinh thầy Trần đoạn quách Đường dũng Trọng Pháp Liên những trường nguyễn phan Khuyến nhân Xương xuân thảm Thiên miền Luật

 

 Nguyễn Bỉnh Khiêm

Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4
Tác giảThông điệp
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca



Tổng số bài gửi : 5654
Join date : 04/11/2011

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:15 am

Bạch Vân gia huấn

12. Do mệnh


Bài mười một dạy câu số mệnh
Mọi điều đều do tiền định cả rồi.
Giầu sang cũng bởi tại trời,
Công danh có mệnh, có thời dở hay.
Đồ ăn uống xưa nay sản xuất.
Cũng đều do trời đất khởi sinh.
Người khôn làm đúng phận mình,
Tiểu nhân mạo hiểm hiếu danh, khoe tài.
*
* *
Nói thẳng thường trái tai chẳng thích,
Hãy xét suy, có ích hãy làm.
Ở đời lắm thói đa đoan,
Thuốc đắng giã tật, thế gian tỏ tường.
Thấy người tốt chớ nên xem thường,
Hãy nghiêm suy ngẫm tìm đường mà theo.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca



Tổng số bài gửi : 5654
Join date : 04/11/2011

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:19 am

Bạch Vân gia huấn

13. Thành sự


Bài mười hai lo toan sự nghiệp
Muốn thành công phải biết lo xa.
Mưu sự là ở người ta,
Thành công tốt đẹp suy ra tại trời.
Có trường hợp ở nơi nguy bại,
Được trời phù nên lại thắng to.
Hoặc khi tai nạn gay go,
Gặp may lại được trời cho an toàn.
*
* *
Có đức mà nghèo hèn cơ cực,
Hẳn là do nghiệp chướng từ lâu.
Bất lương mà được giầu sang,
Chắc là kiếp trước bắc cầu thiên duyên.
*
* *
Nếu phận nghèo thì nên nghèo trước,
Chớ dã tâm, bạo ngược khởi đầu.
Biết mệnh là bởi hiểu sâu,
Sống yên vô sự khác nào thần tiên.
*
* *
Muốn sống lâu phải rèn luyện tốt,
Từ lao động ăn uống thuốc men…
Giữ gìn chừng mực cho quen,..
Một ngày vui khoẻ là tiên một ngày.
*
* *
Không thuốc nào chữa bệnh khanh tướng thọ,
Có tiền đâu mua được con hiền.
Vợ ngoan chồng chẳng ưu phiền,
Có con hiểu thảo cha yên cõi lòng.
*
* *
Bởi uống say, nói không tử tế,
Vì tiền tài, huynh đệ từ nhau.
Nên xuống ngựa lúc qua cầu,
Có đường bộ chớ rủ nhau đi thuyền.
Áo trắng thì bụi đen dễ dính,
Khó an toàn bởi tính kiêu căng.
*
* *
Lòng người hiểm hơn núi rừng,
Hãy suy luận, để coi chừng đó nghe.
*
* *
“Bọ ngựa bắt con ve tưởng bở
Sẻ lại rình bọ ngựa kề bên;
Người săn tặng sẻ mũi tên;
Hổ lang rình sẵn xông lên vồ người.
*
* *
Hổ đắc ý lên rồi định biến,
Ngờ đâu xa xuống giếng mạng toi!
Mới hay mạnh yếu ở đời,
Nhãn tiền báo ứng rạch ròi phân minh”.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca



Tổng số bài gửi : 5654
Join date : 04/11/2011

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:23 am

Bạch Vân gia huấn

14. Trí giả


Bài mười ba dạy điều trí giả.
Bậc trí giả trọng mình hơn hết,
Bởi học nhiều hiểu biết càng sâu.
Chẳng cần đấu lý với nhau,
Chẳng cần đấu lực, đối đầu với ai.
Giữ danh dự trong ngoài kính nể,
Bảo vệ cho thân thể an toàn
Biết tự kiềm chế thì yên.
Không bị nhục cũng chẳng phiền đến thân.
*
* *
Có những chuyện người trần khó biết,
Mà trời cao nghe thấy mọi điều.
Bảo rằng lỗi nhỏ chẳng sao,
Nhiều lỗi góp lại lớn lao khó lường.
*
* *
Một mình chớ đi đường nguy hiểm,
Thuyền chở tham sinh chuyện đắm đò.
Chuyện người ta chớ tò mò,
Có trách thì trách lỗi to của người.
Thù oán cũ thì thôi quên tuột
Trước khoan hòa sau được điều hay.
Yêu đừng yêu quá đắm say.
Ghét đừng ghét đắng ghét cay sinh thù.
*
* *
Có người chẳng được như ý muốn,
Nên bảo ban đại lượng thì hơn.
Trọng danh tiết như Thái sơn,
Người không thì chẳng giản đơn việc nào.
Giàu sang chẳng tự cao cậy thế,
Nghèo hèn không luồn lụy cúi đầu.
Kẻ vụng chẳng thấy việc đâu.
Người khéo thì việc bù đầu, luôn tay.
Bậc trí giả trước đây đúc kết
Ta nên tìm học biết mà theo
Luật ông Tiêu Hà dạy sáu điều
Lễ, ông Phu Tử cũng nêu ba phần.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca



Tổng số bài gửi : 5654
Join date : 04/11/2011

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:29 am

Bạch Vân gia huấn

15. Minh châu


Ngọc Minh châu là thiên mười bốn
Ngợi ca đức khiêm tốn sáng trong.
Ngọc là vật quý vô cùng,
Minh châu nổi sáng trong vùng tối tăm.
Ngọc muốn đẹp phải năng mài giũa,
Cố nâng niu gìn giữ kẻo hoài.
Trời cho ta tấm hình hài,
Phải lo tự giác mà bồi bổ thêm.
*
* *
Con hay, cha chớ nên khen,
Cha mắc lỗi, con chớ nên nói nhiều.
Thành công chẳng được tự kiêu,
Hưởng phúc, càng phải biết điều đừng tham.[1]




Nguyễn Bỉnh Khiêm

1. Nguyên chữ Hán là: "Thành công bất dĩ tự căng, Thụ phúc khả thái hóa".
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca



Tổng số bài gửi : 5654
Join date : 04/11/2011

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:33 am

Bạch Vân gia huấn

16. Học vấn


Bài mười lăm răn đường học hỏi,
Có tư duy mạnh giỏi hơn người.
Trước là đẹp đạo đất trời,
Sau là xây dựng tình người đẹp hơn.
*
* *
Hiếu với cha thời con hiếu lại,
Kính trọng người người lại trọng ta.
Chớ tin những thuyết tà ma,
Nó làm chìm đắm xấu xa lòng người.
*
* *
Người xưa bảo tiền tài – phấn đất,
Nghĩa nhân kia mới thật là ngàn vàng.
Đường dài thử sức gian nan,
Sống lâu mới biết ruột gan tình người.
Biết giữ phận thì đời nhàn hạ,
Không gian tham tai họa khó vào.
Vận đen vàng hóa ra thau,
Vận đỏ sắt cũng ra màu vàng tươi.
Rượu trắng nhuốm đỏ mặt người
Bạc vàng dễ nhuộm lòng người tối đen.[1]
*
* *
Nghèo giữa chợ ai thèm thăm hỏi,
Giàu trên rừng có khối người thương.
Vẽ hổ khó vẽ bộ xương,
Biết người biết mặt khó lường lòng ai.
Không đáng sợ sức hai con hổ,
Chỉ sợ người ăn ở hai mang
Sống đại lượng phúc huy hoàng.
Mưu sâu tai họa ắt càng thêm sâu.
Vợ chồng hiệp sức nhau bàn bạc,
Có tiền mua nhiều lạng vàng dòng.
Vợ chồng ăn ở khác lòng
Có tiền đâu dễ sắm cùng cái kim.
*
* *
Trị nhà như cầm cương ngựa dữ,
Trị nước như dạo thử cung đàn.
Cho nên học hiểu và làm,
Lẽ trời với lẽ dân gian hài hòa,
Muốn xây phú quý vinh hoa,
Cái nền học vấn phải là đâu tiên.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

1. Nguyên chữ Hán là: "Bạch tửu hồng nhân diện, Hoàng kim hắc thế tâm"
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:39 am

Bạch Vân gia huấn

17. Tu đức


Bài mười sáu thường xuyên tu đức,
Phải chuyên tâm nỗ lực hàng ngày.
Học rồi thực tế làm ngay,
Rút ra kinh nghiệm dở hay sự tình.
Tu đức tốt tướng sinh ra tướng,
Con thảo hiền sinh được cháu ngoan.
Nhà nghèo nhờ vợ đảm đang,
Nước loạn cầu tướng giỏi giang, trung thành.

*
* *
Âm dương hòa không sinh lụt bão,
Vợ chồng hòa thì đạo nhà nên.
Tránh điều nghi kỵ hờn ghen,
Đàn bà tiếp khách phải nên nhớ rằng:
Cử chỉ đẹp, nói nhẹ nhàng,
Khi đưa tiễn khách xin đừng quá chân.
Bốn đức tính Công, Dung, Ngôn, Hạnh,
Người đàn bà gánh nặng lo toan.
Đừng kiêu sa, chớ lăng loàn,
Đừng ghen ghét chớ giận hờn với ai.
Gái yêu chồng đẹp vui mọi vẻ,
Giúp chồng nuôi con khỏe con ngoan.
Dựng xây tôn thống họ hàng,
Sáng trong như ngọc, nết càng đẹp ra.
Khi lòng dục dâm tà đã mở,
Quên yêu thương bỏ cả lễ nghi.
Nết hư dù chỉ một ly,
Tiếng tăm đồn đại bay đi khắp vùng.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:43 am

Bạch Vân gia huấn

18. Cát nhân


Rèn người tốt là chương mười bẩy,
Sống nhân từ ai nấy mến thương.
Trời cho Phúc, Lộc, Thọ trường,
Sống vui thanh thản đời thường gặp may.

*
* *
Cha dạy con từ khi còn nhỏ,
Chồng khuyên vợ từ khi mới về.
Không quá vui đến đam mê.
Bài bạc, nghiện hút, rượu chè, gian dâm.
Tình dục chớ tham lam buông thả,
Sức suy tàn rệu rã, ai thương.
Của quý chớ có phô trương,
Bạc vàng phải khóa trong dương trong hòm.

*
* *
Buồng the chớ để ai nhòm
Của còn nguyên vẹn, tình còn dài lâu.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:46 am

Bạch Vân gia huấn

19. Lương tài


Bài mười tám răn chữ lương tài
Lương là đạo cao đức trọng
Có lương tài chết sống thơm danh.
Người tài lành có bạn lành,
Người ác bạn ác kết thành tai ương.
Người lương tài nên thường nói thẳng,
Kẻ xấu xảo nịnh chẳng thương yêu.
Người lành nói ít làm nhiều,
Tiểu nhân múa mép, lắm điều ba hoa.

*
* *
Người lành không gian tà uẩn khúc,
Hành động luôn chính trực, phân minh.
Kiệm cần có lý có tình,
Để không mang tiếng rằng mình kiêu sa.
Vụng may áo gấm cũng hỏng,
Làm bậy thì phá hỏng cơ ngơi.
Biết ít thì sống thảnh thơi,
Biết nhiều lắm chốn, lắm điều thị phi.
Người giúp việc cần chi đẹp xấu,
Cần chọn người trung hậu, chăm ngoan.
Lòng người, nọc rắn khó phân,
Mặt trời ai biết chuyển vần như xe.

*
* *
Của xóm Đông lấy về hôm trước,
Đến hôm sau nó ngược xóm Đoài
Việc hôm nay, việc ngày mai.
Hãy đem hai chữ Lương Tài mà xem.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:48 am

Bạch Vân gia huấn

20. Lập thân


Bài mười chín dạy đạo lập thân.
Đạo lập thân muốn bền muốn vững,
Phải khôn ngoan trong cứng ngoài mềm,
Phúc nhà thuận dưới kính trên.

*
* *
Kiệm cần kiên nhẫn là nền trị gia,
Làm quan phải giỏi và liêm khiết,
Cẩn trọng luôn và biết thương dân.
Mới hay bí quyết lập thân,
Kiên trì: Liêm chính kiệm cần thì nên.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:50 am

Bạch Vân gia huấn

21. Thịnh đức


Bài hai mươi là thiên thịnh đức
Một số điều đã được rút ra.
Người thực tài chẳng ba hoa,
Thường khi dung mạo cứ là như ngây.
*
* *
Có ruộng không cấy cày thì đói,
Có sách không học hỏi thì ngu.
Trai không dạy, khác chi lừa,
Gái ngu thì cũng giống như lợn sề.
*
* *
Trai sợ vợ bởi vì nhu nhược,
Gái kính chồng vì được nết ngoan.
Phải dè xẻn bởi thiếu ăn,
Sống xa xỉ bởi nguyên nhân của thừa.
*
* *
Vừa lười nhác, lại vừa ngu xuẩn,
Thì giầu sang đâu đến mà mơ.
Hay đến thân cũng thành sơ,
Ngồi dai chủ chẳng bao giờ thích đâu.
*
* *
Uống rượu đấu khẩu nhau ít chứ,
Mới là người quân tử phòng thân.
Thóc tiền sòng phẳng đồng cân,
Mới là đức độ, tinh thần trượng phu.
Con cá bị giật lên bờ
Có hối cũng chẳng bao giờ được tha.
Làm việc xấu đã sa pháp luật,
Hối ba lần cũng thật muộn mằn.
Nước loạn chớ đến dung thân
Nơi nguy hiểm chớ bước chân lần vào.
*
* *
Phép quyền biến làm sao biết trước,
Phải đắn đo mong được an toàn,
Lò lửa ví như phép quan,
Lòng người như sắt như gang trong lò.
*
* *
Người yếu phải nương nhờ người mạnh,
Giúp được người là hạnh phúc thay,
Không thù dai chẳng hại ai,
Tuy nhiên vẫn phải nhớ bài phòng thân.
*
* *
Trên lượng cả, chẳng cần phạt dưới,
Kẻ trịch thượng từ chối đừng chơi.
Nước trong ít cá lội bơi,
Sống nhiều khe khắt, ít người mến thân.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:54 am

Bạch Vân gia huấn

22. Hiếu hoàn


Bài hai mươi mốt hai chữ hiếu hoàn.
Hiếu hoàn luật xoay vần vay trả,
Báo ứng nhanh gương đã nhiều rồi.
Nhạt nồng khéo ở lòng người,
Dở hay đã có đạo trời phân minh.
*
* *
Trời mưa gió thình lình bất chắc,
Người có khi dồn dập tai ương.
Có đức dễ được thọ trường,
Tu nhân tích đức, phúc thường dầy thêm.
Lừa dối người là mầm tai họa,
Phúc dầy nhờ lượng cả bao dung.
Cẩn thận chẳng sợ khốn cùng,
Nhẫn thì chẳng nhục, vạ không đến mình.[1]
*
* *
Sống bình tĩnh được yên lành mãi
Biết kiệm cần đỡ phải reo neo.
Trên sông tùy khúc bơi chèo,
Vào nhà tùy lúc liệu chiều tuân theo.[2]
*
* *
Dạy con cháu bằng điều từ thiện,
Lấy khoan dung điều khiển người theo.
Một năm kế hoạch ăn tiêu,
Không gì bằng cấy trồng nhiều lúa khoai.[3]
Kế mười năm dài hơn một chút,
Không gì bằng trồng được nhiều cây.
Còn như kế hoạch lâu dài,
Là trồng cây đức dẻo dai liền liền.
Dù lắm tiền thuốc men tẩm bổ,
Chẳng bằng đêm nằm ngủ riêng giường.
Dạy con lần mở văn chương,
Ở trong vùng bạc kim cương có thừa.
*
* *
Một con được ơn vua lộc nước,
Để cả nhà cũng được thơm lây.
Siêng năng học tập đêm ngày,
Để mà chiêm nghiệm lời này khuyên răn.
*
* *
Việc đúng cứ tiến hành đừng sợ,
Trời sẽ cho phúc ở tầm tay
Lấy điều đạo lý xưa nay,
Truyền cho con cháu đời này đời sau.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

1. Nguyên chữ Hán là: "Khi nhân thị hoạ, Nhiêu nhân thị phúc, Cẩn tắc vô ưu, Nhẫn tắc vô nhục".
2. Nguyên chữ Hán là: "Bình tĩnh thường an, nhã kiệm thường túc ,Nhập giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục".
3. Nguyên chữ Hán đoạn sáu câu này là: "Nhất niên kế mạc như chủng cốc. Thập niên chi kế mạc như chủng mộc; Của viễn chi kế mạc như chủng đức".



Được sửa bởi Vân Nhi ngày Thu Jun 14, 2012 9:13 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 10:57 am

Bạch Vân gia huấn

23. Năng tĩnh


Bài hai mươi hai dạy người điều năng tĩnh.
Biết đắn đo sống hẳn yên lành.
Biết suy nghĩ việc dễ thành,
Cầu đâu được đấy vui lành biết bao.
*
* *
Khi sống biết lo sau tính trước.
Lúc lâm chung hẳn được yên lành.
Tuổi già lắm bệnh phát sinh,
Đều do lúc trẻ tự mình làm ra.
*
* *
Lúc thịnh đạt gian tà trái đạo,
Khi tuổi già quả báo coi chừng!
Sợ thay “Đốm lửa thiêu rừng”,
Nửa câu nói trái, sau đừng khoe khôn.[1]
*
* *
Biết điều thiện ôn tồn nhắc bạn,
Chỉ nơi nguy cho người khách lánh xa.
Khi lòng hiểm độc gian tà,
Niệm kinh gõ mõ quả là vô duyên.
Đem bố thí bằng tiền bất chính,
Cũng chỉ là vô ích mà thôi.
Chỉ một hành động xấu chơi,
Nói khôn nói khéo, ai người còn tin.
*
* *
Sống thừa mứa bạc tiền nhung lụa,
Chắc đâu bằng sống đủ mà vui.
Gần mực thì ắt phải đen thui
Gần son thì đỏ sự đời chẳng sai.
Gần người ngu biến hay thành dốt,
Gần người hiền càng tốt thêm ra.
Người quân tử đức nở hoa,
Tiểu nhân tìm cách xấu xa học đòi.
Ngẫm xem muôn sự ở đời,
Ác thì gặp ác, nhân thời gặp nhân.
Con ngựa cùng, vung chân đập phá,
Chim cùng đường, liều mổ đòi bay,
Thú cũng muốn xổng chạy dài,
Bản năng tự vệ muôn loài bẩm sinh.
*
* *
Người giả dối thì đừng bắt chuyện,
Gái lẳng lơ thì biến cho xa.
Những người ngay thẳng hiền hoà,
Kiên tâm gần gũi để mà học theo.
*
* *
Kẻ nghiện ngập lêu têu, hợm hĩnh.
Hãy coi chừng! Cố tránh đừng chơi.
Mới hay hậu bạc ở đời
Trắng, đen cũng bởi lòng người mà ra.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

1. Nguyên chữ Hán là:
"Nhất tinh chi hoả năng thiêu vạn lý chi sơn. Bán cũ chi ngôn ngộ Tổn bình sinh chi đức"

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyWed Jun 13, 2012 11:00 am

Bạch Vân gia huấn

24. Thư tất


Bài hai mươi ba là bài thư tất
Sách Bạch Vân kết luận dạy rằng:
Muôn việc khởi tự cái Tâm,
Nếu lòng buông thả, lỗi lầm đến ngay.
*
* *
Học điều hay tỏ bài chân lý
Bảo tồn Chân-Thiện-Mỹ sáng trong
Thánh nhân trợ giúp bao dung,
Tiến–lui, còn-mất mới mong tinh tường.
*
* *
Không để mất kỷ cương chính đạo,
Lời thánh hiền dạy bảo thiêng liêng:
Hiếu-Trung-Cần-Kiệm-Chính-Liêm
Xa gần kính trọng, dưới trên thuận hòa.
Sự kính nhường coi là cái gốc,
Lấy học hành tri thức nâng lên.
Chân thành học hỏi thường xuyên,
Muốn tu cái đức phải nghiêm với mình.
*
* *
Những điều giáo huấn anh minh,
Thành tâm bái phục, ân tình chẳng quên.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jun 14, 2012 8:21 am

Sấm Trạng Trình

Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán

Lịch sử khoa cử Việt Nam có hàng chục trạng nguyên, nhưng ít có ông trạng nào mà tên tuổi lại được nhắc tới với nhiều giai thoại kỳ bí như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585). Là một nhà thơ lớn của dân tộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao tư tưởng nhân nghĩa, hòa bình. Chính ông là người đầu tiên nhắc tới hai chữ Việt Nam trong các tác phẩm của mình. Là một người thầy lớn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Học trò của ông, người theo nhà Mạc, người theo nhà Lê. Ngoài triều Mạc, cả họ Trịnh, họ Nguyễn, những người thuộc các phe đối lập, cũng đều tôn kính ông, thường xin ý kiến ông về nhiều vấn đề hệ trọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ cho tất cả. Họ đều thấy sự chỉ dẫn của ông là đúng, nên ông được xem như bậc đại hiền, một ông trạng tiên tri...

Những lời khuyên làm nên sự nghiệp

- Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh ruột là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm (anh rể) giết, bèn sai người đến xin ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời trực tiếp, ông dẫn sứ giả ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và nói:

"Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân"
(Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được)

Hiểu được ý ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái xin với anh rể Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, từ đó lập ra nhà Nguyễn ở phương nam. Về sau sử nhà Nguyễn sửa thành "vạn đại dung thân", hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi.

- Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm cũng muốn bỏ Vua Lê để tự xưng vương. Khi cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông không trả lời mà dẫn sứ giả ra chùa, thắp hương mà nói: "Mấy năm nay mất mùa, nên tìm thóc giống cũ mà gieo". Rồi lại bảo chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản". Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám phế bỏ nhà Lê mà phò Vua Lê để lập nghiệp Chúa.

- Phùng Khắc Khoan đến gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm, với ý muốn nhờ thầy cho một lời khuyên: Có nên bỏ nhà Mạc để vào Thanh Hóa với triều đình Lê - Trịnh? Cả buổi chiều trò chuyện, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ hỏi tình hình, nói chuyện văn chương chứ không trả lời. Đêm ấy Phùng Khắc Khoan ngủ lại tại nhà thầy. Sang canh tư, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến phòng ngủ của học trò, đứng ngoài gõ cửa và nói vọng vào:

"Gà đã gáy rồi, trời đã sáng, sao không dậy, ngủ mãi ử"

Phùng Khắc Khoan nghe xong, suy nghĩ, và đoán rằng thầy gián tiếp bảo thời cơ đã đến, có thể vào giúp nhà Lê. Ông vội vàng thu xếp hành lý, đợi đến lúc mặt trời mọc thì vào giã từ thầy. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không nói gì, chỉ cuốn một chiếc chiếu ngắn ném theo. Phùng Khắc Khoan nhặt lấy chiếu, vừa đi vừa nghĩ:

"Phải chăng đây là ý dặn mình cần hành động gấp và dứt điểm như cuốn chiếu"

- Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần mất, nhà Mạc cho người đến hỏi ông về kế lâu dài. Ông đáp: "Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế" (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời). Sau quả đúng như vậy.

Những lời sấm cho nhiều đời sau

Dân gian lưu truyền nhiều bản Sấm ký được cho là của ông. Hiện nay ở kho sách Viện nghiên cứu Hán - Nôm còn giữ được bốn bản. Tuy nhiên các bản này đều không có tên người chép, chép từ bao giờ và chép ở đâu? Do vậy, chúng ta cần phải làm rõ vấn đề đâu là khả năng dự báo xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm do kiến thức và kinh nghiệm đã đem lại, đâu là những điều mà người đời đã gán ghép cho ông? Mặc dù là "tồn nghi" nhưng chúng tôi cũng xin trích ra để bạn đọc cùng khảo cứu.

- Truyện kể lại rằng, trước khi qua đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:

"Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn

(Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi
Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta)

Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế.

- Đến đời Vua Minh Mệnh (1820 - 1840) trong dân gian lưu truyền một câu sấm: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương" (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mệnh vốn tính đa nghi. Biết được mấy câu sấm ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ Trạng Trình.

Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đình cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa trình chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh giấy đề chữ:

"Minh Mệnh thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền thì lại làm đền
Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai".


Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn cấp tâu về triều đình, xin làm lại đền thờ Trạng Trình.

Ở một tập sấm mở đầu có các câu:

"Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đạt mấy ai rõ ràng
Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho
Học cách vật mới dò tới chốn..."


Có người cho rằng những lời thơ ấy đã khẳng định đất nước có nhiều người tài giỏi, cùng với nhân dân giữ vững đất nước qua biết bao nguy biến. Đất nước cũng có nhiều tài nguyên phong phú cần được khai thác. Đảo Sơn phải chăng là Vũng Tàu - Côn Đảo? Nơi có tiềm năng về dầu khí và có vị trí kinh tế chiến lược? Những lời sấm ấy cũng khẳng định phải có khoa học - kỹ thuật (học cách vật) mới có thể khai thác tốt và sử dụng tốt những tài nguyên đó, những âu vàng trời cho.
Tập sấm còn đề cập tới một bậc Thánh giúp đời:

"Một đời có một tôi ngoan,
Giúp chung nhà nước dân an thái bình
Ấy điềm sinh Thánh rành rành chẳng nghi"
……


Trong tập sấm cũng ghi một lời rất đặc biệt:

"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ
Hưng tộ diên trường ức vạn xuân"
(Đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm

sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân)

Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585, thọ 94 tuổi. Ba trăm năm sau, trong bộ sách lớn "Lịch triều hiến chương loại chí", nhà văn hóa Phan Huy Chú đã coi Nguyễn Bỉnh Khiêm là "Một bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở".



Không rõ tác giả

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jun 14, 2012 8:25 am

Sấm Trạng Trình
Sấm ký I


Khỉ hú trời Nam cá hoá rồng,

Gà kêu Nam Bắc hội Hoa Long,

Lần tay đếm lại Năm Ba Chín,

Mới thấy điềm may giống Lạc Hồng.

Chăm chỉ chờ ngày sang Mậu Ngũ,

Ước ao đặng thấy buổi Canh Thân,

Cho hay bốn bể ba đào dậy,

Cù rống kêu vang giống Lạc Hồng.




Nguyễn Bỉnh Khiêm



Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jun 14, 2012 8:57 am

Sấm Trạng Trình

Sấm ký II

Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập tành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao.
Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ gây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
Một thời lại một nhiễu nhương nên lề.
Ðến Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chắp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay[1]
Thập bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên[2]
Ðông A âm vị nhi truyền[3]
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh[4]
Chấn cung hiện nhật quang minh[5]
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho.
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật.[6]
Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen
Sửa sang muôn vật cầm quyền
Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
Kìa liệt vương khí hủ[7] đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
Khi sai đắp núi khi sai xây thành
Lấy đạc điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở riếng[8] mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người
Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cưu giận nhạn[9] than
Dưới trên dốc trí lo toan
Những đua bán tước bán quan làm giàu
Thống ru nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có ý an dân
Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non
Dư đồ chia rẽ càn khôn[10]
Mối giường[11] man mác khiếp mòn lòng nhau.
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi[12]
Việc làm bất chính tơi bời
Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã gia[13] ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
Một góc thành làm tám chúng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
Bốn phương rỡ rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá , làng phân điếm tuần[14]
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
Nội thành hoảng hốt hư kinh[15]
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nào sự lạ
Bỗng khiến người giá họa cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán[16]
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi[17]
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra[18]
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về[19]
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
Bấy giờ càng khốn ai ôi
Quỉ ma chật vật biết trời là đâu?
Thương những kẻ ăn rau ăn rới[20],
Gặp nước bung[21] con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này.
*
* *
Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến[22] đã dời đất cũ
Thì phụ nguyên mới chổ (trổ)[23] binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
*
* *
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
Rõ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Chọn Đẩu, Thai[24] những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Ðời này thánh kế vi vương
Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thánh long
Thánh nhân cư có thụy cung
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng hội có dùng lầm chi.
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một tí[25] đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy, thần kinh
Ðược vào trận chiến mới rành biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết ray tay miệng biến nói không
Ngõ hay gặp hội mây rồng
Công danh choi chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Ðủ no hiền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng.
*
* *
Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tham ( tam?) hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
190.Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân.
Ðòi phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
Man mác một đỉnh Hoành Sơn[26]
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù thái thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru?
Phá điền đầu khỉ cuối thu[27]
Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàn dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thửa hung tàn
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông vương dựng tổ cắn tranh
Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
Nào ai đã dễ nhìn u
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân
Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình[28]
Bốn bề núi đá riễu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình đấy an
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh
Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðua một lòng tranh tiếng giục nhau.
Vạn dân chịu thửa âu sầu
Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm.
Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để thấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thửa nơi trị trường
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày)Tào khê[29]
Có thầy Nhân thập[30] đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tăm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài.
*
* *
Vừa năm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian[31]
Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân doãn mà đi[32]
Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra
Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
Tai nghe bằng một ti hào biết hay[33]
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời.
Hợp đà thay thánh nghìn tài
Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần đặng đâu.
Chờ cho nhân doãn hết sau ,
Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời xui những kẻ ắt (34) gian
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẫm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
Muốn làm tướng súy lập công chưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn.
Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chẳng còn ở thật người ta đâu mà
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay,
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chang
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt ta.
Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông[35] hồ sau
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến thời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này
*
* *
Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
*
* *
Kìa cơn gió thổi lá rung cây[36]
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay.
*
* *
Con mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có dù phần như ai
Vắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình.
*
* *
Canh niên tàn phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị ngũ dư bình
*
* *
Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ khởi đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.[37]
*
* *
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.
*
* *
Cửu cửu kiền khôn dĩ định[38]
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an.
*
* *
Bảo Giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân đào bão noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục thức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
*
* *
Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
Thất thập cổ lai xuân.
*
* *
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành.[39]
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh.
*
* *
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Man cổ đổ thái bình
Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trâm nhi bắc kinh
Ký mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
Chư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình.
*
* *
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành.
*
* *
Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lường
*
* *
Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại Ngưu lang
Mại dữ lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
Thiên dữ thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
Nhân nghĩa thùy vi địch.
Ðạo đức thùy dữ đương
Tộ truyền nhị thập ngũ
Vận khải ngũ viên trường
Vận đáo dương hầu ách
Chấn đoài cương bất trường
Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch thán hung hoang.
Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tái vô lường
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40)
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ hành.
Ðoài phương phúc điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân.
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Trần công nãi thị phúc tâm
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ ky phục kiến Ðường ngu thi thành
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .




Nguyễn Bỉnh Khiêm



1. Đao: chỉ họ Lê có chữ đao. Họ Lê lên thay họ Đinh.
2. Thập bát tử: họ Lý nối ngôi.
3. Đông A là nhà Trần. Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
4. Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.
5. Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
6. Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh chữ Trịnh có chữ nhật.
Kìa liệt vương khí hủ đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài.
Họ Trịnh là cường hầu, lấn áp vua Lê, thay đổi mọi khuôn phép.
7. Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác ghi là hư.
8. riếng: chữ giếng viết sai chính tả. Người Bắc viết sai d,g,r như tự ro, rân chủ, Khánh Giư . .
9. Cưu, nhạn là chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân.
10. Dư đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh.
11. Mối giường: mối giềng.
12. Đôi: đôi chối, đôi co: nghĩa là cãi cọ, tranh luận.
13: Gia: giơ
14. Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn quê ngày xưa dùng báo hiệu. Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi rtrong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh để xem xét kẻ gian phi.
15. Từ câu 75-86 nói năm mậu thân 1788, vua Lê và hoàng thái hậu chạy sang Trung Quốc cầu viện, rồi quân nhà Thanh sang Thăng Long. Năm kỷ dậu 1789, Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh.
16. Câu 89-99: Nhà Trịnh mua quan bán tước, làm khổ dân như hai vua Hoàn Đế (146-168) , và Linh Đế 156 – 189) tin dùng hoạn quan, giết hại trung thần, khiến chế độ suy tàn.
17. Báo thù: Lê Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị về, báo ơn báo oán, gây nhiều việc thất đức. Xem Hoàng Lê Nhất Thống Chi và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
18. Câu 100: Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra. Cát lầm bốn bể can qua ... Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về.
Nói việc Nguyễn Huệ ra Bắc lấy cớ phù Lê diệt Trịnh xong lại vào Nam, sau đem quân ra Bắc đánh tan quân Tôn Sĩ Nghị.
19. Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về: Nguyễn Huệ ra Băc lại về Thuận Hóa..
20. Ăn rau ăn rới: có bản ghi “giới”. Giới là rau, là đồ hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi).
21. Bung: phát ra, nổ ra, tràn ra.
22. Nhân kiến: Chỉ Lê Chiêu Thống, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm trong có chữ Kiến. Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó một thời gian thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
23. Chổ viết sai, ch/tr, trổ là lộ ra, nở ra (trổ bông, trổ mã), nghĩa là kéo binh ra.
24. Đẩu, Thai: tên hai ngôi sao. Nói về triều Nguyễn quần thần tốt đẹp.
25. Có bản ghi một thí. Một tí, hay một thí: là một chút (ngôn ngữ miền Trung).
26. Đỉnh Hoành sơn: nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn tại miền Trung.
27. Câu 199-200: Phá điền đầu khỉ cuối thu / Tái binh mới động thập thò liền sang.
Phá điền là quốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền giống chữ Quốc , cả hai chữ thuộc bộ vi .
Tái binh là binh ngoài biên cương, binh ngoại quốc Nói việc quân Pháp xâm chiếm Việt Nam, đánh Gia Định, Đà Nẵng trong năm canh thân (1860).
28. Câu 231-240: ”Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người /Tìm cho được chốn được nơi/Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình / . ,. . . . . . ,. .Bắc kinh mới thật đế kinh / Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào:
Thái Nguyên là nơi núi rừng ở biên giới, đời Mạc, anh em Vũ Văn Mật đã xây dựng thành một vùng trù phú. Sau Hoàng Hoa Thám trong khoảng 1900 đã lập chiến khu tại đây, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng muốn giúp sức Hoàng Hoa Thám. Việt Nam Quang Phục hội sau khi Hoàng Hoa thám thảm bại vẫn hoạt động cho đến 1913. Năm 1917, Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến khởi binh chống Pháp...
29. Giầy, dầy: Rầy, rày.

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jun 14, 2012 9:36 am

Sấm Trạng Trình
Sấm ký III [1]

Phiên âm Hán Việt:

Thái hoà vũ trụ bất Ngu Chu,
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên ngư tùng trước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu.
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.


Nguyễn Bỉnh Khiêm



Dịch thơ:

Thái hoà chẳng thấy cảnh Ngu Chu,
Hai phái thù hằn chém giết nhau.
Nhuộm máu phơi xương đà khắp chốn,
Xua chà đuổi sẻ vị ai đâu ?
Trùng hưng duỗi ngựa qua sông trước,
Hậu hoạn phòng beo tiến cửa sau.
Ngán nỗi việc đời thôi phó mặc,
Say rồi dạo suối hát vài câu.


Không rõ người dịch

1. Những năm Quang Thiệu (1516-1526), gặp lúc loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm về ẩn cư để dạy học trò, lấy Đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng, nhưng sang đến thời đầu niên hiệu Thống Nguyên (tức Lê Hoàng Đệ Thung) thì Trịnh Tuy và Mạc Đăng Dung cũng đều có ý hiếp chế Thiên tử để sai khiến chư hầu, hai bên gây cuộc nội chiến, khiến trong nước chịu cảnh lầm than, lúc ấy ông có cảm hứng bài thơ này.

Sở dĩ có bài thơ trên vì ông biết rõ nhà Lê sẽ được trung hưng, dẫu rằng ngày nay tạm phải tìm kế an thân, nhưng rồi sau đây tất nhiên sẽ lại khôi phục được nước, mà câu: Beo tiến cửa sau, chỉ là nói kín đó thôi. Quả nhiên về sau, nhà Lê trung hưng, bốn phương trở lại yên tịnh, bấy giờ bạn hữu đều khuyên ông ra làm quan, đến năm 44 tuổi ông mới chịu ra ứng thí, khoa hương thi ấy, ông được đỗ đầu, rồi năm sau, tức là năm thứ 6 đời nhà Mạc (1535), lại ra tỉnh thì được đỗ thứ nhất, khi vào đình đối, lại đỗ Tấn Sĩ đệ nhứt danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư, trong thời Thái Tông nhà Mạc, ông có làm 2 bài thơ "Xuân thiên ngự tửu", đều được hạng ưu, rồi thăng chức Hữu Thị Lang Hình Bộ, sau thời gian ngắn lại thăng chức Tả Thị Lang, kiêm chức Đông Các Đại Học Sĩ.

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jun 14, 2012 9:42 am

Sấm Trạng Trình
Sấm ký IV [1]

1. Cảm đề

1- Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá
Phép đổi dời
Đầu non mây khói tỏa
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
10- Văn chương gửi lại đời
Dở hay nên tự lòng người cả
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời
Bí truyền cho con cháu
Dành hậu thế xem chơi.

2. Sấm ký

15- Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
Đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành.

21- Hoà đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A xuất nhập
Dị mộc tái sinh.

25- Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh.
Phụ nguyên trì thống,
Phế đế vi đinh.

29- Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.

33- Hoà đao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.

37- Lê tồn, Trịnh tại,
Lê bại, Trịnh vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang.
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.

43- Chim bằng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ quận công.
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.

47- Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.

51- Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục lòng chim chích u mê,
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.

55- Để loại quỷ bạch Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi dần dần.
Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này.

61- Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây.

65- Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.

69- Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua,
Giữa năm hai bẩy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.

73- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
Rắn mới hai đầu khó chịu thay,
Ngựa đã gác yên không người cưỡi
Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây.

77- Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.

81- Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hùng biết đấy mới ngoan.
Chữ rằng lục, thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.

85- Ra tay điều độ hộ mai
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.

89- Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù trì.

93- Thương những kẻ nam nhi chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.

99- Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng.

103- Khuyên những đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi nên giữ cho mình
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.

109- Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.

117- Ngỡ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường?

121- So mấy lề để tàng kim quỹ
Kể sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở, cát bồi
Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma.

125- Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão Thìn Tí Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần.

129- Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.

133- Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.

137- Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai mà tìm thấy mới là thần minh
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh non đoài
141- Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu.

145- Xem ý trời ngõ hầu khải thánh
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường.

149- Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai biết trước
Tài lược thao uyên bác vũ văn
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.

155- Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Chốc lại mòng gá vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?

159- Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
Lại đua nhau quần thán đồ lê
Chức này quyền nọ say mê
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ thì phải thuở hung hoang
Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình.

165- Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.

169- Nực cười những kẻ bàng quang
Cờ tam lại muốn toan đường chống xe
Lại còn áo mũ xun xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.

173- Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.

177- Can qua, việc nước bời bời
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
Oai phong khấp quỷ kinh thần
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca.

181- Rừng xanh, núi đỏ bao la
Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên
Sửu Dần thiên hạ đảo điên
Ngày nay thiên số vận niên rành rành.

185- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.

189- Sự đời tính đã phân minh
Thanh nhàn mới kểchyện mình trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.

193- Chó kêu ầm ỉ mùa đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời.

197- Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.

201- Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.

205- Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy nhiêu
Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
211- Đầu can Võ tướng ra binh
Ắt là trăm họ thái bình âu ca
Thần Kinh Thái Ất suy ra
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn.

215- Ngày thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
Bởi Thái Ất thấy lạ đời
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân.

219- Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chung nhà nước dân an thái bình.

223- Phú quý hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giã giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành.

233- Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao nao
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng?

239- Nói đến độ thầy tăng mở nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào.

243- Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh.

247- Những người phụ giúp thánh minh
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái lai
Can qua chiến trận để người thưởng công.

251- Trẻ già được biết sự lòng
Ghi làm một bản để hòng giở xem
Đời này những thánh cùng tiên
Sinh những người hiền trị nước an dân.

255- Này những lúc thánh nhân chưa lại
Chó còn nằm đầu khải cuối thu
Khuyên ai sớm biết khuông phù
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu.

259- Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

1. Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng Xuân và Thời Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản quốc ngữ Mai Lĩnh.
Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jun 14, 2012 9:52 am

Bạch Vân ca

Bạch Vân ca

Nước Nam thường có thánh tài.
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
Kìa Nhị Thuỷ, nọ Dao Sơn,
Bài ngọc dát nổi, âu vàng Trời cho.
Học cách vật mới dò tới chốn,
Chép ghi làm một bổn xem chơi.
Muôn việc cũng bởi tại người,
Suy ra mới biết sự đời dường bao.
Dẫu ai có vàng trau nghìn hột,
Châu bái hơn chữ một nghĩa mười.
Tiên Hoàng từ trước mở ngôi,
Cờ lau tập trận thay Trời trị dân.
Mới đươc mười hai dư xuân,
Lê Hành kế vị, xa gần âu ca.
Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ,
Đến Ngoạ Triều nào kẻ tài hay.
Ngôi Trời dể Lý vào thay,
Tám cành hoa nở dến ngày dực phân.
Chiêu Hoàng là Á Nữ Quân,
Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.
Thập nhị thế, tiếng đồn nhân hậu;
Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên.
Đông A chốn ấy còn bề,
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
Đại Ngu được mười bốn năm;
Hậu Trần Nhị Đế lại chăm phục hồi.
Suy ra mới biết sự Trời;
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê Gia
Tây Sơn sừng sực kéo ra,
Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến Phụ Nguyên đòi còn chinh chiến,
Trả bao thu dâu biển cát lầm
Rừng xa vực thẩm nguồn thâm,
Nào ai biết sẽ nhân tâm lúc nầy.
Chó mừng chúa, gà bày cục tác,
Lợn ăn no thả rác nằm chơi.
Đó mới kể là đời thịnh thế,
Mà thiên hạ sau sẻ làm hai.
Người Đoài cũng thực ấy tài,
Mà cho người Sở toan bài lập công.
Bởi Trần Vương ngu không kể siết,
Mới phen nầy dê lại giết dê.
Đến khi thức tận binh bì,
Âm binh ở giữa, dễ thì biết sao.
Trời cho ta mang dao chém quỷ,
Khắp dưới Trời bình trị quỷ thư.
Ai từng cứu con thơ xa giếng,
Chớ một lòng chinh chiến phá nhau.
Muôn dân chịu những âu sầu,
Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.
Chốn Đông Nam lò dò khổ ải,
Lánh cho xa kẻo phải đao binh.
Bắc phương chín thực đế kinh,
Náu mình chưa dể náo danh được nào.
Vả người là đúng anh hào,
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày.
Ấy những quân đời này thế ấy,
Lòng Trời xui ai nấy biết đâu.
Chớ đừng tham của làm giàu,
Tìm nơi tam hiểm, ngỏ hầu bảo thân.
Đà Giang chốn ấy cũng gần,
Kim Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơi.
Ba Thục riêng một góc trời,
Thái Nguyên một dải là nơi trú đình.
Tư bề núi đá xanh xanh,
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay.
Bốn bụt xuất thế dã chầy,
Chưa chọn được ngày ra của nhân dân.
Ấy là điềm xuất thánh quân,
Hễ ai biết được thì thân mới toàn.
Chữ rằng hữu xạ tức tự nhiên hương,
Có phải tầm thường thuốc đấu bán sao?
Nắng lâu phải có mưa rào,
Vội chi tát nuớc xôn xao cày bừa.
Hạn rồi thì phải có mưa,
Buồm giương gặp gió, cày bừa gặp cơn.
Tuần này thánh xuất Khâm phương,
Sự thực đã tường, chẳng phải lo suy.
Quần hùng binh dậy sơn khê,
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trợ thời.
Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh,
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng.
Một cơn sấm dậy đất bằng,
Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh.
Lược thao văn vũ tài tình,
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng.
Tam công gặp hội vui mừng,
Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bỏ khi chém rắn vẽ rồng,
Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù.
Bỏ khi kẻ Việt người Hồ,
Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Càn khôn phủ tái vô lương,
Đào viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư hùng vi quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đào viên tản lạc, ngô dân thủ thành.
Càn khôn phù tái vô lường,
Đào Viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư anh hùng vị quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đà Giang phúc địa giáng linh,
Cửu trùng thụy ứng lòng thành ngũ vân.
Phá điền thiên tử giáng trần,
Dũng sĩ nhuợc hải, mưu thần như lâm.
Trần Công nãi thị phúc tâm,
Giang hồ sử sĩ đào tiềm xuất du.
Tương thần hệ xuất Y, Chu,
Thử kỳ phục kiến Đường, Ngu thị thành.
Hiện xung thiện hạ thái bình.




Nguyễn Bỉnh Khiêm

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jun 14, 2012 10:01 am

Bạch Vân ca

Hữu cảm kỳ 1
(Có cảm xúc 1)

Phiên âm Hán Việt:


Nghịch tặc xương cuồng phạm đế kinh,

Chủ ưu thần nhục trọng thương tình.

Hề tô cửu uất thương sinh vọng,

Ðiếu phạt thuỳ hưng thời vũ binh.

Tứ hải y quy dân đới cựu,

Cửu thiên chiêu yết nhật trùng minh.

Cổ lai, nhân giả tư vô địch,

Hà tất khu khu sự chiến tranh.



Nguyễn Bỉnh Khiêm
Dịch thơ:


Giặc giã tung hoành lấn đế kinh,

Vua tôi lo lắng xiết bao tình.

Mong mưa, chan chứa lòng dân vọng,

Trừ bạo, tưng bừng đạo nghĩa binh.

Bốn bể vui theo người đạo đức,

Khắp nơi lại thấy cảnh thanh bình.

Xưa nay nhân giả là vô địch,

Lọ phải khư khư thích chiến tranh.



Người dịch: Ngô Lập Chi

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jun 14, 2012 10:04 am

Bạch Vân ca

Hữu cảm kỳ 2
(Có cảm xúc 2)

Phiên âm Hán Việt:


Lạc lạc can qua hận mãn tiền,

Nhân dân bồn thoáng dục cầu tiền.

Điên liên huề bạo ta vô địa,

Ái hộ căn liên hạnh hữu thiên.

Chỉ định vị văn quy mã nhật,

Khai minh cấp tưởng thuộc trư niên.

Nhất chu khí vận chung nhi thủy,

Bác, phục đô tòng thái cực tiên.



Nguyễn Bỉnh Khiêm
Dịch thơ:


Ngán nỗi can qua mãi thế ư,

Nhân dân mong được chốn an cư.

Kéo nhau lũ lượt tìm nơi ẩn

Cứu kẻ phiêu lưu có chỗ nhờ.

Bình định còn chờ ngày nghỉ ngựa

Thái bình những đợi buổi năm trư

Tuần hoàn một lẽ cùng chung thủy,

Bác phục nguyên từ thái cực xưa.



Người dịch: Ngô Lập Chi

Về Đầu Trang Go down
Vân Nhi
Đại Ca
Đại Ca
Vân Nhi


Tổng số bài gửi : 5654
Points : 5977
Thanks : 35
Join date : 04/11/2011
Đến từ : phan thiết

nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 EmptyThu Jun 14, 2012 10:08 am

Bạch Vân ca

Trung Tân ngụ hứng [1]
(Thơ ngụ hứng ở quán Trung Tân)

Phiên âm Hán Việt:


Nhân thôn quán tây nam,
Giang thuỷ quán tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên tại Vân Am trắc.
Luân ưởng trần bất đáo,
Hoa trúc thủ tự thực.
Trượng lý tập hoa hương,
Trản giả xâm hoa sắc.
Điểu tị phanh trà yên,
Ngư thôn tẩy nghiễn mặc.
Khiển hứng nhậm thi cuồng,
Phù suy da hữu lực.
Nhân xảo, ngả giả chuyết,
Thuỳ tri chuyết giả đức,
Ngã chuyết, nhân giả xảo,
Thuỳ tri xảo giả tặc.
Kiền khôn tĩnh lý suy,
Cổ kim nhàn trung đắc.
Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiển tiện kinh cúc.
Nguy mạc nguy nhân tâm,
Nhất phóng tiện quỷ quắc.
Quân tử cầu sở chỉ,
Chí thiện tư vi cực.



Nguyễn Bỉnh Khiêm
Dịch thơ:


Sông ngòi vòng tây bắc,
Làng xóm bọc tây nam.
Giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên Vân am.
Xe ngưa bụi không đến,
Hoa, trúc tay tự trồng.
Gậy, dép bén mùi hoa,
Chén, cốc ánh sắc hồng.
Rửa nghiên, cá nuốt mực,
Pha trà, chim lánh khói.
Ngâm thơ thừa tiêu dao,
Uống rượu thêm khoan khoái.
Người xảo ta thì vụng,
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng người thì xảo.
Ấy xảo thế mà gay!
Tính suy lẽ trời đất,
Nghiền ngẫm việc xưa nay:
Đường đời rất ghập ghềnh,
Chông gai cần phải cắt.
Lòng người rất hiểm nghèo,
Buông ra liền quái quắc.
Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực.



Người dịch: Ngô Lập Chi

1. Quán Trung Tân: do Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi về ở ẩn tại quê nhà, đã cùng các vị bô lão dựng lên, vừa là nơi "thắng địa" (vùng đất đẹp hơn cả), vừa là nơi nghỉ ngơi cho những người qua đường. Quán Trung Tân đã trở thành đê tài quen thuộc trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm    nguyễn - Nguyễn Bỉnh Khiêm  - Page 4 Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Về Đầu Trang 
Trang 4 trong tổng số 4 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4
 Similar topics
-
» Bạch Vân am thi tập - Nguyễn Bỉnh Khiêm
» Nguyễn Bính
» Nguyễn Bính, thi sĩ giang hồ
» Kính viếng Đại nguyên soái Võ Nguyên Giáp
» Xem hình bình thơ 1

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Thơ Tuyển Việt Nam :: Hậu Lê (1427 - 1778)-
Chuyển đến