Trương Hàn Giang Đông khứ, Chính trị thu phong thì. Thiên thanh nhất nhạn viễn, Hải khoát cô phàm trì. Bạch nhật hành dục mộ, Thương ba liểu nan kỳ. Ngô Châu như kiến nguyệt, Thiên lý hạnh tương tư.
Dịch nghĩa:
Tiễn Xá nhân họ Trương đi Giang Đông
Trương Hàn đi đến Giang Đông, Đúng vào lúc gió thu đến. Trời xanh một cánh nhạn lạc loài, Biển mênh mông một cách buồm đi chậm chạp. Ngày đã qua chiều lại đến Sóng mênh mông, mờ mịt khó gặp lại, Khi đến Ngô Châu nhìn thấy ánh trăng Ngàn dặm may nhớ đến nhau.
Các bản dịch thơ:
Tiễn Xá nhân họ Trương đi Giang Đông
Giang Đông, Trương Hàn đến, Đúng mùa gió thu sang. Trời xanh nhạn cô lẻ, Biển rộng, buồm vương mang. Ngày qua trời lại tối, Sóng khuất nẻo ngút ngàn. Trăng Ngô Châu như gặp Đây đó nhớ bạn vàng.
Bách chiến sa trường toái thiết y Thành nam dĩ hợp sổ trùng vi. Đột doanh sạ sát Hô Duyên tướng Độc lĩnh tàn binh thiên kỵ quy.
Dịch nghĩa:
Bài hát tòng quân
Đã đánh cả trăm trận nơi sa trường, giáp sắt mòn. Địch quân đã vây nhiều lớp ngoài phía nam thành. (Tướng quân) đột ngột cho mở cửa, dẫn quân ra bắn chết tướng Hung nô. Một mình ông trở về với khoảng một ngàn kỵ binh còn sống sót.
Các bản dịch thơ:
Bài hát tòng quân
Trăm trận chiến trường, giáp chẳng lành Nam thành lớp lớp địch vây quanh. Mở đường chóng giết Hung nô tướng Khinh kỵ ngàn quân hát khải hành.
Lỗ tẩu đàm ngũ kinh Bạch phát tử chương cú. Vấn dĩ kinh tế sách Mang nhiên trụy yên vụ. Túc trước viễn du lý Thủ đới phương sơn cân Hoãn bộ tòng trực đạo Vị hành tiên khởi trần Tần gia Thừ Tướng phủ Bất trọng bao y nhân Quân phi Thúc Tôn Thông dữ ngã bản thù luân. Thời sự thả vị đạt Quy canh Vấn thủy tân.
Dịch nghĩa:
Giễu ông đồ nước Lỗ
Ông già nước Lỗ bàn chuyện năm kinh Tóc bạc vùi trong những từ chương đã chết Hỏi ông cách giúp đời gúp nước Ông ngơ ngác như từ mây mù rơi xuống Chân ông đi giày "viễn du" Đầu ông chít khăn kiểu "phương sơn" Khệnh khạng ông bước trên đường thẳng Chưa đi đã thấy bụi bay mù Phủ Thừa tướng nhà Tần Không ưa những người áo dài lụng thụng Ông không phải là Thúc Tôn Thông So với tôi , ông cũng không giống Chuyện đời ông còn chưa thông tỏ Nên về bờ sông Vấn đi cày.
Các bản dịch thơ:
Giễu ông đồ nước Lỗ
Ông đồ nước Lỗ học ngũ kinh Bạc đầu nhai chết từng chương cú Hỏi ông giúp đời thế nào đây ? Mờ mịt như người mây khói phủ! Chân đi đôi giày "viễn du lý" Đầu đội chiếc khăn phương sơn cân" Khệnh khạng ông bước theo đường thẳng Chưa đi bụi đã như mây vần Này , phủ thừa tướng đời nhà Tần Không trọng những người áo lụng thụng Ông không phải hạng Thúc Tôn Thông Ông so với tôi cũng không giống! Việc đời đã chẳng hiểu chi chi Bến Vấn liệu về cày cho chóng!
Thiếp phát sơ phú ngạch, Chiết hoa môn tiền kịch. Lang kỵ trúc mã lai, Nhiễu sàng lộng thanh mai. Đồng cư Trường Can lý, Lưỡng tiểu vô hiềm sai. Thập tứ vi quân phụ, Tu nhan vị thường khai. Đê đầu hướng ám bích, Thiên hoán bất nhất hồi. Thập ngũ thuỷ triển mi, Nguyện đồng trần dữ bôi. Thường tồn bảo trụ tín, [2] Khởi thướng Vọng Phu đài? [3] Thập lục quân viễn hành, Cồ Đường, Diễm Dự đôi.[4] Ngũ nguyệt bất khả xúc, Viên thanh thiên thượng ai. Môn tiền cựu hành tích, Nhất nhất sinh lục đài. Đài thâm bất năng tảo, Lạc diệp thu phong tảo. Bát nguyệt hồ điệp lai, Song phi tây viên thảo. Cảm thử thương thiếp tâm, Toạ sầu hồng nhan lão. Tảo vãn hạ Tam Ba,[5] Dự tương thư báo gia. Tương nghinh bất đạo viễn, Trực chỉ Trường Phong Sa.[6]
Dịch nghĩa:
Bài ca Trường Can - kỳ 1
Tóc em mới xoà ngang trán Bẻ hoa trước cửa nhà chơi Chàng cửa ngựa tre đến Quanh giường nghịch ném quả mơ xanh Cùng sống ở đất Trường Can Hai đứa nhỏ chẳng hề giữ ý Năm mười bốn làm vợ anh Mặt thẹn thò không lúc nào tươi Cúi đầu ngoảnh vào vách tối Gọi nghìn câu chẳng một lời đáp lại Năm mười lăm mới tươi tỉnh mặt mày Nguyện sống chết chẳng rời nhau Thường tin chàng như người ôm cột một lòng Há tưởng thiếp phải lên đài cao ngóng chồng Năm mười sáu chàng đi xa Đến Cồ Đường , Diệm Dự Tháng năm nơi ấy không thể qua Tiếng vượn kêu vang trời thảm thiết Trước cửa dấu chân bước dạo xưa Chỗ nào cũng rêu xanh phủ mờ Rêu dầy không quét được Lá sớm rụng theo gió mùa thu Tháng tám bướm bay vàng chới Từng đôi dập dùi trên vườn cỏ phía tây Cám cảnh ấy , lòng thiếp đau đớn Ngồi buồn , tuổi con gái ngày một già Sớm muộn chàng tới Tam Ba Hãy gửi thư về nhà báo trước Đón nhau ngại vì đường xa Thiếp sẽ tời tận Trường Phong Sa.
Các bản dịch thơ:
Bài ca Trường Can - kỳ 1
Khi tóc vừa buông trán, Hái hoa trước cổng chơi. Chàng cưỡi ngựa tre đến. Quanh giường tung trái mai. Trường Can cùng chung xóm, Cả hai đều thơ ngây. Mười bốn, về làm vợ, Thiếp còn e lệ hoài. Cúi đầu vào vách tối, Gọi mãi, chẳng buồn quay. Mười lăm, mới hết thẹn, Thề cát bụi không rời. Bền vững lòng son sắc, Há lên Vọng phu đài. Mười sáu, chàng đi xa, Cồ Đường, Diễm Dự đôi. Tháng năm không đến được; Vượn buồn kêu trên trời. Trước cổng vết chân cũ, Rêu xanh mọc um đầy. Rêu nhiều không quét hết, Gió thổi, lá vàng rơi. Tháng tám, bươm bướm vàng, Trên cỏ vườn bay đôi. Cảnh ấy đau lòng thiếp, Má hồng buồn phôi pha . Khi chàng xuống Tam Ba, Nhớ gởi thư về nhà. Thiếp sẽ mau đi đón , Đến thẳng Trường Phong Sa.
Bản dịch: Trần Trọng San
Tóc em mới kín trán Trước cửa bẻ hoa đùa Chàng cưỡi ngựa trúc lại Quanh ghế tung mơ chua Cùng ở xóm Trường Can Đôi trẻ vui tha hồ Mười bốn làm vợ chàng Thơ ngây em hổ thẹn Bên vách cúi gầm đầu Mặc dầu chàng gọi đến Mười lăm mới bạo dạn Quấn nhau không muốn rời Ôm cột nguyền giữ ước Vọng phu chẳng lên đài Mười sáu chàng đi xa Tháp Cồ, hòn Diệm Dự Nước lớn đang tháng năm Vượn kêu buồn lắm nữa Vết giày in trước cửa Xanh xanh rêu mọc đầy Rêu nhiều không thể quét Lá rụng gió thu bay Tháng tám bươm bướm vàng Bay đôi trên áng cỏ Xúc cảm em đau lòng Héo già thương má đỏ Chàng sớm rời Tam Ba Báo thư trước về nhà Đón chàng em há quản Đến tận Trường Phong Sa.
Bản dịch: Trúc Khê
1. Trường Can là tên đất ở huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. 2. Thường tin chàng như người ôm cột một lòng: Vi Sinh hẹn người tình đến gặp dưới chân cầu, nhưng người tình không đến. Thủy triều lên , chàng không chịu dời, ôm cột mà chết. 3. Vọng Phu Đài : Ở nam Trung châu, tỉnh Tứ Xuyên. 4. Cồ Đường, Diệm Dự : hai nơi có đá ngầm trên sông Trường Giang, thuộc Tứ Xuyên. 5. Tam ba: ba vùng đất mang tên Ba, đó là Ba Thục, Ba Đông và Ba Tây (đông bắc Tứ Xuyên). 6.Trường Phong Sa: một địa danh trên sông Trường Giang thuộc tỉnh An Huy, cách rất xa xóm Trường Can.
Ức thiếp thâm khuê lý, Yên trần bất tằng thức. Giá dữ Trường Can nhân, Sơn đầu hậu phong sắc . Ngũ nguyệt nam phong hưng, Tư quân há Ba Lăng. Bát nguyệt tây phong khởi, Tưởng quân phát Dương Tử. Khứ lai bi như hà, Kiến thiểu biệt ly đa. Tương đàm kỷ nhật đáo, Thiếp mộng việt phong ba. Tạc dạ cuồng phong độ, Xuy chiếc giang đầu thụ. Diểu diểu án phong biên, Hành nhân tại hà xứ. Hảo thừa phù vân thông, Giai kỳ lan chử đông. Uyên ương lục bồ thượng, Phỉ thúy cẩm bình trung. Tự lân thập ngũ dư, Nhan sắc đào hoa hồng. Na tác thương nhân phụ, Sầu thủy phục sầu phong.
Dịch nghĩa:
Bài ca Trường Can - kỳ 2
Nhớ lại lúc còn ở trong phòng khuê sâu kín chưa từng biết cảnh gió bụi; Từ khi lấy chồng người Trường Can, thường lên đầu núi , chờ đợi sắc gió. Tháng năm khi gió nam thổi, thiếp đang nghĩ chàng dang đi xuống huyện Ba lăng. Tháng tám khi gió tây thổi, thiếp nghĩ đến chàng đang từ sông Dương Tử ra đi. Từ trước đến nay đau thương đến như thế nào? Gặp nhau thì ít mà ly biệt thì nhiều. Biết bao nhiêu ngày mới được huyện Tương Đàm? Thiếp nằm mơ thấy vượt qua sóng gió. Đêm qua cơn gió thổi mạnh qua, làm gãy cây cối ở đầu sông. Bên gió tối mịt mùng, người đi bây giờ đang ở đâu? Thiếp mong được cỡi con ngựa là đám mây nổi kia, để đến gặp chàng ở phía đông bãi lan. Chim uyên ương nằm trên lớp cỏ bồ xanh; chim phỉ thúy thêu trên bức bình phong gấm. Trông thấy cảnh đó, thiếp tự thương mình, mới hơn mười lăm tuổi, nhan sắc đỏ thắm như hoa đào, mà sao lại làm vợ người lái buôn, hết buồn vì nước lại buồn vì gió.
Các bản dịch thơ:
Bài ca Trường Can - kỳ 2
Nhớ xưa trong phòng khuê, Chẳng từng biết gió bụi. Lấy chồng người Trường Can, Đợi gió trên đầu núi. Tháng năm gió nam nổi Chàng đang xuống Ba Lăng. Tháng tám gió tây thổi, Chàng đang qua sông Dương. Bấy nay buồn biết mấy, Ít gặp, nhiều chia xa. Tương Đàm bao ngày tới? Thiếp mộng vượt phong ba. Trận cuồng phong đêm trước, Bẻ gẫy cây đầu sông. Mịt mùng bên gió tối, Người đi biết đâu vùng. Mong cưỡi ngựa mây nổi, Hẹn nhau tại bến đông. Uyên ương trên cỏ biếc, Phỉ thúy trong bình phong. Thương thay mười lăm tuổi, Nhan sắc thắm hoa đào. Nay thành người thương phụ, Gió nước gợi sầu đau.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Wed Jan 04, 2012 9:38 am
Trường Môn oán - kỳ 1
Nguyên tác chữ Hán:
長 門 怨 其 一
天回北斗挂西楼, 金屋无人萤火流。 月光欲到长门殿, 别作深宫一段愁。
Phiên âm:
Trường Môn oán - kỳ 1
Thiên hồi Bắc đẩu quải tây lâu, Kim ốc vô nhân huỳnh hỏa lưu. Nguyệt quang dục đáo Trường Môn điện, Biệt tác thâm cung nhất đoạn sầu.
Dịch nghĩa:
Nổi oán Trường Môn - kỳ 1
Trời xoay chuyển sao Bắc đẩu treo ở mái lầu Tây, Nơi nhà vàng không người ở chỉ có ánh sáng của đom đóm qua lại. Điện Trường Môn ánh trăng như muốn đến Ly biệt đã khiến nơi cung sâu dằng dặc một nổi sầu.
Các bản dịch thơ:
Nổi oán Trường Môn - kỳ 1
Trời xoay, Bắc đẩu gác lầu Tây Người vắng, điện vàng đom đóm bay. Muốn đến Trường Môn, trăng những ngại, Thâm cung ly biệt chất sầu đầy.
Bản diệt: Ngao_0p
1. Trường Môn điện: cung điện do Hán tổ Lưu Bang xây dựng, thường các cung phi bị thất sủng cho đến đây ở.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Wed Jan 04, 2012 10:18 am
Trường Môn oán - kỳ 2
Nguyên tác chữ Hán:
長 門 怨 其 二
桂殿长愁不记春, 黄金四屋起秋尘。 夜悬明镜青天上, 独照长门宫里人。
Phiên âm:
Trường Môn oán - kỳ 2
Quế điện trường sầu bất kí xuân, Hoàng kim tứ ốc khởi thu trần. Dạ huyền minh kính thanh thiên thượng, Độc chiếu Trường Môn cung lí nhân.
Dịch nghĩa:
Nổi oán Trường Môn - kỳ 2
Cung điện quạnh quẽ, buồn sầu kéo dài không nhớ đến mùa xuân. Bốn căn nhà vàng (trong cung điện) còn đầy bụi Thu Đêm treo tấm gương sáng (ánh trăng) trên bầu trời xanh, Lẻ loi soi những cung nhân trong điện Trường Môn.
Các bản dịch thơ:
Nổi oán Trường Môn - kỳ 2
Cung quế quạnh sầu ai nhớ xuân? Điện vàng bốn phía bụi Thu gần Đêm treo trăng sáng trên trời thẳm Chỉ rọi Trường Môn chiếu mỹ nhân.
Trường tương tư, Tại Tràng An Lạc vi thu đề kim tỉnh lan Vi phong thê thê đàm sắc hàn Cô đăng bất minh tứ dục tuyệt Quyển duy vọng nguyệt không trường thán Mỹ nhân như hoa cách vân đoan Thượng hữu thanh mạc chi trường thiên Hạ hữu lục thủy chi ba lan Thiên trường địa viễn hồn phi khổ Mộng hồn bất đáo quan san san Trường tương tư, Tồi tâm can.
Dịch nghĩa:
Nhớ nhau hoài
Nhớ nhau hoài, Ở Trường An. Sẹt sành kêu thu bên giếng vàng Sương mỏng lạnh lẽo, sắc chiếu lạnh Đèn lẻ loi không sáng, nỗi nhớ càng nung nấu Cuốn rèm ngắm trăng, ngửa mặt lên trời than dài Người đẹp như hoa hiện lên sau sắc mây Trên có giải xanh trời cao thăm thẳm Dước có nước xanh sóng nhẹ đưa Trời cao đất rộng hồn thêm khổ Mộng hồn bay đến nơi quan san kia cũng khó Nhớ nhau hoài, Đứt ruột gan.
Các bản dịch thơ:
Nhớ nhau hoài
Nhớ nhau hoài, Ở Tràng An. Sẹt sành kêu thu ran giếng vàng Sương mỏng buốt giá chiếu hoa lạnh Đèn lẻ hắt hiu lòng trống vắng Cuốn rèm nhìn trăng, buột thở than Người đẹp hiện lên sau mây ngàn Trên có tầng xanh, trời mênh mang Dưới có nước biếc, sóng hồ lan Trời cao đất rộng hồn bay nhọc Mộng hồn khôn đến được quan san Nhớ nhau hoài, Nẫu ruột gan.
Nhật sắc dĩ (dục) tận hoa hàm yên Nguyệt minh như tố sầu bất miên Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ Thục cầm dục tấu uyên ương huyền Thử khúc hữu ý vô nhân truyền Nguyện tùy xuân phong ký Yên Nhiên Ức quân điều điều cách thanh thiên Tịch nhật (thời) hoành ba mục Kim thành lưu lệ tuyền Bất tín thiếp trường đoạn Quy lai khán thủ minh kính tiền.
Dịch nghĩa:
Nhớ nhau hoài - kỳ 2
Ánh mặt trời sắp hết hoa ngậm khói sương Trăng sáng như lụa buồn không ngủ được Tiếng đàn sắt nước Triệu vừa ngưng ở trụ phượng hoàng Cây cầm đất Thục lại muốn tạo nên khúc trên dây uyên ương Khúc nhạc này có tình ý mà không có ai để truyền đi Xin cho gió xuân thổi đến núi Yên Nhiên Nhớ mình xa cách phương trời xanh thẳm Ngày xưa ánh mắt còn liếc Bây giờ làm thành suối lệ Không tin em buồn đứt ruột Hãy về mà nhìn gương em đang cầm trước mặt.
Các bản dịch thơ:
Nhớ nhau hoài - kỳ 2
Hoa lồng khói biếc tắt tà dương Trăng trong như lụa tơ sầu vương Ðàn Triệu vừa ngơi trụ phượng hoàng Ðàn Thục toan gãy dây uyên ương Khúc này có ý không ai truyền Mong gởi gió xuân đến Yên Nhiên Xa cách trời xanh nhớ khó quên Ngày xưa mắt gợn sóng Nay thành suối lệ phiền Ðoạn trường ai chẳng tin lòng thiếp Hãy về mà ngắm bóng gương in.
Bản dịch: Trần Trọng San
Lặn ánh tà dương Hoa ngậm khói sương Bóng thiềm vằng vặc Bâng khuâng canh trường Dừng trụ phượng hoàng Nắn dây uyên ương Cung đàn ngụ ý Ai gửi cùng chàng Theo làn gió xuân Núi Yên gởi sang Nhớ người xa xa Xa cách trời xanh Xưa mắt đưa tình Như sóng long lanh Rầy sao giọt lệ Như suối chảy quanh.
Khứ niên hà thì quân biệt thiếp, Nam viên lục thảo phi hồ điệp. Kim tuế hà thì thiếp ức quân, Tây sơn bạch tuyết ám Tần vân. Ngọc quan khứ thử tam thiên lí, Dục kí âm thư na khả văn?
Dịch nghĩa:
Nhớ biên cương
Năm ngoái vào lúc này, chàng và thiếp ly biệt Bên vườn nam, bướm bay vờn cỏ xanh biếc Năm nay vào lúc chia biệt ấy, thiếp nhớ tới chàng Núi phía tây, tuyết trắng che kín, xám mây Tần Ngọc quan nơi chàng đến cách xa ba ngàn dặm Muốn gởi lá thư, không biết chàng có nhận được chăng?
Các bản dịch thơ:
Nhớ biên cương
Mùa năm ngoái chàng từ biệt thiếp, Mùa bướm bay cỏ biếc vườn nam. Năm nay mùa thiếp nhớ chàng Mịt mờ tuyết lẫn mây Tần núi tây. Ngọc quan cách chốn này ngàn dặm, Muốn đưa tin, tin chẳng tới chàng.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Thu Jan 05, 2012 8:49 am
Tử Dạ tứ thời ca - Xuân ca*
Nguyên tác chữ Hán:
子夜四时歌 - 春歌
秦地罗敷女, 采桑绿水边。 素手青条上, 红妆白日鲜。 蚕饥妾欲去, 五马莫留连。
Phiên âm:
Tử Dạ tứ thời ca - Xuân ca[1]
Tần địa La Phu nữ[2] Thái tang lục thủy biên Tố thủ thanh điều thượng Hồng trang bạch nhật tiên Tàm cơ thiếp dục khứ Ngũ mã[3] mạc lưu liên.
Dịch nghĩa:
Bài hát về bốn mùa của nàng Tử Dạ - Xuân ca
Người con gái La Phu đất Tần Hái dâu bên giòng nước xanh Bàn tay trắng ngần vịn vào nhành cây xanh Ánh nắng mặt trời chiếu trên bộ đồ đỏ mới tinh Tằm đói rồi thiếp phải chạy về nhà Xin ngài (người đi xe năm ngựa kéo) đừng ở lại lâu
Các bản dịch thơ:
Bài hát về bốn mùa của nàng Tử Dạ - Xuân ca
Ðất Tần gái La Phu Bờ xanh nước hái dâu Tay trắng vin cành biếc Ánh dương ửng má đào Thiếp về lo tằm đói Ngài chớ đổ xe lâu.
Bản dịch: Khương Hữu Dụng
La Phu cô gái đất Tần Hái dâu xanh ở bến gần nước xanh. Phau phau tay trắng vin cành Ánh dương ửng má cô mình đỏ tươi. Em về tằm đói về thôi Hỡi quan Thái thú rậm nhời mà chi.
Bản dịch: Nguyễn Hữu Bông
*: Lý Bạch viết Tử dạ tứ thời ca để nói lên thời đại ông đang sống từ cảnh thái bình thịnh trị chuyển sang cảnh chiến tranh khốc liệt, sinh linh đồ thán. Bài thơ mùa xuân: Nói lên đời thái bình thịnh trị khi mà người dân quê được sống đời hái dâu nuôi tằm. Hai câu kết thật ý nhị nhẹ nhàng. Khách đa tình thấy ngất ngây trước vẻ đẹp chất phác, mơn mởn (khỏe mạnh), tự nhiên. Thiếu nữ nửa mời mọc, nửa chối từ một cách khéo léo. Thôi thiếp phải về nhà nuôi tằm kẻo chúng đói (ngài có muốn theo không?). Mà thôi ngài là khách hào hoa, phú quí chẳng nên dây dưa ở đây mà làm gì . Thiếp thân phận thấp hèn chẳng qua chỉ là bông hoa bên đường. Nếu ngài không thật tình thì chỉ làm thiếp khổ vì vấn vương mà thôi. 1. Bốn bài ca bốn mùa này còn có tên là "Tử Dạ Ngô ca" (子夜吴歌). Tử Dạ: tên khúc nhạc đời Tấn. Có người con gái đời Tấn, tên Tử Dạ, làm những bài ca rất bi ai. Tử Dạ từ Tấn sang đất Ngô nên khúc hát có hai tên. 2. La Phu: tên người con gái hái dâu trong khúc hát Mạch thượng tang. 3. Chỉ quan Thái thú nhà Hán khi đi tuần thường cưỡi xe năm ngựa kéo.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Thu Jan 05, 2012 9:47 am
Tử Dạ tứ thời ca - Hạ ca*
Nguyên tác chữ Hán:
子夜四时歌 - 夏歌
镜湖三百里, 菡萏发荷花。 五月西施采, 人看隘若耶。 回舟不待月, 归去越王家。
Phiên âm:
Tử Dạ tứ thời ca - Hạ ca
Kính hồ tam bách lý Hạm đạm phát hà hoa. Ngũ nguyệt Tây Thi thái Nhân khan ải Nhược da.[1] Hồi chu bất đãi nguyệt Quy khứ Việt vương gia.
Dịch nghĩa:
Bài hát về bốn mùa của nàng Tử Dạ - Bài ca mùa hạ
Hồ rộng ba trặm dặm như gương Những cây sen nở hoa đầy Tháng năm Tây Thi hái hoa Người xem thấy Tây thi hái sen ở trên con lạch hẹp Nhược da Chẳng buồn chờ trăng nửa quay thuyền về Trở lại cung điện của vua Việt.
Các bản dịch thơ:
Bài hát về bốn mùa của nàng Tử Dạ - Bài ca mùa hạ
I
Hồ gương ba trăm dặm, Sen chen nhau nở hồng. Tháng năm Tây Thi hái, Nhược da lắm người trông Thuyền quay trăng chẳng đợi, Cung Việt nước xuôi dòng.
II
Ba trăm dặm mặt hồ gương Sen đua nhau nở ngát hương một trời. Tháng năm người ngọc hái về, Người xem đứng chật bên ngoài Nhược da Quay thuyền chẳng đợi trăng ra, Cung vua nước Việt xa xa lại gần.
Bản diệt: Ngao_0p
Bài thơ mùa hạ: Nói đến thời thịnh trị tột bực của triều đại nhà Ðường và mượn Tây Thi để nói lên sắc đẹp diễm lệ khuynh quốc khuynh thành của Dương quí phi. Tác giả cảm thương cho những kiếp hồng nhan bạc phận cũng như cảm khái trước những giông tố sắp nổi lên . Chúng ta có thể hiểu vẻ đẹp của Tây Thi làm người người cảm thương. Nhưng người đẹp vẫn vô tình quay thuyền trở về nhà đâu biết được số kiếp hồng nhan ba chìm bảy nổi sắp sửa xảy tới cho mình. Hồi châu bất đãi nguyệt Qui khứ Việt vương gia. Tả cuộc sống còn hồn nhiên của Tây Thi (thong dong tự tại hái sen trên hồ, trở thuyền về nhà mình sớm vì tâm tư vẫn còn hồn nhiên, chưa bị chuyện đời, chưa chứa đựng hình bóng ai) trước khi bị tuyển lựa để đem cống cho Ngô Phù sai, dùng nàng làm mỹ nhân kế để thực hiện giấc mộng tranh bá đồ vương của Câu Tiễn. Với chế độ phong kiến, đất đai nào mà chẳng phải của vua (mạc phi vương thổ). Việt vương gia: quay trở về nhà mình (ở đất Việt). Nếu đã bị tuyển vào cung cấm rồi thì đi đâu xe ngựa rộn ràng làm sao mà có chuyện hái hoa sen, làm sao mà về sớm được, còn phải ở cạnh quân vương để mà xem hoa ngắm nguyệt. 1. Nhược da: lạch (khê) nhỏ, phía đông nam huyện Thiệu hưng, chảy về phía bắc vào Kính hồ.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Thu Jan 05, 2012 10:01 am
Tử Dạ tứ thời ca - Thu ca*
Nguyên tác chữ Hán:
子夜四时歌 - 秋歌
长安一片月, 万户捣衣声。 秋风吹不尽, 总是玉关情。 何日平胡虏, 良人罢远征。
Phiên âm:
Tử Dạ tứ thời ca - Thu ca
Trường An nhất phiến nguyệt, Vạn hộ đảo y thanh. Thu phong xuy bất tận Tổng thị Ngọc quan[1] tình. Hà nhật bình Hồ lỗ,[2] Lương nhân bãi viễn chinh.
Dịch nghĩa:
Bài hát về bốn mùa của nàng Tử Dạ - Bài ca mùa thu
Mảnh trăng mọc trên đầu Trường An Nơi nơi nghe tiếng đập áo Gió mùa thu thổi không hết Rốt cuộc cũng còn đâu đó cái nhớ nhung về người miền Ngọc môn quan Trời hỡi ngày nào dẹp xong rợ Hồ Cho chồng tôi hết phải sống cuộc đời lính thú xa xôi.
Các bản dịch thơ:
Bài hát về bốn mùa của nàng Tử Dạ - Bài ca mùa thu
Trường An trăng một mảnh, Ðập áo muôn cửa inh Gió thu thổi không dứt, Ngọc quan một mối tình Ngày nào giặc Hồ dẹp, Lương nhân khỏi viễn chinh.
Bản dịch: Trần Trọng Kim
Một vầng trăng chiếu Trường An Tiếng châm muôn hộ rộn ràng đêm thanh. Gió thu thổi mãi sao đành, Hắt hiu hết thảy là tình Ngọc quan. Bao giờ cho giặc kia tan, Cho thôi chinh chiến cho chàng khỏi đi.
Bản dịch: Trần Trọng San
Trường An trăng một mảnh Ðập vải rộn muôn nhà. Gió thu đưa chẳng ngớt Tình đến Ngọc quan xa. Bao giờ dẹp hết giặc Khỏi trẩy lính chồng ta.
Bản dịch: Khương Hữu Dụng
Trường An trăng một mảnh, Ðập vải rộn muôn nhà. Gió thu thổi không ngớt, Ải Ngọc tình bao la. Bao giờ dẹp yên giặc, Cho chàng khỏi xông pha.
Bản dịch: Tương Như
*: Bài thơ mùa thu: Ðây là bài nổi tiếng nhất trong bốn bàị Nói lên cảnh từ thanh bình thịnh trị (2 câu đầu) chuyển sang cảnh chiến tranh (2 câu kế). Hai câu chót nói lên tình cảm của người đương thời, còn tràn đầy hy vọng chiến tranh sẽ sớm chấm dứt. Bút pháp đơn giản nhưng khéo diễn đạt tâm tình cũng như nếp sống của thời đó. 1. Ngọc quan: là Ngọc môn quan, giờ là Sa châu, cách Trường An 3600 dặm. 2. Hồ lỗ: rợ Hồ.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Thu Jan 05, 2012 10:33 am
Tử Dạ tứ thời ca - Đông ca*
Nguyên tác chữ Hán:
子夜四时歌 - 冬歌
明朝驿使发, 一夜絮征袍。 素手抽针冷, 那堪把剪刀。 裁缝寄远道, 几日到临洮?
Phiên âm:
Tử Dạ tứ thời ca - Đông ca
Minh triêu dịch sứ phát Nhất dạ nhứ chinh bào Tố thủ trừu châm lãnh Na kham bả tiển đao Tài phùng ký viễn đạo Kỷ nhật đáo Lâm Thao?
Dịch nghĩa:
Bài hát về bốn mùa của nàng Tử Dạ - Bài ca mùa đông
Ngày mai sứ giả sẽ đi về miền chinh chiến Nguyên đêm ngồi may chiếc áo trận Bàn tay ngọc cầm kim khâu đã thấy lạnh Không biết có cầm nổi cái kéo để cắt áo hay không May cho xong để còn gởi ra miền xa xôi Không biết ngày nào (áo) đến được Lâm Thao?
Các bản dịch thơ:
Bài hát về bốn mùa của nàng Tử Dạ - Bài ca mùa đông
Mai sứ giả đi sớm, Trọn đêm kết chiến bào. Kim lạnh buốt tay ngọc Khó khăn cầm kéo, dao. Cố xong đường xa gởi, Lâm Thao đến ngày nào?
Bản diệt: Ngao_0p
*: Bài thơ mùa đông: Nói lên cái khổ của chiến tranh. Cuộc chiến đã dính liền với nếp sống thường ngàỵ Nói lên sư thiếu thốn cơ cực của kiếp sống cũnh như hình ảnh phụ nữ Á đông vẫn ngàn đời hy sinh nhịn ăn nhịn mặc để lo cho chồng cho con. Những dòng này của bốn bài lấy bên www.nhanmonquan.net của Bạch Vân Phi.
Lạc nhật dục một Hiện Sơn tây, Đảo trứ tiếp li hoa hạ mê. Tương Dương tiểu nhân tề phách thủ, Lan nhai tranh xướng “Bạch Đồng Đê”[1] Bàng nhân tá vấn tiếu hà sự. Tiếu sát sơn công túy tự nê. Lô từ[2] tiêu, anh vũ bôi. Bách niên tam vạn lục thiên nhật, Nhất nhật tu khuynh tam bách bôi. Dao khán Hán thủy áp đầu lục, Kháp tự bồ đào sơ bát phôi. Thử giang nhược biến tác xuân tửu, Lũy khúc tiện trúc tao khâu đài. Thiên kim tuấn mã hoán tiểu thiếp, Túy tọa điêu an ca “Lạc mai”.[3] Xa bàng trắc quải nhất hồ tửu, Phượng sanh long quản hành tương thôi. Hàm dương thị trung thán hoàng khuyển,[4] Hà như nguyệt hạ khuynh kim lôi? Quân bất kiến: Tấn triều Dương công nhất phiến thạch,[5] Quy đầu bác lạc sanh môi đài. Lệ diệc bất năng vi chi đọa, Tâm diệc bất năng vi chi ai. Thanh phong lãng nguyệt bất dụng nhất tiền mãi, Ngọc sơn tự đảo phi nhân thôi. Thư châu tiêu, lực sĩ đang, Lý Bạch dữ nhĩ đồng tử sanh. Tương vương[6] vân vũ kim an tại? Giang thủy đông lưu viên dạ thanh.
Dịch nghĩa:
Bài ca Tương Dương
Mặt trời lặn như muốn chìm vào phía tây núi Hiện Sơn, Ngã xuống (cố) bám đứng lên gần hoa như tỉnh như mê. Trẻ con Tương Dương (trông thấy) đều vỗ tay Ngăn con đường cùng nhau hát bài "Bạch Đồng Đê" Người bên cạnh ướm hỏi chuyện gì vui thế? Cười vì thấy ông lão ở núi say bét nhè Thìa giống chim lô từ, cái chén giống con chim vẹt Một trăm năm là ba vạn sáu ngàn ngày Một ngày phải nốc hết ba trăm chén rượu. Đứng xa nhìn xem sông Hán Thủy giống hình đầu vịt nước xanh biếc Mùi rượu mới ngâm chưa lược giống như rượu bồ đào. Nước sông cũng biến đổi thành rượu Xuân Bờ lũy uốn quanh tiện thể biến thành cái đài ngồi uống rượu Đổi cô vợ nhỏ lấy con ngựa ngàn vàng Say ngồi trên yên ngựa có điêu khắc hát khúc "Lạc mai" Chiếc xe bên cạnh treo một bầu rượu Sênh phượng, sáo rồng thúc giục nhau đi Giữa chợ Hàm Dương chó vàng than thở. Sao lại không cầm chén vàng uống rượu dưới trăng Ai có thấy: Triều Tấn, Dương Hỗ được dựng bia đá (Đọa lệ bi) Đầu rùa bị bóc vỡ ra sinh đài rêu Nước mắt cũng không còn để chảy Cũng chẳng còn lòng nào để thương tiếc Trăng thanh gió mát không phải tốn một đồng để mua Núi Ngọc Sơn tự đổ đâu phải do người đẩy Thìa Tiêu châu, lực sĩ gõ, Lý Bạch này quyết cùng sống chết Nơi vua Tương vương mây mưa (cùng nữ thần núi Vu Sơn) giờ đâu nhỉ? Nước sông chảy về đông, đêm nghe tiếng vượn kêu.
Các bản dịch thơ:
Bài ca Tương Dương
Tây Hiện Sơn vầng dương đương lặn Ngã, bám hoa chẳng đặng còn mê. Tương Dương trẻ vổ tay hề, Ngăn đường hát "Bạch Đồng Đê" reo hò. Lại có kẻ tò mò muốn biết, Ra lão già nét bét hèm say. Thìa lô từ, chén vẹt bay, Tính ba vạn sáu ngàn ngày: trăm năm. Một ngày nốc ba trăm chén rượu Hán Thủy xanh, xa ngỡ vịt bầu Bồ đào, rượu mới như nhau, Nước sông kia cũng nhuộm màu rượu Xuân. Đài ăn nhậu dựng tầng theo lũy Đổi vợ xinh, thỏa ý ngựa hay. Trên yên say hát "Lạc mai" Xe bên giắt rượu miệt mài nhâm nhi Sáo rồng đâu, giục đi sênh phượng, Chó vàng than chi ngượng Hàm Dương Trăng thanh sao chẳng chén vàng? Còn ai có thấy miên man quang thiều. Như Dương Công, Tấn triều bia dựng Rêu đài xanh phủ cứng đầu rùa Lệ còn đâu nữa cay chua Lòng nào thương tiếc những mùa đã qua. Trăng với gió ai đà mua vậy Núi Ngọc Sơn ai đẩy như đùa. Thìa Tiêu châu, lực sĩ khua Tử, sanh Lý Bạch hơn thua quyết cùng. Đỉnh Vu Sơn trập trùng trông ngóng Chốn mây mưa đâu bóng Tương Vương? Về đông sông chảy dặm trường, Đêm nghe tiếng vượn bi thương bên trời.
Bản diệt: Ngao_0p
1. Bạch Đồng đê: là một bài ca dao xưa có những câu như: "nhật mộ đảo tái quy, mính đính vô sở tri, phục năng kị tuấn mã, đảo trứ bạch tiếp li". (Tối đến ngày lại đi, Say sưa chẳng biết gì, Lại hay cưỡi tuấn mã, Giậu hoa, ngã bám thì). 2. Lô từ: một loài chim nước, lông đen. 3. Lạc mai: tên đầy đủ là "Mai hoa lạc", Bài hát hoa mơ rụng. Là một bài hát có âm điệu uyển chuyển. 4. Hoàng khuyển (chó vàng): Truyện Lý Tư thời nhà Tần. Khi bị Tần Nhị Thế bắt đem ra chợ Hàm Dương chém ngang lưng, Lý Tư nói với con: "Ta muốn cùng ngươi lại dắt con chó vàng, ra khỏi cửa Đông ở ấp Thượng Sái đuổi con thỏ khôn, nhưng làm sao được nữa?" 5. Dương Công tức Dương Hỗ làm quan đời nhà Tấn, trấn thủ Tương Dương. Sau khi chết được người đời lập bia đá để tỏ lòng thương tiếc. Bia được đặt tên là "Đọa lệ bi" (Bia đầy nước mắt) 6. Tương Vương: Tức Sở Tương Vương, đời Chiến quốc đến núi Vu sơn du ngoạn. Tối ngủ lại mơ thấy một giai nhân cùng mình ân ái. Khi hỏi thì giai nhân trả lời: "Muôn tâu thánh thượng! Thiếp là thần nữ núi Vu Sơn qua chơi đất Cao Đường, vốn cùng nhà vua có tiền duyên, nay được gặp gỡ thật là phỉ nguyền mong ước. Ở Thiên cung, thiếp có nhiệm vụ buổi sớm làm mây, buổi chiều làm mưa ở Dương Đài." Sau Sở Tương Vương thương nhớ cho lập miết thờ gọi là miếu Vu Sơn Thần Nữ hay còn gọi là Miếu Triên Viên.
Triêu kị ngũ hoa mã, Yết đế xuất Ngân đài. Tú sắc thùy gia tử, Vân xa châu bạc khai. Kim tiên dao chỉ điểm, Ngọc lặc cận trì hồi. Giáp cốc tương tá vấn, Nghi tòng thiên thượng lai. Túc nhập thanh ỷ môn, Đương ca cộng hàm bôi. Hàm bôi ánh ca phiến, Tự nguyệt vân trung kiến. Tương kiến bất đắc thân, Bất như bất tương kiến. Tương kiến tình dĩ thâm, Vị ngữ khả tri tâm. Hồ vi thủ không khuê, Cô miên sầu cẩm khâm. Cẩm khâm dữ la vi, Triền miên hội hữu thì. Xuân phong chánh đạm đãng, Mộ vũ lai hà trì. Nguyện nhân tam thanh điểu, Canh báo trường tương tư. Quang cảnh bất đãi nhân, Tu du phát thành ti. Đương niên thất hành lạc, Lão khu đồ thương bi. Trì thử đạo mật ý, Vô lệnh khoáng giai kì.
Dịch nghĩa:
Bài hát tương phùng
Sáng sớm cưỡi con ngựa ngũ hoa Rời Ngân đài lên đường gặp đức Vua. Người con gái xinh đẹp kia là con nhà ai, Rèm châu trên xe mây mở ra. Cây roi (đánh ngựa) từ xa chỉ đến Dây cương ngọc đến gần quay lại chậm chạp. Đến gần bánh xe (ngựa) hỏi thăm nhau, Cứ ngỡ tiên nữ trên trời xuất hiện. Gấp rút vào nơi cửa rèm xanh (ở ven thành Trường An) Tiếng ca hòa với chén rượu. Chén rượu soi bóng cây quạt lời ca Tựa như gặp trăng trong mây. Gặp nhau không được gần, Thà rằng đừng gặp nhau. Gặp rồi tình nặng mãi, Không lời nói nào nói cho hết lòng này. Hà tất lại giữ lấy phòng không Ngủ một mình buồn thêm chăn gấm. Chăn gấm có khác nào cái màn, lưới giăng chim. Giờ gặp nhau quấn quít, Gió xuân đúng là lặng lẽ nhẹ nhàng. Mưa chiều sao lại đến chậm chạp Những muốn cầu (Vương mẫu) cho ba con chim xanh. Thay báo (cho ta) biết nổi nhớ dài Cảnh vật ở đây không đãi người. Trong chốc lát tóc đã thành tơ, Đang tuổi (xuân) mà mất niềm vui. Ruổi ngựa đã lâu những chỉ đau lòng thương khóc Nàng đi theo con đường cũ với ý nghĩ riêng, Đừng có lệnh (gặp vua) thì ắt không quên kỳ hẹn giai nhân.
Các bản dịch thơ:
Bài hát tương phùng
Ngựa ngũ hoa sớm cưỡi Vào kinh rời Ngân đài. Nhà ai cô gái đẹp, Xe mây, rèm châu lay. Cuốn roi, xa chỉ đến. Cương ngọc gần chậm quay. Ngựa song song, thăm hỏi, Ngỡ tiên nữ rời mây. Cửa rèm xanh đến gấp, Lời ca hòa rượu cay. Chén xinh bóng quạt rợp, Tựa gặp trăng trong mây. Gặp nhau không gần được Biết đừng gặp mà hay! Gặp nhau tình sâu nặng Lời nào hết lòng đây! Phòng không sao phải giữ? Chăn gấm sầu giấc dài. Chăn gấm hay màn lưới, Giờ quất quít đẹp thay. Gió xuân thật lãng đãng Mưa chiều lại chậm rơi. Ba chim xanh, ước có, Báo nỗi nhớ đong đầy. Cảnh vật không chìu người, Tóc thành tơ phút giây. Tuổi xuân tình yêu vuột Đau lòng giục ngựa bay. Niềm riêng nàng chậm tiến, Vì lệnh, hẹn có ngày!
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, Bôn lưu đáo hải bất phục hồi Hựu bất kiến Cao đường minh kính bi bạch phát Triêu như thanh ty mộ như tuyết Nhân sinh đắc ý tu tận hoan Mạc sử kim tôn không đối nguyệt Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng Thiên kim tán tận hoàn phục lai Phanh dương tế ngưu thả vi lạc Hội tu nhất ẩm tam bách bôi Sầm phu tử, Ðan Khâu sinh Tương tiến tửu. Bôi mạc đình! Dữ quân ca nhất khúc Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thinh Chung cổ soạn ngọc bất túc qúy Ðản nguyện trường túy bất dụng tinh Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh Trần vương tích thời yến Bình Lạc Ðẩu tửu thập thiên tứ hoan hước Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền Kinh tu cô tửu đối quân chước Ngũ hoa mã, Thiên kim cừu Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.
Dịch nghĩa:
Sắp kèo rượu
Bạn chẳng thấy: Nước sông Hoàng hà từ trên trời đổ xuống Cuồn cuộn chảy ra biển không trở lại Lại chẳng thấy Gương sáng trên lầu cao soi nỗi buồn tóc trắng Sớm như tơ xanh, chiều đã tuyết Ðời người, khi đắc ý, nên tận hưởng niền vui Ðừng để chén vàng cạn trơ dưới ánh trăng Trời sinh ra ta ắt có chỗ dụng Nghìn vàng tiêu sạch rồi lại có Mổ dê, giết bò tìm cuộc vui Tất phải uống một lần đủ ba trăm chén Hỡi ông Sầm, Hỡi chàng Ðan Khâu Rượu sắp bưng vào rồi ,xin chớ dừng lại Vì bạn, ta hát lên một bài Vì ta mời bạn nghiêng tai lắng nghe Tiệc ngon giữa tiếng trống chuông cũng không đáng quý Ta không muốn tỉnh, chỉ muốn say mèm Từ xưa, các bậc thánh hiền đều vắng ngắt Duy người uống rượu là lưu danh Thời trước Trần Vương, yến ẩm cung Bình Lạc Rượu vạn đồng một đấu, mặc sức vui uống nô đùa Chủ nhân vì sao lại kêu thiếu tiền Hãy mua rượu mau đi bạn cùng ta chuốc chén Này đây ngựa năm sắc, Áo cừu quý ngàn vàng Chú hầu hãy đem đổi lấy rượu ngon Cùng nhau phá tan trận sầu muôn thuở.
Các bản dịch thơ:
Sắp kèo rượu
Bác chẳng thấy: Sông Hoàng từ trời nước đổ xuôi Một mạch xuống biển không hề lui? Lại chẳng thấy: Gương sáng lầu cao buồn tóc bạc Sớm mới xanh tơ, chiều đã tuyết? Người sinh đắc ý vui tràn đi Chớ để chén vàng trơ với nguyệt. Trời đã sinh ta là có dụng Ngàn vàng phóng sạch rồi trở lui. Ninh dê, mổ trâu, rứa mới hả. Chén nhập ba trăm làm một hơi. Bác Sầm hỡi! Bác Đan ơi! Chớ ngưng chén rượu đây mời. Cùng bác ta ca hát Vì ta bác hãy lắng nghe chơi Chuông trống cổ bàn chưa đủ qúy Hay chi hòng tỉnh, ước say dài! Xưa nay thánh hiền đều bặt tiếng Chỉ có bọn rượu danh lừng thôi! Trần Vương thuở xưa tiệc Bình Lạc Đấu rượu mười ngàn vui thỏa thích Chủ nhân cớ sao kêu thiếu tiền, Dốc túi cùng ta chén thù tạc. Ngựa năm bớt Áo ngàn vàng Trẻ đâu! Cho đổi rượu ngon tất, Ta cạn muôn đời sầu thế gian!
Khí ngã khứ giả Tạc nhật chi nhật bất khả lưu Loạn ngã tâm giả Kim nhật chi nhật đa phiền ưu Trường phong vạn lý tống thu nhạn Đối thử khả dĩ hàm cao lâu Bồng lai văn chương Kiến An cốt Trung gian Tiểu Tạ hựu thanh phát Cụ hoài hứng dật tráng tứ phi Dục thướng thanh thiên lãm minh nguyệt Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ cánh lưu Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu Nhân sinh tại thế bất xứng ý Minh triêu tản phát lộng biên chu.
Dịch nghĩa:
Tuyên Châu trên lầu Tạ Diễu tiễn biệt Hiệu thư Thúc Vân
Bỏ ta mà đi Ngày của ngày qua không giữ được Làm rối lòng ta Ngày của ngày nay biết bao chuyện ưu phiền Gió dài vạn dặm đưa cánh nhạn thu bay đi Trước cảnh ấy chỉ có thể say trên lầu cao Văn chương Bồng Lai có cái cốt cách Kiến An Trung gian lại có ông Tiểu Tạ phong cách tuyệt vời Mang đầy hứng khởi, ý tứ hùng tráng bay lên Muốn lên đến trời xanh để nắm bắt vầng trăng sáng Rút đao chém xuống nước nước càng chảy mạnh Nâng chén tiêu sầu càng sầu thêm Con người ta ở nơi trần thế nếu chưa thoả ý Sớm mai xoã tóc luớt chiếc thuyền nhỏ rong chơi.
Các bản dịch thơ:
Tuyên Châu trên lầu Tạ Diễu tiễn biệt Hiệu thư Thúc Vân
Bỏ ta mà đi Ngày của ngày qua giữ lại gì ? -Chỉ lòng ta rối Ngày nay ngày của bao phiền toái. Vạn dặm gió thu cánh nhạn khơi Lầu cao trước cảnh gợi say thôi Kiến An thi tứ Bồng lai vận Tiểu Tạ phong lưu nét tuyệt vời. Hùng tráng ý văn đầy hứng khởi Muốn lên trời thẳm nắm trăng soi Rút đao chém nước trôi càng mạnh Nâng chén tiêu sầu chẳng được vơi. Trần thế con người chưa thỏa ý Sớm mai tóc xõa lướt thuyền chơi.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Mon Jan 09, 2012 8:03 am
Tuyên Thành Kiến Đỗ Quyên Hoa
Nguyên tác chữ Hán:
宣城見杜鵑花
蜀国曾闻子规鸟 宣城还见杜鹃花。 一叫一回肠一断, 三春三月忆三巴。
Phiên âm:
Tuyên Thành Kiến Đỗ Quyên Hoa
Thục quốc tằng văn tử quy điểu Tuyên Thành hoàn kiến đỗ quyên hoa Nhất khiếu nhất hồi trường nhất đoạn Tam xuân tam nguyệt ức Tam Ba.
Dịch nghĩa:
Xem hoa đỗ quyên tại Tuyên Thành
Từng nghe chuyện chim cuốc ở nước Thục, Ở Tuyên Thành lại thấy hoa đỗ quyên Mỗi tiếng cuốc kêu, mỗi vang vọng, mỗi đau lòng, Cả 3 tiết xuân, suốt 3 tháng, đều nhớ về Tam Ba (Thục).
Các bản dịch thơ:
Xem hoa đỗ quyên tại Tuyên Thành
Nước Thục từng nghe chim đỗ-vũ, Tuyên-Thành lại thấy đỗ-quyên hoa. Một tiếng bay kêu, buồn đứt ruột, Tháng ba xuân nữa, nhớ Tam Ba.
U Châu Hồ mã khách, Lục nhãn hổ bì quan. Tiếu phất lưỡng chỉ tiễn, Vạn nhân bất khả can. Loan cung nhược chuyển mục, Bạch nhạn lạc vân đoan. Song song điệu tiên hành, Du liệp hướng Lâu Lan.[1] Xuất môn bất cố hậu, Báo quốc tử hà nan? Thiên Kiêu ngũ Thiền vu,[2] Lang lệ hảo hung tàn. Ngưu mã tán Bắc hải,[3] Cát tiên nhược hổ xan. Tuy cư Yên Chi san, Bất đạo sóc tuyết hàn. Phụ nữ mã thượng tiếu, Nhan như xanh ngọc bàn. Phiên phi xạ dã thú, Hoa nguyệt túy điêu an. Mao đầu[4] tứ quang mang, Tranh chiến nhược phong toàn. Bạch nhận sái xích huyết, Lưu sa vi chi đan. Danh tướng cổ thị thùy, Bì binh lương khả thán. Hà thì thiên lang diệt ? Phụ tử đắc an nhàn.
Dịch nghĩa:
Bài ca khách cưỡi ngựa Hồ ở U Châu
Khách cưỡi ngựa Hồ ở U Châu Đôi mắt biếc, đầu đội nón da hổ. Miệng cười bắn nhẹ hai mũi tên, Vạn người không thể xâm phạm. Cung giương như vành trăng thuận theo tầm mắt di chuyển, Chim nhạn trắng rớt từ trên mây xuống ngay. Song song với nhịp roi ngựa Đi săn hướng đến đất Lâu Lan, Ra cửa là không quay đầu nhìn lại. Trả nợ nước nếu phải chết thì đã sao? Đất Hung Nô phân chia năm vua (Thiền Vu) Người dữ như sói, tham bạo hung tàn Trâu ngựa phanh thây ở hồ Bắc hải, Ăn tươi nuốt sống như cọp. Tuy họ ở núi Yên Chi, Nhưng lại không sợ giá tuyết. Phụ nữ vừa cưỡi ngựa vừa cười, Nét mặt tươi như đá ngọc đỏ. Cưỡi ngựa như bay bắn dã thú, Trăng hoa say yên ngựa. Sao Mão phát sáng bốn phía, Chiến tranh dữ như ong. Thanh đao sáng vẩy đầy máu đỏ Cát trôi cũng nhuộm màu chu sa. Từ xưa đến nay ai là danh tướng, Than vì thấy binh lính mệt nhọc. Khi nào giết được hết bọn lang sói Hung Nô? Lúc ấy tướng sĩ, cha con ắt được an nhàn.
Các bản dịch thơ:
Bài ca khách cưỡi ngựa Hồ ở U Châu
Khách U Châu ruỗi ngựa, Nón da hổ, mắt xanh. Miệng cười, tên phát lẹ Vạn người không dám tranh. Cung căng theo ánh mắt, Nhạn trắng lìa mây nhanh. Nối nhịp cùng roi ngựa Đi săn hướng Lâu Lan. Một đi không ngoảnh lại, Nợ nước chết cũng đành. Hung nô chia năm vua, Người như sói, bạo hành. Bắc Hải dìm trâu, ngựa Ăn sống giống cọp tranh. Núi Yên Chi sinh sống Chẳng sợ tuyết bao quanh. Nữ nhân cười trên ngựa, Mặt ngọc rạng nét xinh. Cưỡi ngựa bắn dã thú, Trên yên say trăng mành. Sao Mão chớp bốn phía, Giặc như ong, chiến tranh! Đao sáng nhòe máu đỏ, Cát trôi màu chu sa. Xưa nay ai danh tướng? Binh nhọc tự than mình. Giặc thù bao giờ hết? Cha, con được yên lành.
Bản diệt: Ngao_0p
1. Lâu Lan: tên một nước nhỏ ở Tân Cương thời xưa, nay đã mất. 2. Thiền Vu: Vua của Hung Nô gọi là Thiền Vu. Vua Hưu Chu của Hung Nô mất, các đại thần trong giòng tộc tranh giành nhau tự lập chia ra năm xứ, mỗi xứ một vua đánh nhau rất nhiều trận, số người chết không kể xiết. Xưa người Tàu gọi chung người Hung nô là Thiên Kiêu. 3. Bắc Hải: tên một hồ ở xứ Hung Nô. 4. Mao đầu: Sao Mão. Một sao trong nhị thập bát tú, ứng phương với người Hồ. Theo kinh nghiệm người Tàu, mỗi khi người Hung Nô động binh thì sao Mão lại lóe lên.
Phất bỉ bạch thạch, Đạn ngô tố cầm. U giản thiểu hề lưu tuyền thâm, Thiện thủ minh huy cao trương thanh. Tâm tịch lịch tự thiên cổ, Tùng sưu lưu hề vạn tầm. Trung kiến sầu viên điếu ảnh nhi nguy xử hề, Khiếu thu mộc nhi trường ngâm. Khách hữu ai thì thất chức nhi thính giả , Lệ lâm lãng dĩ niêm khâm. Nãi tập thương chuế vũ, Sàn viên thành âm. Ngô đãn tả thanh phát tình vu diệu chỉ, Thù bất tri thử khúc chi cổ kim U giản tuyền, Minh thâm lâm.
Dịch nghĩa:
Khe suối lặng lẽ
Bổ sung sau
Các bản dịch thơ:
Khe suối lặng lẽ
Đá trắng kia phẩy, đàn hay lựa dây. Khe vắng buồng xối, nước sâu thay Tay lẩy vẻ trắng, sáng trong lòng này. Nghìn xưa từng vắng lặng, Vù vù gió thông muôn tầm cây. Nhìn đám vượn buồn bóng treo cao gào hú hề, Réo cây thu mà ngân dài. Khách buồn mất chức nghe chăng nhỉ, Vạt áo kia đầm đìa lệ rơi. Vá cung Thương, khâu cung Vũ, Nước chảy thành âm thanh đầy vơi. Ta cũng sinh tình tả tiếng thần gợi diệu, Nào biết khúc mới hay xưa rồi. Suối khe lạnh lẽ, Rừng sâu cất lời.
Tiêu thanh yết Tần Nga[1] mộng đoạn Tần lâu nguyệt Tần lâu nguyệt Niên niên liễu sắc Bá Lăng[2] thương biệt Lạc du nguyên thượng thanh thu tiết Hàm Dương cổ đạo[3] âm trần tuyệt Âm trần tuyệt Tây phong tàn chiếu Hán gia lăng khuyết.
Dịch nghĩa:
Ức Tần Nga
Tiếng tiêu dứt Nàng Tần Nga tỉnh mộng dưới ánh trăng lầu Tần Trăng lầu Tần Mỗi năm liễu lại xanh Nhớ lần chia biệt nơi cầu Bá Lăng Trong tiết trời thu dạo chơi trên thảo nguyên Nhìn về đường cũ Hàm Dương không thấy tin tức Không tin tức Gió Tây thổi qua nắng chiều tà Qua cung điện xưa nhà Hán
Các bản dịch thơ:
Ức Tần Nga
Tiêu bặt tiếng Tần Nga tỉnh mộng Tần lâu nguyệt Tần lâu nguyệt Mỗi năm liễu thắm Bá Lăng[2] tiễn biệt Thả bước dạo chơi thu trong mát Hàm Dương lối cũ không tin nhạn Không tin nhạn Nắng gió xiên xiên Lâu đài nhà Hán.
Bản dịch: Nam Trân.
1. Tần Nga: con gái Tần Mục Công, tên Lộng Ngọc. 2. Bá Lăng: tên một cây cầu, nằm ở phía đông cách thành Trường An khoảng 70 dặm. Người Hán thường chia tay, bẻ liễu từ biệt nơi cây cầu đó. 3. Hàm Dương cổ đạo: hay còn gọi là Trường An đạo, đường Trường An. Xưa là đường kinh thương trọng yếu.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Tue Jan 10, 2012 9:59 am
Văn Vương Xương Linh tả thiên Long Tiêu dao hữu thử ký
Nguyên tác chữ Hán:
聞王昌齡左遷龍標遙有此寄
杨花落尽子规啼, 闻道龙标过五溪。 我寄愁心与明月, 随风直到夜郎西。
Phiên âm:
Văn Vương Xương Linh tả thiên Long Tiêu dao hữu thử ký
Dương hoa lạc tận Tử quy[1] đề, Văn đạo Long Tiêu[2] quá ngũ khê. Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt, Tùy quân trực đáo Dạ Lang[3] tê (tây).
Dịch nghĩa:
Từ nơi xa gửi tới Vương Xương Linh, khi nghe bị giáng chức đổi đi Long Tiêu
Hoa dương tàn tạ, tiếng cuốc kêu, Nghe nói đường đi Long Tiêu phải qua năm suối. Ta gửi lòng buồn cùng với vầng trăng tỏ, Theo bác tới mãi phía tây Dạ Lang.
Các bản dịch thơ:
Từ nơi xa gửi tới Vương Xương Linh, khi nghe bị giáng chức đổi đi Long Tiêu
Hoa dương rụng, cuốc buồn ghê, Long Tiêu nghe nói vượt khe năm dòng. Tấm sầu với mảnh trăng trong, Gửi theo tiễn bác tới vùng Dạ Lang.
Bản dịch: Tương Như.
1. Tử quy: Còn gọi là chim đỗ quyên, con cuốc. 2. Thuộc huyện Kiểm Dương tỉnh Hồ Nam ngày nay. 3. Một nước thời xưa, ở phía tây Quý Châu ngày nay.
Viễn biệt ly, Cổ hữu Hoàng, Anh chi nhị nữ, Nãi tại Động Đình chi nam, Tiêu Tương chi phố. Hải thuỷ trực hạ vạn lý thâm, Thùy nhân bất ngôn thử ly khổ. Nhật thảm thảm hề vân minh minh, Tinh tinh đề yên hề quỷ khiếu vũ. Ngã túng ngôn chi tương hà bổ, Hoàng khung thiết khủng bất chiếu dư chi trung thành. Vân bằng bằng hề dục hống nộ, Nghiêu Thuấn đương chi diệc thiện Vũ. Quân thất thần hề long vi ngư, Quyền quy thần hề thử biến hổ. Hoặc ngôn Nghiêu U tù, Thuấn dã tử, Cửu Nghi liên miên giai tương tự, Trọng đồng cô phần cánh hà thị. Đế tử khấp hề lục vân gian, Tùy phong ba hề khứ vô hoàn. Động khốc hề viễn vọng, Kiến Thương Ngô chi thâm sơn. Thương Ngô sơn băng Tương thuỷ tuyệt, Trúc thượng chi lệ nãi khả diệt.
Dịch nghĩa:
Xa cách lâu
Chia tay dài, Xưa có hai người con gái tên Hoàng, Anh. Ở phía nam hồ Động Đình, trên bến Tiêu Tương Nước biển thẳng xuống sâu vạn dặm, Ai là người chẳng nói cuộc chia lìa này khổ. Ngày rầu rĩ, tối tăm Vượn kêu trong khói sương, quỷ gào trong mưa. Ta có nói quá cũng chẳng sao Chốn cung điện trộm sợ không soi thấy lòng trung thành của ta Sóng âm âm muốn gầm giận Nghiêu, Thuấn đang làm vua cũng muốn nhừng cho vua Vũ Vua mà mất bề tôi, rồng thành cá, Quyền lực vào tay bề tôi, chuột biến thành hổ. Hoặc nói vua Nghiêu tù ở châu U, vua Thuấn chết ngoài đồng. Chốn Cửu Nghi dằng dặc vẫn thế Giương mắt nhìn mộ lẻ đang ở đâu? Vua ngồi khóc trong cõi mây, Theo gió sáng không trở lại Khóc rống nhìn ra xa Thấy núi thẳm ở Thương Ngô. Dù nước Thương Ngô sụt lở, nước sông Tương cạn khô, Nước mắt trên trúc cũng khó mà mất được.
Các bản dịch thơ:
Xa cách lâu
Chia tay dài, Xưa Hoàng, Anh hai cô gái, Ở bến Tiêu Tương, nam Động Đình, Nước biển đổ xuống sâu dặm ngàn, Ai người chẳng nói chia ly khổ. Ngày mờ mịt (hề) tối tăm, Quỷ khóc mưa (hề) tinh gào sương, Ta nói quá ư, xin chớ giận, Hoàng cung đâu rõ lòng trung thành! Sấm âm ầm (hề) gầ giận dữ, Nghêu Thuấn đang ngồi, Vũ được truyền. Vua mất bề tôi, rồng hoá cá, Quyền lớn, bề tôi chuột thành hổ. Hoặc nói Thuấn chết, châu U, Nghêu ngồi tù Chín ngờ liên miên lâu mới tỏ. Mổ lẻ ở đâu, giương mắt tìm. Vua cũng khóc (hề) trong mây xanh, Sóng gió cuốn (hề) đi mất tăm. Khóc lớn (hề) nhìn ra, Núi Thương Ngô thăm thẳm. Thương Ngô nước hết, sương thôi đọng, Nước mắt còn hằn lên sử xanh.
Bản dịch: Ngô Văn Phú
1. Hoàng, Anh: tức hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh. Con vua Nghiêu vợ của vua Thuấn. Vua Thuấn đi tuần phương Nam, hai bà đi theo bị chết đuối trên sông Tương.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Tue Jan 10, 2012 3:25 pm
Việt Nữ Từ ngủ thủ - kỳ 1
Nguyên tác chữ Hán:
越女词五首 其一
长干吴儿女, 眉目艳星月。 屐上足如霜, 不着鸦头袜。
Phiên âm:
Việt Nữ từ - Kỳ 1
Trường Can Ngô nhân nữ, Mi mục diễm tinh nguyệt. Kịch thượng túc như sương, Bất trứ nha đầu miệt.
Dịch nghĩa:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 1
Cô gái Ngô ở Trường Can Chân mày, khóe mắt sáng đẹp tựa trăng, sao. Chân mang đôi guốc mộc (trắng) như sương tuyết (Đi) hai chân đều khớp nhau (như không tiếp xúc với mặt đất).
Các bản dịch thơ:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 1
I
Gái Ngô ở Trường Can, Mày, mắt sáng linh lan. Guốc mộc khua sương khói Chân bước, đất mơ màng.
II
Gái Ngô ở đất Trường Can, Chân mày, khóe mắt rỡ ràng sao, trăng. Guốc nàng khẽ động sương giăng, Gót hồng tha thướt phải chăng tiên trời!
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Tue Jan 10, 2012 4:25 pm
Việt Nữ từ ngủ thủ - kỳ 2
Nguyên tác chữ Hán:
越女词五首 其二
吴儿多白皙, 好为荡舟剧。 卖眼掷春心, 折花调行客。
Phiên âm:
Việt Nữ từ - Kỳ 2[*]
Ngô nhân đa bạch tích, Hảo vi đãng chu kịch. Mại nhãn trịch xuân tâm, Chiết hoa điều hành khách.
Dịch nghĩa:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 2
Da của người Ngô thì trắng nhiều Vui quá con thuyền bị quấy động mạnh. Mắt đẹp (làm cho tất cả người ngắm) quên mất hồn xuân, Bẻ sen (che lại) để khách trên thuyền ngồi yên.
Các bản dịch thơ:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 2
Người Ngô da sắc trắng, Mãi vui thuyền nghiêng nặng. Mắt ngọc át hồn xuân, Hoa che, khách thinh lặng.
Bản diệt : Ngao_0p
*: Lý Bạch đi thuyền trên sông Chiết Giang, thấy nhiều nam nhân trên thuyền bàn tán, so sánh xem các cô gái đang đập vải trên sông coi da cô nào trắng hơn. Chuyện vui quá nên thuyền bị dao động mạnh. Các cô gái phát hiện ra e thẹn nên hái lá sen che mặt, đây cũng là cách để khách trên thuyền ổn định lại.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Tue Jan 10, 2012 4:51 pm
Việt Nữ từ ngủ thủ - kỳ 3
Nguyên tác chữ Hán:
越女词五首 其三
耶溪采莲女, 见客棹歌回。 笑入荷花去, 佯羞不出来。
Phiên âm:
Việt Nữ từ - Kỳ 3[*]
Da khê thái liên nữ Kiến khách trạo ca hồi Tiếu nhập hà hoa khứ Dương tu bất xuất lai.
Dịch nghĩa:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 3
Cô gái hái sen bên khe suối Nhược Da, Nhìn thấy người lạ quay mặt hát rồi đi trốn. Cô cười cười núp sau đám hoa sen, thẹn thùng không dám ra lại.
Các bản dịch thơ:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 3
Hái sen cô gái Nhược Da, Gặp khách sao lại ngưng ca, quay thuyền. Trong hoa nhoẻn nụ cười duyên, Thẹn thùng chi chẳng ra miền nước trong.
Bản diệt : Ngao_0p
*: Nghe tiếng cười, hát của cô gái hái sen ở khe Nhược Da, Lý Bạch đang ngâm thơ trên thuyền nhìn ra thấy một chiếc thuyền nhỏ (xuồng) đang bơi. Người trên thuyền thấy Lý Bạch vội chống sào đẩy thuyền của cô ta trốn vào đám hoa sen dày đặc. Cô nàng giả bộ e thẹn không chịu cho thuyền ra.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Wed Jan 11, 2012 10:37 am
Việt Nữ từ ngủ thủ - kỳ 4
Nguyên tác chữ Hán:
越女词五首 其四
东阳素足女, 会稽素舸郎。 相看月未堕, 白地断肝肠。
Phiên âm:
Việt Nữ từ - Kỳ 4[*]
Đông dương tố túc nữ, Hội kê tố khả lang. Tương khán nguyệt vị đọa, Bạch địa đoạn can tràng
Dịch nghĩa:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 4
Chân nàng trắng nõn khiến trời đông tươi hẵn, Gặp dịp đến chiếc thuyền mộc mạc của chàng. Cùng xem ánh trăng vương vãi Mặt đất sáng khiến người ta đứt cả ruột gan.
Các bản dịch thơ:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 4
Chân nàng trắng, trời Đông rực hẵn, Lên thuyền chàng lòng chẳng phân vân. Cùng xem trăng vãi xa gần, Chia tay soi đất đứt từng ruột gan.
Bản diệt : Ngao_0p
*: Trời đông huyền ảo khi trông thấy đôi chân trắng nõn của nàng. Gặp dịp nàng vui vẻ quay thuyền nhỏ lại để lên chiếc thuyền mộc mạc của chàng. Tình nói không hết lời, nhìn nhau say đắm. Bốn mắt không rời nhau, hận không thể cưỡi được ngựa đến thăm nhà nàng khi đêm tối chưa tới. Ánh trăng cứ vương vãi mãi dưới núi, ánh sáng như những hạt li ti chìm đắm ...
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Wed Jan 11, 2012 10:57 am
Việt Nữ từ ngủ thủ - kỳ 5
Nguyên tác chữ Hán:
越女词五首 其五
镜湖水如月, 耶溪女如雪。 新妆荡新波, 光景两奇绝。
Phiên âm:
Việt Nữ từ - Kỳ 5[*]
Kính hồ thủy như nguyệt, Da khê nữ như tuyết. Tân trang đãng tân ba, Quang cảnh lưỡng kì tuyệt.
Dịch nghĩa:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 5
Mặt hồ gương nước trong, sáng như ánh trăng, Các cô gái ở Nhược Da trắng như tuyết. Các cô mới trang điểm (đứng) dưới ánh trăng mới lên chiếu trên sóng Khung cảnh người và thiên nhiên thật là tuyệt vời.
Các bản dịch thơ:
Khúc hát về người con gái đất Việt - Kỳ 5
Nước như trăng, hồ như gương, Nhược Da thôn nữ tuyết sương trắng ngần. Điểm trang sóng sánh trăng ngân Cảnh, người, người, cảnh muôn phần như tranh.
Bản diệt : Ngao_0p
*: Mặt hồ như gương, nước hồ sáng đẹp như ánh trăng. Các cô gái ở thôn Nhược Da, da trắng tựa tuyết sương. Các cô mới trang điểm xong, y phục của các cô nói lên sự hiểu biết của mình. Nước hồ sóng sánh dưới bóng trăng vừa lên khiến mặt hồ rực rỡ. Phong cảnh thật là kì diệu, đẹp như một bức tranh.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Wed Jan 11, 2012 2:54 pm
Việt trung lãm cổ
Nguyên tác chữ Hán:
越中覽古
越王勾践破吴归, 战士还家尽锦衣。 宫女如花满春殿, 只今惟有鹧鸪飞。
Phiên âm:
Việt trung lãm cổ
Việt vương Câu Tiển phá Ngô quy, Nghĩa sĩ hoàn gia tận cẩm y. Cung nữ như hoa mãn xuân điện, Chỉ kim duy hữu giá cô phi.[1]
Dịch nghĩa:
Ở nước Việt xem tích xưa
Vua Việt Câu Tiễn đánh nước Ngô (thắng trận) trở về, Các nghĩa sĩ về nhà tất cả đều mặc áo gấm. Cung nữ cười tươi như hoa đứng đấy điện. Nay chỉ thấy nơi này chim giá cô bay.
Các bản dịch thơ:
Ở nước Việt xem tích xưa
Việt Vương Câu Tiễn diệt Ngô về, Áo gấm ấm lòng binh sĩ mê. Cung nữ hân hoan chờ khắp điện, Giờ còn Chim Ngói thoảng bay chơi.
Bản diệt : Ngao_0p
1. Giá cô: chim đa đa, chim ngói, gà gô. Mình nó to như chim cưu, đỉnh đầu màu tía, lưng xám tro, mỏ đỏ, bụng vàng, chân đỏ thẫm, đậu thành đàn trên đất, làm tổ trong hang hốc đất.
Ngụy đế[1] doanh bát cực, Nghĩ quan nhất Nễ Hành.[2] Hoàng Tổ[3] đẩu sao nhân, Sát chi thụ ác danh. Ngô giang phú Anh Vũ, Lạc bút siêu quần anh. Thương thương chấn kim ngọc, Cú cú dục phi minh. Chí ngạc[4] trác cô phượng, Thiên xuân thương ngã tình. Ngũ nhạc[5] khởi phương thốn, Ẩn nhiên cự khả bình. Tài cao cánh hà thi, Quả thức mạo thiên hình. Chí kim phương châu thượng, Lan huệ bất nhẫn sanh.
Dịch nghĩa:
Trông bãi Anh Vũ nhớ Nễ Hành
Ngụy đế uy danh vượt tám cõi, So với Nễ Hành chỉ là con kiến. Hoàng Tổ khí cục hèn mọn, Giết (Nễ Hành) chi để mang tiếng ác Phú Ngô giang giải bày nổi lòng Anh Vũ, Hạ bút vượt tất cả anh tài. Từng tiếng khua động vàng ngọc, Từng câu thánh thoát tiếng chim ngân. Chim Chí ngạc (Thư cưu) mổ con Phượng hoàng lẻ loi, Chuyện ngàn xưa làm đau đớn tình ta. Núi Ngũ Nhạc nổi lên ở phương trời cụt Đã ở ẩn há được bình yên. Tài năng hơn tất cả sao lại bị bêu xác, Sự kém hiểu biết (dốt, chỉ Hoàng Tổ) nên chẳng sợ trời phạt. Đến nay cỏ thơm đã mọc dày trên bãi, Hoa lan, hoa huệ không nỡ mọc lên.
Các bản dịch thơ:
Trông bãi Anh Vũ nhớ Nễ Hành
Vua Ngụy danh tám cõi, Nhưng bé trước Nễ Hành. Hoàng Tổ khí hèn mọn, Giết hiền, mang ác danh. Phú sông Ngô, Anh Vũ Bút thần vượt tài anh. Lời rung vàng động ngọc, Câu thánh thót chim xanh. Chí Ngạc hùa cắn Phượng, Chuyện ngàn năm nát lòng. Ngũ Nhạc trồi phương hẫng, Ở ẩn chẳng yên bình. Hơn đời lại bêu xác Ngu dốt tất trời hành. Nay bãi xanh hương cỏ, Huệ, Lan không nỡ dành.
Bản diệt : Ngao_0p
1. Ngụy đế: chỉ Tào Tháo. Tuy nhiên lúc Tào Tháo gặp Nễ Hành thì Tào Tháo vẫn còn là Thừa tướng nhà Hán chứ chưa xưng Ngụy đế. 2. Nễ Hành: Sống thời Tam quốc, người Bình Nguyên tự Chính Bình là một danh sĩ ở ẩn. Khổng Dung tự Văn Cử (mưu sĩ của Tào Tháo) là bạn thân của Nễ Hành đã tiến cử ông. Nhưng khi gặp Tào Tháo, Nễ Hành tính vốn ngông nghênh đã không xem Tháo ra gì, Tháo muốn giết nhưng lại sợ mang tiếng bèn đẩy Nễ Hành đến Kinh Châu gặp Lưu Biểu với danh nghĩa dụ hàng. Lưu Biểu biết ý Tháo muốn "mượn đao giết người" liền bảo Nễ Hành sang Giang Hạ gặp Hoàng Tổ. Hoàng Tổ lòng dạ hẹp hòi, khi uống rượu nói chuyện với Nễ Hành đã nổi giận giết ông ngay. Lưu Biểu thương xót, cho người lấy xác Nễ Hành về chôn ở bãi Anh Vũ. 3. Hoàng Tổ: người thời Tam Quốc, trấn thủ Giang Hạ. Vì hẹp hòi khi bị Nễ Hành gọi y là: "Tượng thần trong miếu" (ám chỉ vô dụng), y liền giết Nễ Hành, rồi bêu xác. 4. Chí ngạc: tên một loài chim, còn gọi là Thư cưu. 5. Ngũ Nhạc: tên núi, có 5 ngọn: Tung Sơn, Thái Sơn, Hoa Sơn, Hành Sơn, Hằng Sơn.
Xuất môn kiến Nam sơn, Dẫn lĩnh ý vô hạn. Tú sắc nan vi danh, Thương thúy nhật tại nhãn. Hữu thì bạch vân khởi, Thiên tế tự thư quyển. Tâm trung dữ chi nhiên, Thác hưng mỗi bất thiển. Hà đương tạo u nhân, Diệt tích thê tuyệt nghiễn.
Dịch nghĩa:
Ngắm núi Chung Nam gởi ẩn giả Tử Các
Ra cửa gặp ngay núi Nam sơn, Ý tưởng đến (với ta) không ngừng. Cái tên không nói lên hết được vẻ đẹp, Núi, cỏ xanh biêng biếc chói lòa ánh mặt trời. Có lúc mây trắng đùn đến từng mảng, Trời bỗng như mở ra những khoảng riêng. Tâm nằm ở trong chốn tự nhiên, Nâng cao hứng như không bao giờ cạn. Cảnh như thế sao lại có người ở ần Đến nơi dừng chân cũng xóa vết tích trên núi cao.
Các bản dịch thơ:
Ngắm núi Chung Nam gởi ẩn giả Tử Các
Ra cửa thấy Nam sơn, Dâng triền miên ý tưởng. Cảnh đẹp không cần tên, Núi trùng biếc, nhòa mắt. Mây trắng chợt đùn lên, Trời riêng mở từng khoảng. Tâm nằm ở tự nhiên, Lòng miên mang cao hứng. Cảnh vầy, đâu người tiên Chân nào núi xóa vết?
Tích tại Cửu giang thượng,[2] Dao vọng Cửu Hoa phong.[3] Thiên hà quải lục thủy, Tú xuất cửu phù dung. Ngã dục nhất huy thủ, Thùy nhân khả tương tòng. Quân vi Đông đạo chủ, Vu thử ngọa vân tùng.
Dịch nghĩa:
Ngắm núi Cửu Hoa tặng huyệnh lệnh Thanh Dương Vi Trọng Kham
Chuyện xưa trên sông Cửu giang, Xa trông thấy chín ngọn núi Cửu Hoa Sông trời treo dòng nước biếc, Cảnh đẹp sinh ra chín đóa phù dung. Ta muốn đưa tay ra vẫy, Ai là người sẽ đến cùng đây. Ông là chủ phương Đông Đến đấy ở ẩn dưới cây tùng.
Các bản dịch thơ:
Ngắm núi Cửu Hoa tặng huyệnh lệnh Thanh Dương Vi Trọng Kham
Trên Cửu Giang xưa trước, Chín ngọn hoa ngước trông. Sông trời treo nước biếc, Nở chín đóa phù dung. Ta muốn hua tay vẫy, Ai người ưng tới cùng. Bác làm Đông đạo chủ, Ở đấy ngọa mây tùng.
Bản dịch: Đông A
1. Vi Trọng Kham: bạn thân của Lý Bạch làm huyện lệnh ở Thanh Dương. 2. Cửu giang: tức sông Trường giang. 3. Cửu hoa phong: núi Cửu hoa.
Hán Dương giang thượng liễu, Vọng khách dẫn đông chi. Thụ thụ hoa như tuyết, Phân phân loạn nhược ti. Xuân phong truyền ngã ý, Thảo mộc biệt tiền tri . Kí tạ huyền ca Tể, [2] Tây lai định vị trì.
Dịch nghĩa:
Ngắm sắc liễu ở Hán Dương gởi Vương Tể
Sông Hán Dương hai bên bờ liễu mọc, Trông khách cành vươn về phía Đông. Hoa nở như tuyết trên các cây, (Hoa rơi) bay loạn như tơ. Gió xuân truyền đạt ý nghĩa của ta, Sự chia tay cỏ cây đà biết trước. Gởi bài ca tạ từ đến Vương Tể, Định ngày về Tây sao cho đừng muộn.
Các bản dịch thơ:
Ngắm sắc liễu ở Hán Dương gởi Vương Tể
Sông Hán Dương đầy liễu, Trông khách cành hướng đông. Cây dầy hoa tựa tuyết, Như tơ bay loạn vòng. Ý ta gió xuân giúp, Cây cỏ buồn đợi mong. Từ tạ ca gởi Tể, Về Tây có muộn không?
Bản diệt: Ngao_0p
1. Vương Tể: họa gia nổi tiếng đời Đường. Ông người Tứ Xuyên chuyên vẽ tranh sơn thủy và cảnh vật thiên nhiên. 2. Nói về chữ "tạ huyền": thấy có nhiều bạn dịch cho đây là tên của một danh tướng " Tạ Huyền", cháu của Tạ An ở thời Đông Tấn của nước Tàu, nổi tiếng với trận Phì Thủy nhưng nhìn tới nhìn lui thì không thấy giữa " Tạ Huyền ca" (bài ca nào không rõ, nếu là bài ca về cuộc chiến Phì Thủy thì càng không hợp với một họa gia như Vương Tể) và Vương Tể có gì tương đồng. Với lại trong " Bát đẩu thi từ đại khố" (八斗诗词大库) giải thích câu này rằng: 寄首诗歌感谢你这个清净无为的弦歌县官,西来的时间确定了吗? (td: Gởi đến ông bài ca tạm biệt thanh tịnh vô vi, bài ca từ quan. Khi (ông) về Tây thời gian có kịp không? -- Vài dòng mong được cao nhân chỉ điểm thêm, đa tạ! N_0 --
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Fri Jan 13, 2012 10:48 am
Vọng Lư sơn bộc bố
Nguyên tác chữ Hán:
望庐山瀑布
日照香炉生紫烟, 遥看瀑布挂前川。 飞流直下三千尺, 疑是银河落九天。
Phiên âm:
Vọng Lư sơn bộc bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên, Dao khan bộc bố quải tiền xuyên. Phi lưu trực há tam thiên xích, Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa:
Xa ngắm thác núi Lư
Ánh nắng chiếu rọi trên sông Hương Lô sinh ra khói tía Từ xa ngắm cảnh thác núi treo trước con sông này. Thác nước chảy như bay xuống từ ba ngìn trượng Ngỡ như là dải Ngân Hà lạc khỏi chín tầng mây.
Các bản dịch thơ:
Xa ngắm thác núi Lư
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Xa trông dòng thác trước sông này: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Fri Jan 13, 2012 4:14 pm
Vọng Thiên Môn sơn
Nguyên tác chữ Hán:
望天門山
天门中断楚江开, 碧水东流至此回。 两岸青山相对出, 孤帆一片日边来。
Phiên âm:
Vọng Thiên Môn sơn
Thiên Môn trung đoạn Sở giang khai, Bích thủy đông lưu chí thử hồi. Lưỡng ngạn thanh sơn tương đối xuất, Cô phàm nhất phiến nhật biên lai.
Dịch nghĩa:
Ngắm núi Thiên Môn
Núi Thiên Môn đứt đoạn ở giữa, sông Sở mở ra, Dòng nước biếc chảy về đông đến đây quay trở lại. Hai bên bờ núi xanh dựng đối nhau, Một cánh buồm lẻ loi như đến từ phía mặt trời.
Các bản dịch thơ:
Ngắm núi Thiên Môn
Thiên Môn cắt giữa Sở Giang trôi, Nước biếc xuôi đông quay lại rồi. Sừng sững hai bờ xanh núi dựng, Cánh buồm đâu dạt tựa bên trời.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Mon Jan 16, 2012 2:33 pm
Vĩnh Vương Đông Tuần Ca thập nhất thủ - Kỳ 1
Nguyên tác chữ Hán:
永王东巡歌 其一
永王正月东出师, 天子遥分龙虎旗。 楼船一举风波静, 江汉翻为燕鹜池。
Phiên âm:
Vĩnh Vương Đông Tuần Ca - Kỳ 1 [1]
Vĩnh Vương chánh nguyệt đông xuất sư, Thiên tử dao phân Long hổ kì. Lâu thuyền nhất cử phong ba tĩnh, Giang Hán[2] phiên vi Yến Vụ[3] trì.
Dịch nghĩa:
Bài ca Vĩnh Vương đi tuần phương Đông
Tháng giêng Vĩnh Vương rời kinh đi tuần về phía Đông, Thiên Tử từ xa ban cho cờ Long hổ. Thuyền lầu đi đến đâu là nơi đó sóng yên gió lặng, Sông Giang Hán tạo lại ao Yến Vụ.
Các bản dịch thơ:
Bài ca Vĩnh Vương đi tuần phương Đông
Tháng Giêng, Vĩnh Vương đi tuần đông, Thiên tử xa ban cờ Cọp Rồng. Sóng gió lặng yên thuyền thẳng tiến, Sửa ao Yến Vụ đẹp lòng sông.
Bản diệt: Ngao_0p
1. Khoảng năm 755, An Lộc Sơn khởi binh làm loạn, chiếm hai kinh, vua Huyền Tông phải chạy vào đất Thục lánh nạn, nhường ngôi cho con là Lý Hanh làm vua (Túc Tông) lo chuyện đánh dẹp. Lại sai con thứ 16 là Vĩnh vương Lý Lân tuần tiễu trên sông Trường Giang để chống giặc. Vĩnh Vương mời Lý Bạch làm việc trong bộ tham mưu. Ông nhận lời (sau này Lý Lân làm phản, bị giết chết, còn Lý Bạch cũng suýt bị tử hình), và trong thời gian theo quân, ông đã làm 11 bài thơ về đề tài này. 2. Giang Hán: khúc sông nơi giao nhau giữa Trường Giang và sông Hán Thủy. 3. Yến Vụ: ao do Lương Hiếu Vương xây dụng, chu vi khoảng 4 dặm, bình thời là nơi vui chơi thư giản của ông.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Mon Jan 16, 2012 4:55 pm
Vĩnh Vương Đông Tuần Ca thập nhất thủ - Kỳ 2
Nguyên tác chữ Hán:
永王东巡歌 其二
三川北虏乱如麻, 四海南奔似永嘉。 但用东山谢安石, 为君谈笑静胡沙。
Phiên âm:
Vĩnh Vương Đông Tuần Ca - Kỳ 2
Tam xuyên[1] Bắc lỗ[2] loạn như ma, Tứ hải nam bôn tự Vĩnh Gia.[3] Đãn dụng Đông sơn Tạ An Thạch,[4] Vị quân đàm tiếu tĩnh Hồ sa.
Dịch nghĩa:
Bài ca Vĩnh Vương đi tuần phương Đông - Kỳ 2
Giặc Bắc tràn vào Tam Xuyên (Lạc Dương) loạn như gai mọc, (tựa yêu ma) Khắp chốn bỏ cửa thành Nam chạy giặc giống thời Vĩnh Gia. Giá (như ta) được dùng như Tạ An Thạch ở Đông Sơn, Vì Vua sẽ dẹp loạn cát bụi giặc Hồ.
Các bản dịch thơ:
Bài ca Vĩnh Vương đi tuần phương Đông - Kỳ 2
Tam Xuyên giặc tràn loạn yêu ma, Người trốn thành Nam ngỡ Vĩnh Gia. Như Tạ Đông Sơn, chừng có thể, Vì Vua, ta quét cát Hồ ra.
Bản diệt: Ngao_0p
1. Tam Xuyên: tức Lạc Dương có ba con sông lớn là: Hoàng Hà, Lạc Hà và Y Hà. 2. Bắc lỗ: chỉ quân của An Lộc Sơn. 3. Vĩnh Gia: Năm Vĩnh Gia thứ 5 nhà Tây Tấn (311). Vua của nước Hán Triệu là Lưu Thông (Vũ Đế) sai con mình là Lưu Diệu tấn công thành Lạc Dương. Lạc Dương thất thủ, lính Hán Triệu phá được cửa Nam tiến vào giết chết hơn ba vạn quân dân Lạc dương. Thiên hạ chạy loạn táo tác. Câu này Lý Bạch so sánh vào thời điểm quân An Lộc Sơn vào thành Lạc Dương cũng giống như cuộc chiến loạn thời Vĩnh Gia. 4. Tạ An (320 - 385) hiệu là An Thạch, sống vào đời Đông Tấn. Thời trẻ ông từng là nhân sĩ, sau đó ở ẩn suốt 16 năm ở Đông Sơn, năm 40 tuổi được mời mãi mới ra giữ chức Thừa tướng, xây dựng chính sách an dân "Trấn chi dĩ tĩnh" giữ cho nhà Đông Tấn cục diện yên ổn trong nhiều năm. Về sau công danh ông lớn quá khiến nhà Vua nghi kỵ, Tạ An phải lánh sang Nghiêm Lăng lánh nạn. Ông mất vì bệnh
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Mon Feb 13, 2012 4:08 pm
Vĩnh Vương Đông Tuần Ca thập nhất thủ - Kỳ 3
Nguyên tác chữ Hán:
永王东巡歌 其三
雷鼓嘈嘈喧武昌, 云旗猎猎过寻阳。 秋毫不犯三吴悦, 春日遥看五色光。
Phiên âm:
Vĩnh Vương Đông Tuần Ca - Kỳ 3
Lôi cổ tào tào huyên Vũ Xương, Vân kì liệp liệp quá Tầm Dương. Thu hào bất phạm Tam Ngô[1] duyệt, Xuân nhật dao khan ngũ sắc quang.
Dịch nghĩa:
Bài ca Vĩnh Vương đi tuần phương Đông - Kỳ 3
Tiếng trống như sấm sét inh ỏi náo động đất Vũ Xương Cờ mây phấp phới vượt bến Tầm Dương. Chồi non chẳng phạm đến vẽ đẹp của Tam Ngô, Ngày xuân từ xa nhìn thấy năm sắc rực rỡ.
Các bản dịch thơ:
Bài ca Vĩnh Vương đi tuần phương Đông - Kỳ 3
Trống nổi thùng thùng náo Vũ Xương, Cờ mây phấp phới vượt Tầm Dương. Chồi non đâu ẩn Tam Ngô đẹp, Năm sắc xa trông dưới ánh xuân.
Bản diệt: Ngao_0p
1. Tam Ngô: chỉ chung đất Ngô Ở câu này có chữ Thu hào (秋毫) thật là mắc dịch, đành diệt luôn. Có ai biết về điển tích hay những gì liên quan đến 2 chữ này xin chỉ giáo để rõ thêm!
Rồng chầu hổ phục ở châu của bậc đế vương, Vĩnh vương ở Kim Lăng đến tận thành Cố Khâu xem. Gió xuân đua nhau làm ấm điện Chiêu Dương Ánh trăng sáng xoay vần soi quá lầu Điểu Thước.
Các bản dịch thơ:
Bài ca Vĩnh Vương đi tuần phương Đông - Kỳ 4
Bs sau
Bản diệt: Ngao_0p
1. Long bàn hổ cứ: rồng chầu hổ phục (Chung sơn long bàn, thạch đầu hổ cứ). Theo các sách xưa Kim Lăng luôn là nơi ở của các bậc đế vương. 2. Đế tử: chỉ Vĩnh vương Lý Lân. 3. Cố Khâu: Thành cũ, cố đô thời Lục triều ở Kim Lăng. 4. Chiêu Dương điện: nơi ở của Thái hậu. 5. Điểu Thước lâu: lầu nổi tiếng thời Nam triều, câu này ám chỉ là Kim Lăng.