Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Mon Dec 24, 2012 10:56 am
TƯỚNG GIÁP QUA 2 CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
Tác giả: Peter Macdonald Người dịch: Nguyễn Viết Quyền-Nguyễn Đình Cao Dịch theo bản tiếng Pháp của Jean Clem và Frank Strachitz
VXTĐ: Bản này chép lại từ một số trang trên internet, không có bản gốc nên khi đọc thấy có một số đoạn khó hiểu và có đôi chỗ sai chính tả. Phần hình ảnh minh họa lấy nguồn từ một số trang trên internet
Ngao_0p Chế rượu
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Mon Dec 24, 2012 11:02 am
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Mon Dec 24, 2012 2:26 pm
Chương 1: Tuổi trẻ
Nhờ có đấu tranh bền bỉ, anh hùng, thông minh và giàu tưởng tượng để chống chọi với thiên nhiên, để thay đổi xã hội và để chiến thắng những kẻ xâm lược nước ngoài, Tổ quốc ta đã trở thành một lực lượng lớn lao và đã xây dựng nên một xã hội đầy sức sống mãnh liệt.
Võ Nguyên Giáp
Việt Nam không phải là một đất nước rộng lớn. Từ bắc chí nam, chiều dài bờ biển chạy dọc theo biển Đông khoảng 3.260 km. Chiều rộng lớn nhất ở phía bắc gần 560 km, đoạn hẹp nhất ở giữa chỉ 50 km, còn ở phía Nam đi sâu vào đất liền trên 240 km. Diện tích toàn bộ khoảng 300.000 km2. Nước Pháp lớn hơn 2 lần và dân số đông hơn 2 lần vào khoảng những năm năm mươi.
Bản đồ Việt Nam
Tỉnh Quảng Bình ở đoạn hẹp nhất của đất nước mà người xưa gọi là xứ An Nam. Ba năm trước lúc xảy ra chiến tranh thế giới, một cậu bé ra đời ngày 28 tháng 8 năm 1911 ở làng An Xá gần vĩ tuyến 17; số người xoay chuyển dòng lịch sử quả thật hiếm, nhưng cậu bé này là một trong số họ. Hiện nay trên thế giới vẫn còn một vị tướng của một đội quân nguyên thủy mà đã đánh thắng hai thế lực phương Tây: đó là Võ Nguyên Giáp.
Năm 1954, Giáp giành thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch Điện Biên Phủ, dẫn đến người Pháp rút khỏi Đông Dương, và tác động mạnh đến sự sụp đổ của những đế quốc châu Âu trước chiến tranh. Trong năm 1960, hàng chục quốc gia được thành lập ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh, làm thay đổi cơ bản liên minh chính trị thế giới. Cũng trong thời kỳ này, vị Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Võ Nguyên Giáp đã dùng vũ lực làm thất bại chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam: quốc gia mạnh nhất thế giới đã chịu thua về chính trị, quân sự và kinh tế. Mỹ phải từ bỏ một cuộc can thiệp kéo dài hơn 20 năm. Trong những năm 70, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Giáp đã tạo cơ sở cho việc thống nhất đất nước.
Nếu người ta ngạc nhiên rằng quân đội của một nước nghèo và công nghiệp chưa phát triển, có thể đánh thắng hai lực lượng quân sự hùng mạnh của thế giới, thì bản thân con người đã tạo nên phần lớn chiến công đó quả chẳng kém phần xuất sắc. Chẳng những lúc còn trẻ, ông đã tỏ ra có trí thông minh lớn và sức sống mạnh, mà sau đó ông còn thể hiện biết bao nhiêu phẩm chất đặc biệt về chỉ huy và tổ chức.
Trong nửa sau của thế kỷ 20, ông là Tổng tư lệnh suốt 30 năm liên tục trong quân đội. Xuất phát với 34 chiến sĩ, cuối cùng ông đã chỉ huy gần một triệu quân. Rõ ràng ông là một nhân vật không có ai địch nổi. Võ Nguyên Giáp đã xuất sắc trong việc kết hợp hoạt động chính trị với trách nhiệm quân sự. Ông đã chiến đấu tích cực trong hàng ngũ Đảng Cộng sản trước khi trở thành chiến sĩ. Ông là Bộ trưởng Bộ nội vụ trong Chính phủ Hồ Chí Minh đầu tiên năm 1946. Trong những năm 60 và 70 ông đảm nhiệm nhiều chức vụ Bộ trưởng, vừa là Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vừa thực hiện những nhiệm vụ khác trong Trung ương Đảng.
Cho đến ngày nay mặc dầu đã 80 tuổi, ông vẫn còn là Phó thủ tướng, được tôn kính như một nhân vật cao tuổi của Nhà nước, như một chiến sĩ lão thành trong quân đội, đối với người nước ngoài, về phương diện cá nhân ông là vị chỉ huy chính trị quân sự đạt được đỉnh cao nhất trong sự nghiệp.
Có bao nhiêu đổi thay từ đầu những năm 20 khó có thể hình dung còn cái gì của An Xá năm 1911, tuy về cơ bản làng này không có gì chuyển động trong nhiều thế kỷ. Ngoài những thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội và các tỉnh lỵ địa phương, tất cả độ vài chục triệu người, Việt Nam gồm khoảng 5.000 làng nhỏ, phần lớn ở những vùng đồng bằng cày cấy dọc hai bên con sông lớn, sông Hồng ở phía Bắc và sông Cửu Long ở phía Nam.
Những làng mạc mọc lên xung quanh một nhóm trang trại xây dựng lên gần một nguồn nước: sông, suối hoặc giếng. Đồng ruộng từ trung tâm tản ra trên cánh đồng. Sống chung quanh trang trại là những người làm công theo yêu cầu của chủ trang trại hoặc quản lý của họ và làm các dịch vụ khác của dân chúng. Người có thế lực nhất là quan: đứng đầu về tinh thần và dân sự (đôi khi một ông quan thuộc hạng hai có ít quyền lực và uy tín hơn những người điều hành các khu vực quan trọng). Đồng thời ở đó cũng có người buôn bán, thợ thủ công và nông dân làm nông nghiệp. Dân làng thường ở trong các túp lều nhỏ bằng đất và tre, lợp lá cọ hoặc cỏ. Họ ngủ trên những chiếc chiếu rải trên nền đất.
Mỗi làng được bao bọc bởi một lũy tre dày có cổng đóng kín, khi mặt trời lặn, không ai có thể đột nhập vào làng trong đêm. Người ta thường nói: “Mệnh lệnh đức vua cũng dừng lại ở lũy tre làng”, vì trong làng quyền hành thuộc các bậc tiên chỉ, một tổ chức được dân làng bầu lên, gồm những người được kính trọng nhất. Làng có đền thờ, miếu mạo và nghĩa trang. Chó, mèo, trâu, bò, lợn, chuột, ruồi muỗi, gà vịt, ngỗng đều sống chung với người, kể cả những con chim nuôi trong lồng. Không có điện, chỉ có ánh sáng của đèn dầu hỏa. Không có nước máy, chỉ có gàu múc nước từ dưới suối hoặc giếng. Đường đi lại đều bằng đất nện. Các chất thải của con người hoặc động vật đều được chất đống để làm phân bón ruộng. Lao động liên tục, đói nghèo triền miên, tầm vóc gầy gò. Nhưng có trật tự, có tổ chức, có giúp đỡ người già, cứu tế người nghèo, có cuộc sống gia đình, có những ngày hội hè, có niềm vui và tiếng cười. An Xá là một nơi bình yên: không ai có thể hình dung được cái làng nhỏ ấy lại bị người Pháp đốt cháy và bom Mỹ phá hoại khi cậu bé ra đời và lớn lên.
Bố Võ Nguyên Giáp, một học giả có tiếng ở địa phương là một viên quan chức hạng hai nhưng nghèo. Ông Giáp kể: “Tôi xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo”. Nhà của gia đình ông không phải là tồi, nhưng mọi người trong làng sống ở mức tối thiểu”. Ngày nay thu nhập bình quyền của một người Việt Nam tương đương 1.000Fr/năm. 80 năm sau có lẽ quy ra sức mua thì cũng gần như vậy. Mọi thứ đều không có nhiều để mua bán. Người ta ăn chủ yếu bằng gạo, thức ăn có tí ớt, thỉnh thoảng có cá (An Xá không xa biển bao nhiều) hầu như không bao giờ có thịt, kể cả thịt lợn và thịt gà. Mỗi năm một lần Tết-năm mới theo lịch mặt trăng là những ngày hội ăn uống kéo dài nhiều ngày. Hay nói khác đi trừ những dịp cưới hỏi, suốt năm người ta chờ đến Tết để ăn uống dồn dập, thức ăn, bia và rượu gạo.
Quan chức không phải là cha truyền con nối mà họ được tuyển chọn sau những kỳ thi viết và vấn đáp kéo dài khoảng 3 tháng ở kinh đô. Hệ thống cai trị vay mượn hệ thống của Trung Quốc hoặc của tổ tiên để lại. Các quan chức Việt Nam được tuyển chọn trong số những người trẻ tuổi ở thành phố hoặc thôn quê, có khả năng thông thuộc những điều kinh điển của Khổng Tử về tôn giáo, lịch sử, toán học và âm nhạc. Bất kỳ ai cũng có thể trở thành quan chức, nhưng con trai nhà có học được học hành nhiều hơn con cái nông dân thất học, họ đỗ đạt nhiều hơn và củng cố thêm địa vị của gia đình họ trong xã hội. Từ năm 1945, phần lớn những người lãnh đạo Việt Nam đều xuất thân từ thiểu số có học đó.
Phật giáo là tôn giáo chính của gia đình cậu bé Giáp. Nhưng cũng như phần lớn các quốc gia ở châu Á người ta hòa trộn dễ dàng những giáo lý của ba ngành tôn giáo phương Đông: Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo và thực hiện những điều thuận tiện nhất. Cuộc sống hàng ngày ở An Xá thể hiện rõ những đạo lý của Khổng Tử, chấp hành nghiêm chỉnh trật tự xã hội, và ứng xử đúng đắn, tôn trọng tuổi tác và kinh nghiệm, thờ cúng tổ tiên.
Bố Giáp đã đấu tranh lâu dài trong những tổ chức cách mạng dân tộc, tham gia những cuộc nổi dậy 1885 và 1888 chống lại người Pháp (Trong bài: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quê hương, gia đình và tuổi thơ” của trung tướng Hồng Cư đăng báo tiền phong chủ nhật số 32 ra ngày 12-8-2001 đã viết: …”Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bắt đầu (1946) gia đình đi tản cư, ông (Bố Võ Nguyên Giáp) còn đang thu xếp vài việc, chưa kịp đi theo, thì giặc Pháp ập tới: Chúng càn quét lùng bắt ông, đưa ông về giam ở Huế. Ông bị giặc tra tấn. Có người trông thấy ông bị buộc tay vào đằng sau xe Gip. Gia đình không biết ông sống chết ra sao. Mãi về sau, gia đình mới có tin là ông đã mất trong nhà tù ở Huế (tháng 11-1947)). Không bao giờ từ bỏ hận thù chống chế độ thực dân Pháp, sớm gieo hạt giống cách mạng vào cậu con trai còn trẻ tuổi, ông bị bắt vì hoạt động nổi dậy năm 1919. Sau vài tuần lễ ông chết ở trong tù.
Võ Nguyên Giáp có hai chị gái và một cậu em trai. Sau cái chết của cha, một trong hai chị cũng bị bắt. Chị không bị tù lâu, nhưng vì thiếu thốn kéo dài trong tù, chị đổ bệnh và chết sau vài tuần được trả tự do. Gia đình phải chịu hai cái tang tàn khốc trước lúc cậu Giáp được 10 tuổi.
Lúc còn nhỏ, Giáp được cha dạy học từ khi đến trường làng. Sau đó nhờ trí thông minh xuất chúng, cậu được gửi đến trường miền. Đạt nhiều tiến bộ trên bước đường học tập, năm 1924, 13 tuổi, cậu rời gia đình vào trường quốc học Huế. Cậu tạm biệt mẹ, nước mắt lưng tròng, và thi đỗ vào trường quốc họ do người Pháp điều hành. Lúc bấy giờ, tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ hai (do đó đến năm 1954 Pháp ngữ là tiếng phổ thông, ai đó muốn có một chức danh nào đó đều phải đọc và viết tiếng Pháp). Mặc dù có hận thù sâu sắc với chế độ thực dân, càng ngày cậu càng ca ngợi văn hóa Pháp và các tác gia người Pháp.
Huế thành phố của nhân dân trên bờ sông Hương là cố đô của Việt Nam. Đó là một thành phố pháo đài và chung cư, một trung tâm hành chính và thương mai năng động. Năm 1802, vua Gia Long đã xây dựng một thành trì có hào sâu bao quanh với những cổng to lớn, tạo thành trái tim của Kinh đô, ở giữa các cấm thành. Cầu sắt do Gustave Eiffel vẽ, vài chục năm sau bắc qua sông.
Trong những năm 1924 và 1925, Giáp bắt đầu đấu tranh cho lý tưởng trong hàng ngũ những người yêu nước. Nhờ nghị lực và tài tổ chức, anh được chọn để tập hợp những học sinh hoạt động cách mạng cùng học trường quốc học và các trường khác ở Huế. Trong mọi trường hợp, hoạt động của anh cũng không thể giữ bí mật được, nên mới 13 tuổi anh đã có tên trong hồ sơ của mật thám Pháp, của cảnh sát hồi bấy giờ. Sở mật thám đã kiên nhẫn theo dõi những hoạt động bí mật chống thực dân xuất hiện từ khi người Pháp đến Đông Dương, lập danh sách những người tham gia biểu tình công khai hoặc trả tiền cho những ai đưa tin về những người hoạt động bí mật.
Sau 2 năm, trường quốc học không cho phép Giáp hoạt động nữa. Anh bị buộc thôi học sau khi tham gia một cuộc bãi khóa. Anh trở về An Xá và không bao giờ chịu từ bỏ đấu tranh cho tự do của Tổ quốc; được một người hoạt động chính trị địa phương Nguyễn Chí Diểu giới thợi, anh đã gặp những nhà yêu nước trong Tân Việt cách mạng đảng, một tổ chức yêu nước thành lập ở Trung kỳ năm 1924.
Theo chủ nghĩa dân tộc nhưng Tân Việt cũng có màu sắc cộng sản: trong số những tài liệu chuyển đến Giáp, một tài liệu có đầu đề “Tố cáo những tội ác của chế độ thực dân” do một người tên là Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Con người ấy đã gần gũi với anh từ những năm 13 tuổi, hồi ở Huế, trong dịp anh được gặp nhà chí sĩ cao tuổi Phan Bội Châu đang bị quản thúc vì hoạt động bạo loạn. Giáp đã phải tìm chỗ vắng người và trèo lên cành cây để đọc tài liệu. Những lý luận mác xít do ông Quốc trình bày đã thay đổi cuộc đời Giáp: đó là một xã hội không gc, công bằng và trung thực. Anh nói: “Đây là khả năng đem lại hạnh phúc cho toàn nhân loại”. Lúc đầu là người yêu nước về sau trở thành cộng sản.
An Xá, một làng quê nhỏ xa vắng và yên ả không phải là nơi của anh; anh lại được nhà cầm quyền cho trở lại học tập ở Huế. Đã có điều kiện hoạt động tốt hơn, anh tiếp tục tổ chức đấu tranh. Lần này, anh đã vượt qua những giới hạn cho phép, anh bị bắt khi đang điều hành những cuộc biểu tình của sinh viên, học sinh và bị cầm tù 2 năm. Nhưng anh đã được thả ra sau 3 tháng ở tù, vì không đủ chứng cứ buộc tội anh.
Năm sau, tuy vẫn hoạt động tích cực, nhưng nhờ sự giúp đỡ của một viên quan cai trị thực dân cũ, anh được nhận vào học ở trường Albert Sarraut. Trường có một lớp triết học học trong một năm. Với thái độ dễ mến và lịch lãm, anh đã được một giáo sư của anh viết về anh: “một con người vui tính, hết sức nhiệt tình tìm ra chân lý”. Cuối năm anh đỗ tú tài. Cánh cửa trường đại học đã rộng mở.
Võ Nguyên Giáp thời trẻ
Đối với thanh niên châu Âu hoặc châu Mỹ có bằng tú tài là một bước quan trọng, thì đối với một người Việt Nam, việc đó quan trọng gấp 1.000 lần. Chỉ có 10% trẻ em được đến trường dưới dạng này hoặc dạng khác, và chỉ có 4% trong số đó vượt qua bậc tiểu học. Từ năm 1883, năm Pháp xâm lược Việt Nam, đến năm 1945 trong toàn cõi Đông Dương (bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia) chỉ có 14.393 thí sinh tốt nghiệp tiểu học. Một số ít người Việt Nam hiếm hoi được phép đến một trong ba trường quốc học của đất nước để đào tạo thành những viên quan lại Pháp. Từ năm 1919 đến 1938, 827 trong số họ đỗ tú tài. Trong 25 năm trước 1945, 3.000 sinh viên theo học ở trường đại học duy nhất của Việt Nam ở Hà Nội. Trong số họ có 229 tốt nghiệp bác sĩ, 160 giáo viên và 408 luật sư. Giáp học ở ngành luật, tốt nghiệp luật và kinh tế chính trị năm 1937. Cũng năm ấy, anh vào Đảng Cộng sản Đông Dương do một người đại biểu của Đảng Cộng sản Pháp được giới thiệu về Sài Gòn để làm nhiệm vụ tổ chức thành lập Đảng giới thiệu.
Trong những năm học đại học, anh ở trọ nhà giáo sư Đặng Thái Minh, giáo sư có một người con gái Nguyễn Thị Minh Giang (Sách: “Chiến thắng bằng mọi giá” của Cecil B Curey trang 29 viết: … Ở nhà trong một thời gian, ông Giáp lại một lần nữa quyết định đi Vinh… Ông cần việc làm và hy vọng tìm được một việc làm ở đó. Giáo sư Đặng Thai Mai, thầy cũ của ông lúc đó cũng được phóng thích khỏi nhà tù Lao Bảo, sống ở Vinh và có thể giúp ông. Quan trọng hơn, Vinh là quê hương của Nguyễn Hữu Bình, cha của người bạn tù của ông là Nguyễn Thị Quang Thái (sinh năm 1915)). Trang 46 viết: … Năm 1939 đã 28 tuổi, Võ Nguyên Giáp làm một chuyến đi Vinh và dạm hỏi Quang Thái làm vợ… Một thời gian, trước tháng 4-1939, Giáp và Quang Thái tổ chức lễ cưới…) là người quen biết từ hồi ở Trường Quốc học Huế. Lúc bấy giờ cô là một trong những nữ chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi nhất. Cô đã tiếp thu được tinh thần yêu nước của cha cô và cũng như của Giáp, cô tin tưởng rằng chủ nghĩa cộng sản là phương tiện chắc chắn nhất để đạt được lý tưởng của họ. Họ cưới nhau tháng 6-1938. Thật vậy, Giáp công tác với nhiều tờ báo cách mạng: Tin tức (Les Nou Velles), Nhân dân (Le Peuple), tiếng nói của chúng ta (Notrevoix) và lao động, Le Travail. (Sau này anh mới biết rằng những bài đăng trong các báo ấy ký tên P.Lin là Hồ Chí Minh viết). Anh cũng xuất bản với Trường Chinh - sau này cũng trở thành nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam - một tác phẩm nhỏ “vấn đề dân cày”. Các hoạt động của Giáp đã phải trả giá: anh trượt thi cử nhân luật hành chính, không được hành nghề và cần tiền giúp gia đình - một đứa con gái Hồng Anh sinh 5-1939-anh đã nhận làm giáo sư sử học ở trường tư thục Thăng Long Hà Nội.
Tướng Giáp với người vợ đầu - Nguyễn Thị Quang Thái
Chị vợ của Giáp cũng là một chiến sĩ cách mạng, chị học chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô vào cuối những năm 30. Về đến Sài Gòn, chị bị bắt giam và bị bắn. Giáp suy nghĩ như vậy trong gia đình anh, người ta đã thấy được 3 cái chết dã man tàn bạo do chế độ thực dân Pháp gây nên.
Là người yêu nước vững tin, Giáp dành một bài giảng riêng về những cuộc kháng chiến lâu dài chống Trung Quốc, quốc gia đã nhiều lần xâm lược Việt Nam hàng thế kỷ. Ca ngợi những hành động ah, anh diễn đạt đầy sức thuyết phục những trận đánh và thắng lợi của Napoléon. Anh đã nghiên cứu những chi tiết nhỏ nhất của các trận đánh và truyền đạt đầy nhiệt huyết bằng hình vẽ những tổ chức lực lượng của Napoléon trên trận địa. Học sinh của thầy Giáp đều nhớ rất kỹ những bài giảng trong sáng và giọng nói hấp dẫn của thầy.
Giáp cũng rất chú ý nghiên cứu những tác phẩm của Lênin, Mác-Ăngghen và Mao Trạch Đông. Từ những tác phẩm của ba nhân vật trên, Giáp tìm ra những cơ sở tư tưởng của hệ thống xã hội tương lai và anh tin rằng một chế độ xã hội công bằng hoàn toàn mới sẽ thay thế những bất công cũ. Từ các nguyên lý của Mao Trạch Đông, Giáp khai thác những nội dung quân sự để xây dựng lực lượng vũ trang. Ngoài ra Giáp đã nhiều năm nghiên cứu tướng Raoul Salon, anh đọc tác phẩm của T.E Lawrence, Lawrence Arập. Người lính của chiến tranh thế giới ấy bằng những thí dụ chính xác đã dạy anh làm sao có hiệu quả tối ưu trong kế hoạch chiến thuật và chiến lược mà chỉ sử dụng lực lượng tối thiểu. Anh cũng rất quan tâm đến điều Lawrence nhấn mạnh: giá trị con người.
Giáp say mê học tập. Cũng như nhiều nhân vật cùng thời ở phương Đông và phương Tây, khi đi tìm một phương thuốc cho những nỗi đau của thế giới. Anh thấy rằng chủ nghĩa cộng sản là một phương sách giải thoát. Chủ nghĩa cộng sản rõ ràng có tác động sâu sắc: nó chấm dứt chế độ bóc lột công nhân của chủ nghĩa tư bản. Và cuối cùng khẳng định cách mạng Nga là tấm gương đi tới, như một người đi thăm Liên Xô đã nói: “Tôi đã thấy tương lai, và cứ như vậy tiến lên!”. Lý luận cộng sản đề cao tính cao thượng của con người; nên làm điều gì tốt cho con người, mà không phải làm điều gì xấu nhất. Đối với nhiều người, một thời đại mới đang thức dậy trong toàn nhân loại.
Chân dung nổi bật của Giáp lúc đã gần 30 tuổi: một người trẻ tuổi dễ mến rất thông minh năng động và quyết đoán, bằng nhân cách và hoạt động tinh thần đã hoàn toàn chinh phục những người xung quanh. Các đặc điểm ấy không thay đổi theo năm tháng mà không ngừng tăng trưởng theo thời gian: anh hưởng thụ ít nhất và sẵn sàng đè bẹp mọi tư tưởng chống đối. Mặc dù vậy đó là một con người cần mẫn, tư duy cho đến giờ phút cuối cùng, sẵn sàng chờ đợi hơn là hành động vội vàng. Anh sẵn sàng nghe mọi ý kiến trái ngược được trình bày logic và có sức thuyết phục để tránh được một phản ứng mạnh ngăn cản anh đạt mục đích, anh cảm giác với những trường hợp lạm dụng lý lẽ: như người ta thường nói một nét đặc trưng thuận lợi cho một cuộc đời chính trị vĩ đại.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Mon Dec 24, 2012 4:22 pm
Chương 2: Xây dựng lực lượng
Mục đích của chúng tôi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội-dân cày có ruộng. Trước đây đã có những người lãnh đạo của chúng tôi nói đến độc lập nhưng họ không đem lại ruộng đất cho dân cày, do đó họ không thành công. Tôi tin chức chủ nghĩa xã hội là lý do đấu tranh của nông dân và công nhân.
Võ Nguyên Giáp (nói với tác giả)
Ở Pháp năm 1939 sau khi ký kết hiệp ước Xô-Đức, Đảng Cộng sản bị cấm hoạt động. Ở Việt Nam, chế độ cai trị cũng phụ thuộc chính phủ mẫu quốc, bắt đầu bắt bớ những đảng viên của Đảng hoạt động công khai. Giáp có thể bị bắt, Trung ương Đảng quyết định chuyển Giáp khỏi Việt Nam. Mồng 3 tháng 5 năm 1940, Giáp chia tay vợ-“đồng chí Thái” như ông thường gọi và con gái nhỏ bên bờ Hồ Tây-ở Hà Nội. Ông rời Hà Nội trên một chiếc xe kéo tay do một đảng viên tin cậy kéo. Sau đó Giáp đi cùng Phạm Văn Đồng lớn hơn Giáp 4 tuổi, là một nhân vật quan trọng khác của Đảng. Được vài kilômét, Giáp và Đồng lên xe lửa đi về phía tỉnh Cao Bằng (Lào Cai: Sđd, trang 16) rồi vượt qua biên giới sang Trung Quốc. Họ phải trốn vào phòng vệ sinh để tránh cảnh sát tuần tra trên hành lang. (Hai con đường sắt do người Pháp xây dựng, một từ Hà Nội vào Sài Gòn, và một từ Hải Phòng sang Côn Minh qua Hà Nội. Đường sắt đi qua đồng bằng sông Hồng năm 1903 và đến biên giới Trung Quốc năm 1906, nhưng phải mất hơn 4 năm nữa và tốn thêm nhiều sinh mạng mới vượt qua vùng rừng núi khắc nghiệt để đến Côn Minh). Cũng như Giáp và Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đã bị tù 20 năm vì hoạt động cách mạng. Ba con người để điều hành đất nước Việt Nam trong 30 năm sau này đang đến với nhau. Hai người trong số họ đang tiến lên phía Bắc đến Trung Quốc, nơi Hồ Chí Minh đang hoạt động cùng những người cộng sản của Mao Trạch Đông. Vợ Giáp trở về gia đình ở Vinh, thuộc tỉnh Nghệ An miền Trung Việt Nam. Chị bị bắt và xử 15 năm tù rồi chuyển ra trại giam Hỏa Lò Hà Nội.
Võ Nguyên Giáp chụp với bố mẹ, con gái Hồng Anh (áo trắng) và các cháu năm 1946.
Tháng 6 năm 1940 ở Côn Minh Trung Quốc, Giáp gặp Hồ Chí Minh lần đầu tiên lúc 29 tuổi. Phạm Văn Đồng và Giáp cùng với những người tạm trú đang chờ đợi đến tiếp xúc với một con người. Giáp nhớ lại khi nhìn thấy Hồ Chí Minh bình tĩnh, thái độ khiêm tốn và trang phục giản dị. Ông biết Nguyễn Ái Quốc, người có những bài viết ảnh hưởng sâu sắc đến mình trước đây.
Trong trí nhớ của Giáp cũng như những người khác, hình như không ai có chút nghi ngờ về năng lực điều hành phong trào độc lập của con người ấy. Cụ Hồ suốt đời chiến đấu cho lý tưởng cộng sản. Vì những tư tưởng ấy ông đã bị người Anh bắt giam ở Hồng Kông và người Trung Quốc bắt nhiều lần. Tác phẩm của ông được lưu truyền rộng rãi, tên tuổi của ông được nhiều người nhắc đến trong tất cả các phong trào cách mạng ở phương Đông. Nhưng tự bản thân ông đã có một đức tin tiềm tàng-Giáp nói: “một con người nhân văn rất riêng”. Một niềm tin mạnh mẽ khiến cho mọi người đối thoại đều bị thuyết phục. Giáp rất xúc động trước cách sống giản dị và lòng trung thực của ông và cũng chính phong cách “cụ thể và khôn ngoan” trong tư duy và công tác, một tác phong tự Giáp phải cố gắng rèn luyện (kiềm chế tính dữ dội của Giáp) đã giúp Giáp thích ứng với chính trị cũng như hoạt động quân sự trong những năm sau này. Một trong những nguyên tắc đầu tiên của Cụ Hồ là hành động chính trị đi trước hành động quân sự, vì nhân dân là ưu tiên tuyệt đối đó là nguyên nhân của mọi thắng lợi về chính trị và quân sự. Giáp đã áp dụng hoàn toàn đầy đủ những nguyên tắc ấy trong những năm sau này.
Để khắc phục những mặt yếu về lý luận của Giáp, Hồ Chí Minh đã gửi Giáp đến học viện Mác-Lênin ở Diên An Trung Quốc, nhưng hai tuần sau khi ra đi, tháng 6 năm 1940, quân Đức chiếm Paris, Hồ Chí Minh biết rằng sẽ có những thay đổi chính trị lớn ở Việt Nam, ông gọi Giáp trở lại. Cùng với Phạm Văn Đồng, Giáp đến Quảng Tây Trung Quốc. Tại đây, với cái tên Dương Hải Nam, Giáp học nói và viết tiếng Trung Quốc, sau đó ông đã cho ra đời một tiểu luận về nội dung mới này với đầu đề: “Những vấn đề quân sự Trung Quốc”.
Sau khi Paris thất thủ, chính quyền thực dân Pháp bị bọn bành trướng Nhật Bản khiêu khích, bị cô lập đối với phía bên kia thế giới và chỉ còn 10.000 binh lính dưới quyền, chấp nhận để cho quân Nhật xâm chiếm miền Bắc Việt Nam và rồi năm sau chúng chiếm luôn cả miền Nam.
Nhật Bản đã liên minh với Đức Quốc xã và Italia tạo thành phe trục. Trước Pháp bị quân Đức xâm chiếm, các thuộc địa cũng cùng chung số phận cho đến khi thành lập chế độ Vichy. Khi đã nắm chính quyền, chế độ này thực hiện chế độ chính trị hợp tác để cho quân Nhật “Bảo hộ” Đông Dương. Dù thế nào thì chính quyền Hà Nội cũng tiếp tục điều hành đất nước theo chỉ thị của Vichy xa xôi. Mặc dù nhân vật đã chiếm mất một số vị trí, đô đốc Decoux toàn quyền Đông Dương cũng còn giữ được cho nước Pháp một số vùng cai quản trên đất nước này.
Tháng 5 năm 1941, ở hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 ở Pắc Bó Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh và cộng sự của ông quyết định thành lập một tổ chức của những người yêu nước-“nông dân, công nhân, thương gia và binh lính”-chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam. Tổ chức này có tên là Việt Nam độc lập đồng minh hội của những người đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, bộ phận quân sự, gọi tắt là Việt Minh.
Sau nhiều giờ thảo luận, Giáp đã làm Hồ Chí Minh khâm phục vì những hiểu biết sâu sắc về lịch sử quân sự của mình. Cụ Hồ thấy được nghị lực và nhân cách bao quát của Giáp, hy vọng người thanh niên này có thể mang lại sức cho phong trào cách mạng. Nhưng luôn tỉnh táo, Cụ Hồ quyết định để Giáp được thử thách trên thực địa. Vì vậy Giáp đã trải qua một phần thời gian tốt đẹp của năm 1941 để thành lập một mạng lưới huấn luyện và xây dựng những cơ sở chính trị trong tỉnh Cao Bằng, ở cực Bắc của Việt Nam. Đến cuối năm ấy, Giáp đã thành lập được 2 cơ sở, một ở Bắc Sơn và một ở Võ Nhai. Tờ tạp chí thông tin Việt Nam độc lập (gọi tắt là Việt Lập) đã ra đời để giữ vững liên lạc và tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Giáp rất tích cực công tác, nhưng Hồ Chí Minh từ chối những bài viết dài dòng của Giáp, yêu cầu cắt bớt đi một nửa và diễn đạt giản dị hơn. Giáp đã thử nhiều lần, nhưng Giáp có khuynh hướng khuếch trương những dự định của mình nên chẳng bao giờ đáp ứng được yêu cầu (có lẽ chăng bao giờ thuộc lòng các bài viết nên có rất nhiều chỗ lặp; dù sao Giáp cũng thành công trong việc mô tả và có khi mơ mộng).
Năm 1942, Giáp đi một chuyến đến một trường của Diên An dự các lớp với chiến tranh du kích và chính trị. Rồi đến Quảng Tây, lần này Giáp bị bọn dân tộc khiêu khích, và hoàn toàn ngược lại với tình trạng năm 1940, Giáp phải vượt biên giới để trở về Việt Nam. Đến giữa năm 1942, Giáp đến làng Pắc Bó ở Việt Bắc, cách biên giới 2 km (chỉ là một biên giới chính trị vì nhân dân ở hai phía bên này hoặc bên kia đều là dân tộc Nùng). Ở đó, trong một làng có tên là Vũ Nhai, gần thị xã Cao Bằng, phía Bắc Hà Nội có một cơ quan 40 người quan trọng đang sống trong hang động dưới sự bảo vệ của các dân tộc miền núi. Đó chính là những tổ chức đầu tiên của lực lượng quân sự trong phong trào giành độc lập Việt Nam.
Việt Minh gồm những chi bộ của Đảng Cộng sản đang ra sức vận động nhân dân vùng phụ cận theo chủ nghĩa cộng sản. Rất hiếm người biết tiếng Việt, Giáp và các đồng chí phải tập nói tiếng địa phương và dùng hình vẽ hướng dẫn họ hiểu được ý định của mình. Khi các toán bảo an Pháp đến gần nơi ẩn náu, họ tạm thời di chuyển đi nơi khác và thỉnh thoảng ẩn nấp trong một cái hang phía sau một con suối rất khó ra vào, hoặc trong vùng dân tộc Mán Trắng, họ chỉ uống nước suối, ăn ngô và quả chuối rừng để sống. Có lần họ đến Lạng Sơn và sống trong một nhà sàn trên sườn núi.
Ở hội nghị Liễu Châu tháng 10 năm 1942, mặt trận thống nhất Việt Nam cách mệnh đồng minh hội được thành lập để tập hợp các khuynh hướng dân tộc khác nhau, đang thảo luận về gây ảnh hưởng ở miền Bắc Việt Nam. Đó là dẫn chứng đầu tiên của chiến thuật Hồ Chí Minh khi đối mặt với sự chống đối, ông không tốn nhiều sức lực, không đẩy họ sang phía thù để thủ tiêu họ, ông liên minh với họ.
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ tinh thần của phong trào, một nhà duy mỹ, một vị thánh (hình như ông có một số thuộc tính của một vị thánh-theo Giáp: “Ông là mẫu mực về kiên nhẫn, về tiết kiệm, về liêm khiết và tình thường yêu”, tất cả những đặc điểm khiến mọi người Việt Nam phải tôn kính). Giáp là con người hành động. Có lẽ sau khi đọc Mao Trạch Đông, Giáp hiểu rằng “nhân dân có thể là tất cả”, động cơ là chìa khóa của thắng lợi về chính trị cũng như trong lĩnh vực quân sự. Trong những năm sau, Giáp đã dựa vào nhân dân, sức lực và số đông của họ để làm người thợ cả trong những trận thắng kỳ diệu. Giáp có thể đưa đông đảo nhân dân đi đè bẹp quân thù, dùng số lượng đông đảo cánh tay vào công việc xây dựng những con đường, trong những trận tấn công của số đông thay thế cho những số lượng to lớn phương tiện vật chất, Giáp yêu cầu hàng triệu và hàng triệu giờ đồng hồ dùng sức khỏe cơ bắp của đàn ông và đàn bà để đào giao thông hào, hầm hố và sửa chữa những nơi bị thiệt hại.
Giáp hoàn toàn tán thành sự giác ngộ quần chúng. Phải xoay chuyển quần chúng, đưa nhân dân đi theo đúng hướng. Sau khi đã trang bị đầy đủ về tinh thần và vật chất cho quần chúng, giao cho quần chúng đánh đổ trật tự cũ xây dựng trên cơ sở những phong tục tập quán lạc hậu của các dân tộc, trên cơ sở chủ nghĩa thực dân hoặc cơ sở của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Mọi người đều phải là chiến sĩ. Mọi người, đàn ông, đàn bà, con gái, con trai, người già: đều góp phần khiêm tốn của mình vào cuộc đấu tranh. Đó là một khái niệm đơn giản và dễ hiểu. Giáp hoàn toàn thích ứng với chủ nghĩa yêu nước sâu sắc của người Việt Nam. Không phải là một ý tưởng mới, mà đó đã có từ thế kỷ 13 và những lần sau đó, càng ngày càng được tăng cường ở Việt Nam, nhân dân đặc biệt gắn bó với quá khứ và truyền thống.
Nhưng trước hết là bản chất. Muốn tiến tới tương lai: cần phải có những con người quyết đoán, cương nghị và nhiệt tình. Nếu họ là cộng sản thì tốt nhất. Nếu họ được giác ngộ dân tộc và chống thực dân thì không có gì đáng phàn nàn: hy vọng có thể chuyển biến họ theo chủ nghĩa cộng sản. Mỗi khi đã chấp nhận như vậy, tổ chức sẽ gửi họ đến các lớp học ở cơ sở để họ giác ngộ. Giáp xây dựng xung quanh mình những người tin cẩn-những cán bộ cốt cán-tùy theo trình độ hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản: trung tâm vững chắc này đã tập họp nhiều hội viên khác. Với phương pháp hoàn toàn tự tin, Hồ Chí Minh đã đặt ra một mức cao. Những cốt cán phải là những người không thể chê trách về tinh thần, không bị cuộc sống đồi trụy của đế quốc cám dỗ. Ông bắt buộc họ phải dám làm, trung thành, tiết kiệm, thẳng thắn, công bằng, khiêm tốn và giản dị, họ phải sống chung với những người nông dân giản dị. Giáp rất thận trọng và cẩn mật trong việc chọn lựa, vì những người cộng tác với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và cả với Giáp phải cùng làm việc hằng mấy năm trời, họ sẽ trở thành những người lãnh đạo phong trào ngày càng mở rộng trong toàn quốc, phát triển dần dần từ phạm vi hẹp đến rộng.
Về nguyên tắc yêu cầu các cán bộ cốt cán họp lại trong một vùng ít nguy hiểm để trở thành những tổ nhóm hội viên trên khắp địa bàn. Các nhóm này phát triển để trở thành những nhóm quan trọng giữ vững lấy địa bàn và mở rộng thành vùng tự do. Những vùng này là cơ sở để nhân dân chuẩn bị và nổi dậy đấu tranh tiến công quân địch. Như sau này, Giáp đã viết: “Cuộc đấu tranh phải mạnh dần lên. Ta chiến thắng từ những thất bại nhỏ, từ trận này đến trận khác cho đến khi thời cơ đến”. Khái niệm nội bộ ấy cho phép chờ đợi đến thời cơ thuận lợi. Ngược lại với phương Tây, họ thấy cần thiết phải có hiệu quả tức thời, hiệu quả thường ám ảnh họ mãi. Đó là đức tính quan trọng của Giáp trong những thập kỷ tới. Có nhiều người bước vào cuộc chiến đấu và không hề nghĩ tới khả năng rút ra càng nhanh càng tốt, Giáp vẫn không lay chuyển những quyết định ban đầu. Do đó, chỉ hơn một năm, Giáp đã xây dựng được những cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa.
Dưới sự chỉ đạo của Giáp, các cán bộ học tập chiến lược quân sự và chuẩn bị những chiến khu tương lai (Trong thời kỳ này, mọi người ở cơ quan đều phải tham gia công việc chung, Giáp phải rửa bát, vì công việc bếp núc của Giáp quá vụng về). Ban đêm, rét quá không ngủ được, mọi người thức dậy và ngồi quanh bếp lửa cho đến sáng. Các phòng học-lều bằng tre lợp lá-và những khu dân cư được xây dựng để tiếp nhận đông đảo người vào hội. Giáp tuyển lựa những binh sĩ đang phục vụ trong các binh đoàn Đông Dương của người Pháp để mua bán ở địa phương và canh phòng khu vực. Đến nửa năm 1943, ba trăm người trong số họ được đưa sang Liễu Châu và Quảng Tây Trung Quốc tập luyện. Ở Việt Bắc khoảng dăm chục binh sĩ mới tuyển cũng được tổ chức lại. Những binh sĩ ưu tú được giữ lại làm giáo viên. Cuối năm 1943, hàng trăm đàn ông, đàn bà gia nhập quân đội quốc gia. Đến đầu năm 1944, hai mươi nhóm khác nhau được tập họp lại.
Vào mùa hè năm 1943, Giáp được tin vợ chết trong nhà giam Hỏa Lò Hà Nội. Cái nhà giam rất nổi tiếng mà ở Hoa Kỳ gọi dưới cái tên khách sạn Hinlton Hà Nội, vì nhiều tù binh chiến tranh Mỹ bị giam giữ ở đó. Những người cùng công tác với Giáp thời kỳ đó khẳng định Giáp nhận tin này rất bình tĩnh, nỗi đau của Giáp chỉ biểu hiện bên ngoài bằng mảnh băng đeo trên người nhiều ngày. Tuy vậy Giáp đã tuyên bố với một nhà báo vài năm sau: “cuộc đời tan nát”, hơn tất cả những điều khác, không còn nghi ngờ gì nữa, cái chết của người phụ nữ trẻ mà Giáp tôn thờ đã dẫn đến những tư duy sâu sắc và tin tưởng mãnh liệt của Giáp. (Người con gái của họ được đưa về An Xá để bà nội nuôi dạy. Cô ta thừa hưởng trí thông minh của bố mẹ, học tập ở Hà Nội, đỗ tiến sĩ toán lý. Năm 1987, cô nhận giải thưởng khoa học Liên Xô Kowolepxkia).
Nhiều người Việt Nam tin tưởng rằng sự hội tụ của các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa có tác dụng điều chỉnh các hoạt động của con người. Thời cơ tốt nhất phải chuyển sang hành động “Thời cơ tốt, một con tốt cũng thắng. Thời cơ chưa đến mà hành động không thích đáng có thể mất hai con ngựa”. Tháng 7 năm 1944, Giáp nhận định “tình hình thế giới và hoạt động cách mạng ở tỉnh Cao Bằng có nhiều thuận lợi và cho rằng điều kiện để phát động chiến tranh du kích đã đến”. Hồ Chí Minh biết tin này đã không đồng ý. Tháng 8, Cụ Hồ vội trở về Cao Bằng càng sớm càng tốt, và đã được Giáp đón tiếp long trọng.
Hội nghị quân sự lần thứ nhất của Đảng khai mạc tháng 9 năm 1944 (Trường Chinh điều khiển hội nghị, bốn ủy viên Trung ương là Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị và Trần Đăng Ninh). Hội nghị quyết định thời cơ đã đến, bây giờ phải chuyển sang hành động. Quân giải phóng Việt Nam được tổ chức, Giáp được đề cả làm Tổng chỉ huy. Theo chỉ thị viết nguệch ngoạc trên bao thuốc lá của Hồ Chí Minh-một thói quen cũ-hội nghị cũng quyết định thành lập những đội vũ trang tuyên truyền được trang bị vũ khí. Nếu nhiệm vụ hàng đầu là tuyên truyền giác ngộ thì các đội viên cũng phải có vũ khí để chiến đấu tự vệ.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập đội võ trang tuyên truyền đầu tiên: đội quân gồm ba tiểu đội và 34 chiến sĩ tất cả-31 đàn ông và 3 đàn bà. Ra quân ở chiến khu Trần Hưng Đạo, tên một vị anh hùng dân tộc Việt Nam, đội được trang bị 2 súng lục, 17 súng trường và 14 súng kíp có từ thời chiến tranh Nga-Nhật và một súng máy. Họ chụp ảnh để kỷ niệm sự kiện vinh quang này. Ở một trong những bức ảnh này, người ta thấy Giáp chân đất, mặc một bộ âu phục, đầu đội mũ phớt đen, một quả lựu đạn dắt ngang lưng, vai đeo túi bản đồ, trước một đám đông lộn xộn đang giương cao cờ hiệu và vũ trang. Ở một tấm khác, Giáp ngồi giữa đội quân và một chiến sĩ đứng gác ở cuối hàng.
Ngày 22/12/1944, tại Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ thành lập với 34 chiến sĩ, do Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy.
Chính Hồ Chí Minh đã tuyển lựa những thành viên của đội quân này và giao nhiệm vụ cho Giáp tổ chức và lãnh đạo chỉ huy. Với bí danh quan tư Nam, Giáp chỉ huy một đội, một người chỉ huy khác là Văn Tiến Dũng, người sau này trở thành Tổng tham mưu trưởng ở Điện Biên Phủ và kế tục sự nghiệp của Giáp ở cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong những năm bẩy mươi. Người chỉ huy thứ ba là Chu Văn Tấn, một người nhã nhặn, dân tộc Nùng sau này trở thành một vị tướng quan trọng trong quân đội nhân dân. “Trung đội” gồm những người chỉ huy chiến khu, người chỉ huy các nhóm và các chiến sĩ thuộc quân du kích địa phương.
Sau khi tuyên bố nhiệm vụ chính trị của đội không phải là đánh giặc, Hồ Chí Minh chỉ thị tiếp: Chính vì mục đích tuyên truyền mà đơn vị đầu tiên này phải giàn được một thắng lợi quân sự trong tháng mới thành lập. Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Giáp đã chỉ huy đội tấn công hai đồn quân Pháp ở Phai Khắt và Nà Ngần thắng lợi. Hai sĩ quan Pháp bị giết. Quân lính của các đôn này đều trở về quê hương. Nhờ công bác binh vận vận động được quân lính của người Pháp chỉ huy, các lực lượng tấn công không bị tổn thất gì. Giáp đã viết: “Chúng tôi đã quên rằng chúng tôi chỉ có 34 con người, nhưng chúng tôi là một đội quân gang thép, không một lực lượng nào thắng nổi. Lòng tin và ý chí đã có hiệu quả”. Vài tuần sau, đầu năm 1945, Võ Nguyên Giáp bị thương ở chân trong cuộc tấn công ở Đồng Mu.
Tháng 4 năm 1945, Đội tuyên truyền giải phóng quân thu nhận Đội cứu quốc quân của Chu Văn Tấn, một đội quân chân trần, chủ yếu là những người dân tộc Thái và chưa có đủ chỉ huy từ khi nhận được sáp nhập với Giáp và Văn Tiến Dũng. Sự hòa nhập đã đạt đến trình độ cao. Những đội võ trang tuyên truyền khác được thành lập và đi sâu vào quần chúng. Họ bảo đảm kiểm soát được vùng đất được mở rộng hàng ngày. Sau vài tháng, cả ba loại quân xuất hiện: lực lượng chủ lực, lực lượng địa phương và dân quân tự vệ của cơ sở làng xã. Ba thứ quân này tạo thành cơ sở tổ chức các lực lượng cách mạng Việt Nam trong những năm sau này.
Bây giờ những đội quân của Giáp thực hiện Nam tiến (Giáp thỉnh thoảng đi ngựa) về đồng bằng sông Hồng, nhiều đơn vị khác được thành lập. Chỉ ở Nước Hai, ba nghìn đội viên nhận nhiệm vụ; tháng 3 năm 1945 Việt Nam đã có cơ sở du kích ở sáu tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Tuyên Quang, Lai Châu và Hà Giang.
Ngày 9 tháng 3, Nhật đảo chính Pháp Vichy. Như chúng vẫn thường tiến hành một cách xảo trá và tàn nhẫn, chúng bắt các sỹ quan cao cấp người Pháp ở nơi đồn trú, trong đó có người chỉ huy tiểu đoàn bộ binh lê dương thứ 5, tước vũ khí của họ sau khi đã mời họ dự tiệc ở khách sạn Metrophobe. Chúng yêu cầu tất cả quân Pháp đầu hàng. Họ từ chối, chúng chuyển sang tấn công. Ngày 12 tháng 3 chúng chém đầu viên chỉ huy quân sự Sài Gòn, tướng Lemonnic, cùng với viên công sứ Camille Auphelle, sau khi bắt buộc họ đào lấy hố chôn mình. Được tin này, trung đoàn bộ binh lê dương “REI” thứ 5 phải rút sang Trung Quốc, sau khi đã chiến đấu đẫm máu với quân Nhật. Những người Pháp không đi sang Trung Quốc, trong đó có đô đốc Decoux đều bị bắt vào trại tập trung tù binh (quân Nhật phá hủy không thương tiếc những gì còn sót lại của lực lượng bảo an Pháp và để lại khu tự do của người dân tộc và cộng sản ở vung nông thôn; bọn Pháp, bọn bảo an còn kiểm soát được một ít, còn bọn Nhật không kiểm soát).
Ngày 15 tháng 4 năm 1945, Giáp quyết định thành lập những vùng chiến tranh du kích trong 6 tỉnh trên để rồi đến ngày 4 tháng 6 tập trung thành một vùng tự do. Nhiều đơn vị quân đội đã có tập trung thành giải phóng quân dưới sự chỉ huy của Giáp với quân hàm Đại tướng. Thời kỳ này Việt Minh đã có đến 5.000 hội viên. Cũng như cán bộ cốt cán, nam nữ hội viên Việt Minh tự nguyện và có quan hệ với nhân dân nơi họ sinh sống. Họ long trọng thề; hết lòng tôn trọng nhân dân, bảo vệ nhân dân, được dân tin yêu và thật sự đoàn kết giữa quân đội với nhân dân. Giáp nhấn mạnh đoàn kết giữa chiến sĩ và cộng đồng nhân dân là rất cần thiết: “Một cuộc kháng chiến lâu dài yêu cầu tất cả phải được giáo dục giác ngộ, đấu tranh cho lý tưởng, trong đó nhân dân là trung tâm. Không có dân chúng ta không có tin tức, chúng ta không giữ được bí mật, không phát động được những trận tấn công bất ngờ. Nhân dân bày ra mưu kế và chúng ta giúp họ thực hiện. Nhân dân tìm kiếm cho chúng ta những chiến sĩ giao liên, che giấu chúng ta, bảo vệ những hoạt động bí mật của chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta và săn sóc các thương binh của chúng ta”.
Tháng 5, trên đèo Chan, bộ đội của Giáp tấn công vào đồn quân Nhật và giết hết bọn người đó. Sâu hơn về phía Nam, làng Tân Trào của tỉnh Tuyên Quang được tổ chức khu căn cứ của Trung ương, là nơi quyết định kế hoạch tương lai. Chính ở đó giữa tháng 5 và tháng 8 năm 1945, một đơn vị lính Mỹ “Deer Team” thuộc OSS, tiền thân của CIA đến để giải giáp quân đội Nhật, gặp Giáp mà họ gọi bằn tên M.Nam. Sau đó, một đơn vị khác do sỹ quan tham mưu Allison Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng này, trước khi tiếp tế vũ khí và đạn dược cho Việt Minh. Ba trăm năm mươi chiến sĩ quân đội Giáp phục vụ cho OSS (Quan năm Peter Dewey của OSS là sỹ quan bị thương đầu tiên trong số 60 nghìn binh sĩ Mỹ bị thương ở Việt Nam: Một chiến sĩ bảo vệ Việt Minh bắn nhầm vào xe của ông ta).
Một nghịch lý trớ trêu của lịch sử: người Mỹ đã cung cấp vũ khí hiện địa cho Việt Minh đầu tiên và dạy cho quân đội Việt Minh sử dụng vũ khí đó. Theo viên sỹ quan tham mưu Archimedes Patti phụ trách Deer Team: “Sau khi được người Mỹ hướng dẫn sử dụng tên lửa, phóng lựu, súng trường, súng máy… Giáp đã tiến công nhiều tiền đồn của quân Nhật cùng với người của chúng ta. Thật đúng là chúng ta đã liên minh với Việt Minh để chống lại quân Nhật”. Chỉ trong vòng một tháng người Mỹ đã huấn luyện được hại trăm cán bộ chỉ huy tương lai của Việt Minh. Họ được lựa chọn bất kỳ và họ đã tạo nên cái tình trạng sẽ gặp trong những năm 60. Mặc dầu việc cung cấp chỉ khiêm tốn ít ỏi, nhưng vũ khí đó cũng bảo đảm lợi thế hơn hẳn của Việt Minh trong thời kỳ khó khăn đó. Có lẽ sai lầm nếu khẳng định rằng Giáp được OSS huấn luyện như một vài câu chuyện huyền thoại được truyền đi ở một số nơi.
Ngày 17 tháng 7 năm 1945, Giáp chỉ huy 500 chiến sĩ Việt Minh tấn công một đồn lính Nhật ở Tam Đảo có khoảng dăm chục tên: bộ đội của Giáp đã giết 8 tên và bắt số còn lại, chúng thuộc sư đoàn bộ binh Nhật bản số 21. Ngày 16 tháng 8, hơn sáu chục đại biểu dự Đại hội quốc dân Việt Minh ở đình Tân Trào. Một Chính phủ lâm thời được thành lập, Hồ Chí Minh là Chủ tịch. Ngày 17 tháng, bộ đội của Giáp tiến công và giải phóng thành phố Thái Nguyên. Các đội quân bắt đầu hoạt động vũ trang có tổ chức, Giáp vừa là sỹ quan chỉ huy vừa là huấn luyện viên. Đến nửa tháng 8, Giáp được tin bộ đội đã đến gần Hà Nội. Ngày 28, ông dẫn đầu đoàn quân tiến về giải phóng Hà Nội.
Chặng đầu lịch sử đấu tranh giải phóng của Việt Nam đã khép lại. Trong thời điểm phấn đấu này, không ai có thể đoán biết được thời gian phải chờ đợi cho đến khi kết thúc chiến tranh. Một cuộc chiến tranh kết thúc. Rồi một cuộc chiến tranh khác nữa kết thúc.
Chiến sĩ Giáp là ai? Tầm cỡ nào? Phải chăng như một số người Giáp chỉ là một sỹ quan có tầm hiểu biết của một Tổng chỉ huy được phong hàm đại tướng một hai ngày. Hoặc phải chăng là một người đã từng nghiên cứu sâu sắc khoa học quân sự trước khi hành nghề mới và có thể nhanh chóng vận dụng kết quả nghiên cứu vào thực hành có hiệu quả như ta đã biết. Thành công đó trước hết của ông, hoặc ông không phải là một ngôi sao đích thực trong những thắng lợi bị quên lãng trong các phẩm vô danh? Ông ở vị trí nào trong các khái niệm của chiến sĩ của ông? Ông đã là nhà tư duy quân sự đến độ nào?
Chỉ có nhân dân Việt Nam giúp cho chúng tôi trả lời được câu hỏi này, bởi vì không có một vị tướng nào, dù xuất sắc hoặc may mắn đến mấy cũng không thể một mình thu được thắng lợi. Chính là bản chất nhân dân được quân đội tuyển chọn, và động cơ mãnh liệt giành chiến thắng của quân đội.
Làm sao giải thích được người Việt Nam có thể chiến đấu dai dẳng trong một thời gian dài với bấy nhiêu sức lực? Tại sao cuối cùng họ đã thắng hai nước lớn?
Hiểu được nhân dân, người ta hiểu được quân đội, người ta giải thích được thắng lợi.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Mon Dec 24, 2012 4:48 pm
Chương 3: Nước Việt Nam ra đời
Lịch sử của chúng tôi bao giờ cũng chỉ biết đấu tranh. Đấu tranh chống quân xâm lược nước ngoài, hầu như lúc nào cũng mạnh hơn chúng tôi, đấu tranh chống chọi với thiên nhiên. Vì không đi đâu được nữa, chúng tôi đã tự tạo cho mình một hệ thống thần kinh cực kỳ ổn định. Chúng tôi không bao giờ hoảng sợ. Mỗi khi có tình thế mới chợt đến, nhân dân lại tuyên bố: “Kìa, mọi chuyện lại bắt đầu!”.
Phạm Văn Đồng
Đặc điểm hình thể nước Việt Nam là những dãy núi cao rừng rậm khó vượt qua chiếm giữ biên giới phía tây. Ở phía Bắc cũng núi cao rừng rậm bao quanh lấy châu thổ sông Hồng để tạo thành biên giới với Trung Quốc và Lào; ở giữa những dãy núi ấy uốn cong về phía đông: sườn núi kéo ra tận biển ở nhiều nơi. Cuối cùng chúng vòng về phía tây và thấp dần xuống phía nam vẽ nên đường biên giới Campuchia. Dọc theo chiều dài biên giới, rất nhiều động vật hoang dã sống dày đặc trên những ngọn đồi nóng và ẩm có tán lá cây dày che khuất ánh sáng: nào hổ, nào voi, nào báo, nào gấu và cả muỗi rừng mang vi trùng sốt rét. Chính những chướng ngại núi non ấy ở giữa đã ngăn cách con người miền Bắc và miền Nam không gần gũi nhau được.
Con sông Hồng bắt nguồn từ Trung Hoa. Nó chảy qua mười ba trăm kilômét trước khi đổ ra Vịnh Bắc Bộ. Hà Nội ở hai bên bờ sông. Hải Phòng là bến cảng ở cửa sông. Lưu lượng nước sông đổ ra biển khoảng bốn nghìn mét khối nước trong một giây, đến mùa mưa khối lượng tăng lên bốn mươi lần. Hai bên bờ sông có đê cao nên trước có những chỗ cao hơn Hà Nội vài ba chục centimét: hằng năm, đê thường bị vỡ và dẫn đến lũ lụt khủng khiếp kèm theo đói kém mất mùa từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.
Ở phía Nam biển Đông là một vịnh rộng nhưng không sâu ở giữa những dãy núi. Trải qua hàng thế kỷ, phù sa sông Mêkông bắt nguồn từ Tây Tạng chảy dài bốn nghìn năm trăm kilômét, lấp dần vịnh tạo nên một vùng châu thổ rộng lớn và màu mỡ với những dòng kênh cắt ngang, có khả năng cho thuyền bè đi lại trên bốn nghìn tám trăm kilômét (Hiện nay đất liền vẫn lấn ra biển mỗi năm dăm chục mét). Theo dòng chảy, sông Mêkông vẽ nên biên giới Thái Lan và Lào, chảy qua Campuchia rồi chia thành hai nhánh chính và nhiều nhánh phụ vào một hồ lớn ở Campuchia và tràn vào đất Việt Nam. Sông Mêkông ít nguy hiểm hơn sông Hồng: hiếm thấy lụt lội và đói rét ở miền Nam.
Trải dài theo sườn Đông của châu Á, khí hậu Việt Nam chịu ảnh hưởng của gió màu, gió đầy mây mang đến theo mưa bão tàn phá dọc ven biển. Về mùa hè, khí hậu miền Bắc và miền Nam gần giống C, nhưng mùa đông°C, ở Sài Gòn là 32°nhau, nhiệt độ trung bình ở Hà Nội là 30 C. Trên những°C trong khi ở Sài Gòn là 27°nhiệt độ trung bình ở Hà Nội là 16 vùng cao ở miền Bắc hiếm khi có tuyết, mùa khô hoàn toàn không có tuyết, ngay cả sườn núi Phăng Xi Păng, đỉnh cao nhất của Việt Nam cao 3.150 mét. Trong những tháng mưa của mùa hè, lượng mưa trung bình ở Sài Gòn và Hà Nội là 178 milimét nước, gần gấp 3 lần lượng mưa hàng năm ở Parí và gấp 2 lần ở New York.
Trước khi người Việt giành độc lập, hệ thống xã hội thuộc chế độ phong kiến phương Bắc: những quan thái thú và con cháu họ thu tóm quyền lực toàn bộ trên các lĩnh vực: tôn giáo, quân sự và hành chính: họ chiếm giữ ruộng đất và biến nông dân thành nông nô của họ. Đứng đầu thiên triều là một vị vua, người đã chiến thắng tất cả các đối thủ. Vua chia đất nước thành vùng lãnh thổ quân sự có các quan thái thú đứng đầu, duy trì một chế độ bảo hộ rộng rãi của Trung Quốc mà không can dự vào phong tục địa phương.
Cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân chống lại người Trung Quốc là cuộc nổi dậy của chị em Bà Trưng năm 39 sau Công Nguyên. Trưng Trắc là một phụ nữ quý tộc có chồng bị quân Trung Quốc giết vì nổi loạn. Em là Trưng Nhị dẫn đầu nhiều lãnh chúa và quân của họ tấn công quân Trung Quốc. Sau khi đánh dẹp được quân Trung Quốc, hai chị em cưỡi voi dẫn đầu đoàn người Việt Nam reo hò, tuyên bố làm Vua nước Việt Nam độc lập. Nhưng vương quốc của hai bà chỉ tồn tại ba năm: Vua nhà Hán đã phái một đội quân đi lập lại trật tự cho Trung Quốc. Hai bà đã nhảy xuống một dòng sông ở Hà Nội tự tử. Ở đó còn đền thờ để ghi nhớ công ơn hai Bà.
Đầu thế kỷ thứ X, trận thất bại năm 939 đã kết liễu nền đô hộ của Trung Quốc, nhân dân Việt Nam đã chọn năm đó là năm mở đầu nền độc lập của mình. Nhưng chủ quyền của Việt Nam phải trả giá bằng máu. Quân Trung Quốc quay trở lại năm 1057, phải bốn năm chiến đấu oanh liệt mới đẩy lùi được bọn chúng. Năm 1257, một đạo quân Mông Cổ tiến vào Hà Nội, nhưng cũng phải rút quân. Một đạo quân khác đánh chiếm châu thổ sông Hồng năm 1284 và ba năm tiếp theo một đạo quân nữa. Nhưng tất cả quân Nguyên xâm lược đều bị quân đội Việt Nam đánh bại.
Đến thế kỷ XX, Võ Nguyên Giáp viết: “Sự kết hợp giữa bộ đội chủ lực và các lực lượng địa phương bắt nguồn từ chiến lược hai mặt trận phía trước và phía sau cùng tấn công quân địch của cha ông ta để lại. Thọ binh là quân chủ lực, thương binh là các đội quân chủ làng xã do các lãnh chúa phong kiến tổ chức ra để duy trì chế độ phong kiến là một nội dung cơ bản để thực hiện các trận tiến công của quân đội Việt Nam với quân Pháp và quân Mỹ.
Tướng chỉ huy cuộc nổi dậy trong các thời kỳ trung cổ khó khăn trên là Trần Hưng Đạo, ngày nay được tôn thờ như một trong những vị anh hùng kiệt xuất của lịch sử Việt Nam. Giáp viết: “Đó là một vị anh hùng dân tộc đã dạy bảo về sự thống nhất của dân tộc: “giặc vào nhà, đàn bà cũng đánh”. Đó là một sự thật xúc động nhưng rất gần gũi trong cuộc sống và đấu tranh của đất nước và những cuộc đấu tranh yêu nước đã từ lâu là những cuộc nổi dậy của nhân dân, những cuộc đấu tranh của nhân dân”.
Năm 1407, quân Trung Quốc đời nhà Minh xâm lược Việt Nam một lần nữa. Những ông chủ mới ra sức khai thác đến cạn kiệt các nguồn lợi của đất nước, lại định ra những phép tắc khắc nghiệt để hòng phá hoại tinh thần dân tộc Việt Nam: giấy căn cước được cấp phát cho mọi công dân để tăng cường kiểm soát; các trường học chỉ có thể dạy tiếng Trung Hoa; việc thờ cúng tổ tiên bị bãi bỏ; các nhà văn không được viết sách; phần lớn các tác phẩm bị thu về Trung Quốc hoặc bị đốt; phụ nữ phải ăn mặc như trang phục phụ nữ Trung Quốc và đàn ông phải để tóc dài. Đúng là các phép tắc trên tỏ ra không có tác dụng và còn tăng thêm các khuynh hướng dân tộc. Cuối cùng quân Minh cũng phải rút lui về, để lại trong nhân dân Việt Nam một mối căm thù trong thời gian dài. Nhưng hòa bình-như đã chứng minh trong các thời kỳ-chỉ là một khoảng cách giữa hai cuộc chiến tranh: đất nước phải chịu đựng những thời kỳ xung đột nội bộ của thủ lĩnh các bộ lạc chống đối nhau. Thời cơ thuận lợi các thủ lĩnh thành lập nên những triều đại trên cả hai vùng châu thổ và miền Trung nối liền Nam Bắc.
Đến thế kỷ XVII, các nước châu Âu bắt đầu bành trướng chủ nghĩa thực dân. Đông Nam châu Á là vùng đất rất thèm khát của chủ nghĩa đế quốc, nhưng lại khó khăn trong việc buôn bán với Việt Nam. Vì ở đó đang tồn tại ba học tộc: Tây Sơn, Trịnh và Nguyễn. Tất cả ba đều muốn có vũ khí hiện đại để đánh bại lẫn nhau và đều muốn buốn bán với châu Âu. Họ đã cho phép những người truyền đạo kèm theo các nhà buôn. Năm 1672 các cuộc chiến tranh nội bộ tạm châm dứt, tình thế đã thay đổi.
Những quan hệ với phương Tây bị kịch liệt phản đối: một chi nhánh của Hà Lan thành lập năm 1637 ở Hà Nội đến năm 1700 bị đóng cửa; người Anh đến năm 1762 phải cuốn gói sau 25 năm. Chi nhánh của người Pháp mở ra 1680 cũng cùng chung số phận. Sau năm 1700, chỉ có người Bồ Đào Nha là có thể đứng chân ở một điểm. Về phía mình, các quan lại thấy quyền lực bị vi phạm vì sự truyền bá đạo cơ đốc, bắt đầu giết các tu sĩ và con chiên Việt Nam lúc bấy giờ có khoảng 10% dân số. Trong khoảng 400 năm, ảnh hưởng của người ngoại quốc đối với Việt Nam rất hạn chế.
Đối với Võ Nguyên Giáp “nước Việt Nam là một trong những cái nôi của nhân loại. Các dân tộc Việt Nam có tiếng nói riêng, họ đã tổ chức được một nền kinh tế theo hệ thống chính trị xã hội, tạo lập được những phong tục đạo đức và văn hóa và phát triển như một ý thức hệ dân tộc”. Một điều chắc chắn là nhân dân Việt Nam đặc biệt đoàn kết thống nhất. Vì hai lý do cơ bản: phần lớn đất nước có đến hàng triệu gia đình đã tiến hóa qua các thế kỷ và đã biết di dân, ở Việt Nam chỉ có vài trăm dòng học kết hợp với những dân tộc khác nhau như họ Ngô và họ Nguyễn: con người luôn là thành viên của một đại gia đình thuộc cùng một dòng họ. Mặt khác những truyền thống đạo Nho đã đưa vào đây 2.500 năm, thái độ với quan chức và sự chia sẻ trách nhiệm cùng theo một mẫu mực giống nhau. Quyền hành thuộc về người đứng đầ bộ lạc, ông ta giao quyền cho các quan chức, các quan giao quyền cho hội đồng làng xã, và hội đồng truyền đạt đến gia đình. Đạo đức của mọi người là bắt buộc phải tuân theo quyền hành của người chủ gia đình.
Đất nước có đến hàng triệu làng xã, một số làng gồm nhiều xóm. Hội đồng làng xã gồm những công dân quan trọng nhất như các địa chủ và quan lại nghỉ hưu, chỉ giải quyết những công việc xảy ra ở địa phương: xử lý tội phạm, thành lập sổ thuế và thu thuế, và các công việc lao động công ích. Hầu như làng nào cũng có quỹ hội tự cấp mà người dân đóng góp để thanh toán các chi phí tang ma. Cũng có những hội bách nghệ: thợ rèn, thợ mộc, thợ nề lập nên những quy tắc nghề nghiệp, cũng như hội phật tử của phụ nữ già cả tuổi quá 50 hoặc những phụ nữ quá chồng 40 tuổi.
Mỗi làng còn có một tổ chức nghĩa hương giúp đỡ các gia đình cô đơn, nghèo túng ở châu thổ sông Hồng. Nông dân trồng trọt tạo thành một quỹ dự phòng. Số dôi ra được án đi, tiền lãi cứu tế người nghèo. Mùa màng thất bại, gạo được phân phát đồng đều cho người dân làng. Cũng có những hội chơi như chọi gà, đánh cá. Làng xã là một thực tế tồn tại về tổ chức xã hội và kinh tế.
Gia đình là đơn vị quan trọng, đơn vị hành chính cơ bản. Chính gia đình chứ không phải cá nhân đóng thuế. Chính gia đình chứ không phải thành viên trong gia đình là đối tượng thống kê. Họ là một nhóm người cùng lao động tạo thành một đơn vị kinh tế “1 bếp, 1 đèn”. Là nơi thờ cúng tổ tiên. Là nơi phân xử mọi tranh chấp. Họ tôn trọng lệ làng (luật lệ quốc gia hiếm thấy được đi vào cuộc sống, một vài trường hợp luật lệ cũng phụ thuộc vào tình hiếu thảo trong gia đình: Khi cha mẹ già yêu cầu có mặt con ở nhà thì một người con bị giam giữ cũng có thể được trả tự do).
Về phương diện lịch sử, người Việt Nam biết tôn trọng tín ngưỡng của người khác. Hệt hống xã hội của họ dựa trên cơ sở đạo đức chứ không phải tôn giáo. Họ ưa chuộng công bằng trong xử thế. Họ cố gắng phấn đấu cho hạnh phục trên trần thế mà không quan tâm mơ tưởng ở thiên đường cao xa. Họ đã không phải hoàn toàn là tín đồ của Phật giáp, Nho giá hoặc Đạo giáo. Họ thực hiện những nguyên tắc chung của cả 3 tôn giáo: lòng tin ở tính thiện của con người, tin ở sự giải thoát của chính mình nhờ tự biết mình và nhờ tìm kiếm sự hài hòa trong bản thân mình để đạt được “3 con đường đều dẫn đến một mục đích”. Không có mệnh lệnh của giáo hội, không có giáo sĩ, họ tôn thờ trí tuệ của tổ tiên theo những tục lệ do già làng điều khiển. Ở vùng nông thôn, người ta chôn người chết bên bờ ruộng để cho linh hồn của người chết hòa nhập vào cơ thể muôn đời con cháu mai sau qua hạt gạo củ khoai. Đối với chùa chiền miếu mạo, mỗi làng thường có một đình thờ thần thành hoàng, đồng thời là nơi trung tâm sinh hoạt của nhân dân.
Cũng có phong tục còn bí ẩn. Người Việt Nam quan niệm rằng trong xã hội có những phần tử chống đối cần phải tránh xa còn hơn là kiểm soát chúng. Khi một tổ chức không còn lý do để tồn tại công khai thì phải rút vào bí mật: hoạt động bí mật không những cần thiết cho tổ chức mà cả đối với hội viện, ít ai biết được ban lãnh đạo hội.
Người Việt Nam thường dùng nhiều tên gọi trong cả đời mình (khai sinh có 3 tên: tên thứ nhất là họ ví dụ Nguyễn, tên thứ hai chỉ giới của con người: văn có nghĩa là đàn ông. Ba là một phụ nữ đã có chồng. Cô là phụ nữa chưa chồng. Tên thứ hai là tên chính thức của mỗi cá nhân: Yên, Đồng, Giáp, Thục một phụ nữ có thể đổi tên khi cưới chồng, có người vẫn dùng tên cũ. Vì sự dễ dãi về tên họ như vậy, cho nên có những người dấu tên và do đó có khi còn lẫn lộn về họ tên. Hồ Chí Minh có không ít hơn 23 bí danh là trường hợp đặc biệt. Vì vậy hàng chục năm trong cuộc đời của Người vẫn còn bí ẩn.
Bí ẩn và bí mật càng được kính trọng hơn. Quyền lực khó đạt được nhưng dễ mất đi, tốt hơn hết là tránh xa những truyện bí mật. Càng ít tìm tòi càng có nhiều dịp thành công. Những người khác không cần phải biết rõ vị trí của mình. Không có câu truyện nào thực sự chuẩn xác (ở Việt Nam không ai ngăn cấm việc thay đổi lập trường, miễn là phải có 1 thời hạn nhất định). Một con người nhiều mưu mẹo, giả dối, thích những hoạt động bí mật có khi lại được kính nể.
Năm 1788 quân Trung Quốc định sang xâm lược nhân cơ hội một cuộc khủng hoảng nội bộ mới. Nhưng họ bị quân Tây Sơn đánh bại ở miền Bắc đất nước, miền mà người Việt Nam gọi là Pắc Bó. Trong khi quân Tây Sơn đang phải chống chọi với quân Trung Quốc ở miền Bắc để bảo vệ nền độc lập của Việt Nam, thì ở miền Nam quân của chúa Nguyễn Ánh nhờ sự giúp đỡ của người Pháp đã kiểm soát được Sài Gòn và châu thổ sông Mêkông Nam bộ. Nhiều thủy thủ Pháp và nhân viên quản lý hành chính người Pháp đã được một cố đạo cố vấn hàng đầu của Nguyễn Ánh tuyển mộ. Nguyễn Ánh lên làm vua ở Huế năm 1802 gọi là vua Gia Long và thống nhất Bắc Trung Năm dưới cái tên cũ Việt Nam. Các vua đời sau trị vì đến năm 1954 đời vua cuối cùng là vua Bảo Đại.
Đầu thế kỷ 19, người Pháp đang mải lo cuộc chiến tranh của Napoléon ở châu Âu. Trước năm 1985 họ vẫn chưa tìm được một thị trường cho nền kỹ nghệ phát triển của họ. Đến mùa hè năm đó, 2.500 quân Pháp dùng mười bốn tàu thủy nhỏ cập cảng Đà Nẵng, ở miền Trung Việt Nam. Tất nhiên một sự chống đối kịch liệt ngăn cản họ tiến sâu vào hơn nữa.
Muốn cưỡng bức nhà vua chấp nhận một cơ sở mới của người Pháp ở Đà Nẵng; phải chiếm được thành phố Huế, nhưng họ không dùng đường biển được. Không có tàu đáy phẳng để ngược dòng sông Hương, người Pháp đành dùng biện pháp phong tỏa. Các cơn bão nhiệt đới nhanh chóng tàn sát hàng loạt quân lính Pháp, người nhiễm bệnh vượt qua số người bị thương trong chiến đấu: đã đến lúc phải có phương án giải quyết. Tháng 2 năm 1860 họ để lại một đồn canh nhỏ rồi lên tàu tiến về phía Nam chiếm Sài Gòn. Chưa đứng chân được một năm họ lại buộc phải ra đi. Năm sau họ mới trở lại thành phố. Tháng 6 năm 1861 quân viện từ Trung Quốc giúp họ kiểm soát được 3 tỉnh lân cận.
Chủ nghĩa bảo thủ truyền thống của vua quan cản trở việc đất nước sử dụng vũ khí hiện đại để chống lại quân xâm lược nước ngoài. Tháng 6 năm 1862 thua trận, nhà vua phải bỏ Sài Gòn và 3 tỉnh. Một năm sau, người Pháp đặt chế độ bảo hộ ở Campuchia, và thành lập cái gọi là liên bang Đông Dương, do một đoàn thuyền đóng ở Sài Gòn điều khiển.
Bốn năm sau, tất cả miền Nam Việt Nam gọi là Nam kỳ thuộc về tay người Pháp, họ thiết lập chế độ thuộc địa ở đó.
Tháng 4 năm 1882, Sài Gòn đưa một lực lượng quân sự ra Hà Nội. Mười sáu tháng sau, một hiệp ước ký kết quy định quyền lực của người Pháp trên toàn bộ Việt Nam, Bắc kỳ ở miền Bắc, Trung kỳ ở miền Trung đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Trên giấy tờ, Việt Nam đã bị chiếm nhưng phải mười bốn năm sau người Pháp mới có thể kiểm soát toàn bộ đất nước.
Khu vực Nhà Hát Lớn thời kỳ Pháp thuộc.
Năm 1893 họ chiếm nước Lào và bổ sung vào Liên bang Đông Dương (họ chiếm Campuchia và Lào với danh nghĩa ngày xưa hai nước này chịu sự kiểm soát của Việt Nam-chỉ thời kỳ trung cổ xa xưa nước Lào mới bị vua Xiêm cai trị).
Như vậy, người Pháp đã có một vương quốc ở phương Đông.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 7:37 am
Chương 4: Thế kỷ thứ XX
Chúng tôi đánh thắng, không phải da chúng tôi bằng thép, xương chúng tôi bằng đồng mà chính vì chúng tôi là những con người công bằng, trung trực, kiên nhẫn, mạnh mẽ, không chịu khuất phục và đầy lòng tự ái.
Lê Duẩn
Quá trình xâm lược của bọn thực dân đã diễn ra không có gì khó khăn, vì dân cuhngs không đông lắm, 80% sống trong những làng mạc hẻo lánh, mà hầu như dân chưa bao giờ ra khỏi làng. Việc giao thông đi lại rất khó khăn, đường sá không được rải nhựa (thường không thể đi lại trong thời gian có gió mùa); hơn nữa ra ngoài đường để làm gì khi làng đã cung cấp đủ mọi thứ cần thiết trong cuộc sống? Quyền lực trung ương thì ở xa, còn lòng tồn tại ngay trong bản thân mình: sau khi đánh chiếm ba thành phố lớn bọn thực dân buộc dân chúng hàng tháng trời không được thay đổi gì, dù họ có muốn. Và khi dân chúng đã nhận biết, họ có thể làm gì được? Cuộc sống cứ trôi đi theo thể thức truyền thống. Những cuộc nổi dậy chậm chạp và khó nhận thấy.
Song đã có nhiều thay đổi: ví dụ như hạt muối mọi người cần dùng phải đóng thuế, ai phản đối bị bắt giam. Kết quả là thiếu thốn và giá cả tăng gấp 10 lần thời kỳ tiền thuộc địa. Nông dân được khuyến khích trồng cây nha phiến để chế biến thuốc phiện. Quốc gia độc quyền bán cho người tiêu dùng Việt Nam và nước ngoài.
Sau một thế hệ, bọn thực dân Pháp ở Nam kỳ đã làm cho miền Nam giàu có thịnh vương so với nền kinh tế nghèo nàn của trung ương. Nhưng đến năm 1897, một quan toàn quyền mới làm thay đổi căn bản mọi thứ. Muốn biến Việt Nam thành một thị trường có kiểm soát để giao lưu hàng hóa Pháp và một nguồn cung cấp quý về gạo, than và cao su, Paul Doumer đã phớt lờ quy chế bảo hộ đối với Bắc kỳ và Trung kỳ, thiết lập quyền lực trực tiếp của người Pháp trên toàn bộ đất nước Việt Nam, áp đặt nền chính trị lao động công ích: đường sắt, cảng, đường bộ, kênh đào, cầu cống… và cải thiện một bước hạ tầng cơ sở của đất nước. Ông tuyển dụng hàng nghìn người Pháp để thực hiện quyền cai trị, trả công cho số công chức ít ỏi của Việt Nam số tiền phụ cấp quá thấp so với người Pháp cùng làm một công việc.
Tù nhân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1902)
Trong chín trăm năm độc lập trước khi Pháp đô hộ, nền kinh tế Việt Nam hầu như dựa hẳn vào nông nghiệp. Cũng có những người thợ, người đánh cá và thợ mỏ nhưng phần lớn nhân dân làm nghề nông cày lúa để nuôi sống gia đình. Việc trao đổi buôn bán trong nước cũng như ngoài nước là không đáng kể. Rõ ràng những ngành nghề là không cần thiết vì phần lớn làng mạc và cả đất nước có thể sinh sống tự cấp tự túc trừ những lúc xảy ra đói kém. Giai cấp địa chủ không phát triển để có thể cạnh tranh quyền lực với vua quan. Khi người Pháp đưa vào cách khai thác các nguồn lợi của Việt Nam, có thể làm xuất hiện một giai cấp nào đó, thì các vua quan hiểu rằng những cải cách kinh tế có thể đe dọa quyền lực của họ và họ quyết bám lấy trật tự cũ.
Về phần mình, người Pháp không muốn làm đảo lộn xã hội vốn có, dù có phương án có thể được chấp nhận, do đó nền kinh tế ở nông thôn cứ giữ nguyên như vậy hàng thế kỷ mà không có thay đổi gì. Các nhà buôn muốn giữ giá nhân công bản xứ ngang mức nền kinh tế nông thôn nhưng bán sản phẩm ngang mức kinh tế thành thị. Họ rất ít chịu kỹ nghệ hóa đất nước trong khi hàng trăm người Việt Nam được đưa sang mẫu quốc để xuống dưới hầm lò. (Và có đến hàng chục nghìn người trong đó đã đến làm việc ở nước Pháp trong chiến tranh thế giới).
Từ khi người Pháp đến xâm chiếm Việt Nam, cuộc sống của phần lớn người Việt Nam càng khó khăn hơn. Trong nửa thế kỷ từ năm 1880 đến năm 1930, diện tích ruộng đất tăng gấp bội lần. Vụ lúa thu hoạch hàng năm vượt qua 284 triệu tấn đến gần một triệu tấn rưỡi, nhưng người nông dân được ăn ít gạo hơn chưa kể đến thức ăn chẳng có gì. Các công trình thủy lợi lớn chủ yếu ở châu thổ sông Mêkông nơi yêu cầu diệntích đất đai rộng lớn. Ruộng đất không được phân phối cho những địa chủ nhỏ hoặc bần cố nông. Cuối cùng ruộng đất lại vào tay những kẻ đầu cơ người Pháp, họ bán lại với giá cắt cổ cho những người Pháp hoặc người Việt Nam lắm tiền. Hậu quả là nông dân không có ruộng phải cày cấy thuê cho địa chủ Việt Nam.
Những cố nông này phải trả cho địa chủ sáu mười phần trăm thu hoạch mùa màng. Họ không có khả năng nuôi gia đình, phải chịu lao động cật lực hơn để có được ít cơm vào bát và tăng thêm phần lợi cho chủ.
Lính Đông Dương thời Pháp thuộc
Số nông dân có ít ruộng cũng không khá hơn, họ phải trả cho địa chủ bốn mươi phần trăm thu hoạch mùa màng và sau khi trả nợ cho bọn thương lái Trung Quốc và bọn Pháp bóc lột, họ chỉ còn lại mười lăm phần trăm tiền đi chợ. Họ phải đi vay nợ thường xuyên và khi họ không trả được nợ thì ruộng đất của họ lại bị chiếm mất. Do đó số địa chủ nhỏ càng ngày càng thu hẹp lại. Đến cuối kỷ nguyên thuộc địa, số đại địa chủ ở Nam kỳ khoảng 2,5% dân số, chiếm giữ hơn 45% ruộng đất.
Khi người ra nghĩ rằng chế độ thuộc địa chỉ đem lại lợi ích duy nhất cho người Pháp, thì hận thù của lịch sử lại tập trung vào những chủ kinh doanh tư nhân người Pháp và một số ít địa chủ Việt Nam được lợi nhiều từ chế độ thuộc địa: Không phải nhà nước Pháp, cũng không phải nhân dân Pháp được chia phần vào cai bánh ngọt ấy.
Trong khi phần lớn nhập khẩu của Đông Dương (nghĩa là Việt Nam, Campuchia và Lào) từ năm 1920 đến năm 1939 đều từ Pháp sang, thì chế độ thuộc địa không bao giờ chịu tổ chức một thị trường quan trọng cho công nghiệp Pháp, lý do đơn giản vì đông đảo nông dân quá nghèo không thể tiêu thụ sản phẩm của họ. Chế độ thuộc địa chỉ đem lại lợi ích cho một số ít người, đại diện cho không đến một nửa phần trăm dân số: chỉ có 6 hoặc 7 nghìn người Việt Nam có đất ruộng quan trọng, vài nghìn viên chức Việt Nam và tất nhoên bọn thực dân làm đủ cách để nhận lấy những gì đến từ nước Pháp.
Bắc kỳ chấp nhận qui chế bảo hộ từ thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Một vị công sứ cao cấp ở Hà Nội thực hiện quyền hành dưới danh nghĩa phó vua Việt Nam. Trung kỳ dưới chế độ bảo hộ gián tiếp: ở Huế có ngai vàng của nhà vua là kinh đô, nhưng mọi quyền hành được phân định bởi người Pháp. Nam kỳ thuộc sở hữu của người Pháp, có một quan cai trị thuộc địa.
Ở Nam kỳ người dân phụ thuộc vào các cấp chính quyền của người Pháp nhiều hơn hệ thống quan lại nên càng chịu ảnh hưởng nước Pháp nhiều hơn. Qua nhiều năm, Nam kỳ trở nên giàu có hơn miền Bắc: ở Trung kỳ và Bắc kỳ, những địa chủ chiếm ít hơn một nửa hecta đại diện cho 68,5% dân số, còn ở miền Nam, chỉ có 33,6% dân số chiếm ít hơn một nửa hecta; năm 1930 trên toàn Đông Dương, có 6.530 địa chủ chiếm hơn 600 hécta thì tất cả đều ở miền Nam; có 8.600 dân giàu có (những người có thu nhập hơn 5.500 đôla mỗi năm) thì 8.200 ở miền Nam. Nước Pháp theo đuổi một chính sách giáo dục để đồng hóa người Việt Nam hòng gắn chặt với nước Pháp, nhưng trong số 50% dân số miền Nam thì hơn một nửa có quốc tịch Pháp.
Dù sao cái hàng rào ngăn cách miền Bắc và miền Nam là thiên tạo, nhưng truyền thống và phong tục miền Bắc cũng rất giống với phong tục tập quán miền Nam. Có lúc nào đó, người dân miền Nam tỏ ra nông nổi ấu trĩ đối với những người láng giềng phía cho rằng họ hung hăng, khiêu khích, hằn thù, xảo quyệt và thích chính trị nhưng trước hết và trên hết vẫn còn đó những người Việt Nam kiên nhẫn chia sẻ chung với miền Bắc một cái di sản và một quá khứ, cùng dùng chung một ngôn ngữ và cùng một hận thù chống bọn can thiệp và đô hộ nước ngoài. Vì bỏ qua cái thực tế quan trọng đó nên đã dẫn đến cái chết và niềm thất vọng của hàng triệu con người.
Nước Pháp cũng như mọi thế lực thực dân khác đều kèm theo chế độ thuộc địa những khái niệm mới về tôn giáo, văn hóa và hành chính cho nd bị đô hộ. Đối với người Việt Nam tín ngưỡng là một sự xúc phạm, văn hóa khác là một thứ không cần thiết, họ vốn có tất cả từ xa xưa trước cả chính nước Pháp. Trái lại một số hiểu biết cần thiết không được nước Pháp coi trọng như tiếp xúc với y học, pháp luật, kinh tế, ngoại giao và kỹ thuật công nghiệp.
Nước Pháp đã xây dựng một nhà thờ lớn neogothique ở Hà Nội và một nhà hát lớn-một đáp lại-một đáp lại nhỏ nhoi của lâu đài Garnier có thể biểu diễn vở Berling và Biget. Họ xây dựng một nhà hát ở sg để biểu diễn các vở của Racine và Moilere. Họ khai thông những đường phố lớn để cải tạo hai thành phố lớn này như phố phường ở Paris. Họ mang đến rượu và điện, những trò trụy lạc và tiêm chủng, những thư viện, những bếp lớn, bẫy chuột, xe hơi và báo chí, cũng như những dụng cụ của hàng nghìn, hàng nghìn người Việt Nam làm thợ nề, thợ mộc, đầu bếp, làm vườn, người giúp việc, vú em, rửa bát để cung cấp cho những người trông nom biệt thự của họ xây dựng nên.
Khốn nỗi, nước Pháp lại mang theo họ cái tầm nhìn cấp trên, tính ngạo mạn đối với người bản xứ. Họ tin rằng đã làm đúng khi đưa đến đây một lối sống châu Âu và coi như đó là một phần thưởng không cần tổng kết. Nếu họ thấy được những chuyện họ đã làm gây nên nợ nần chồng chất trong chính cuộc sống của họ mà không phải trong người dân thuộc địa, thì chắc hẳn họ có thể tránh được những hậu quả tiếp theo sau này.
Thời đại và chân giá trị đã thay đổi. Ngày nay thật dễ dàng lên án bọn thực dân, nhưng cũng cần hiểu rằng họ đã thể hiện một đầu óc lớn lao về kinh doanh. Khi bỏ nước Pháp ra đi với hai bàn tay trắng đến một đất nước xa xôi. Nhiều người đã lao động cật lực.
Họ phải cố gắng thích ứng với một khí hậu khắc nghiệt làm hao tổn sức khỏe của họ. Họ có nguy cơ nhiễm các bệnh nhiệt đới vô cùng đa dạng. Họ đã chấp nhận xa gia đình trong nhiều năm và trải qua hai năm trên biển cả để đến được Việt Nam.
Mặc dù vậy, họ đã làm được nhiều việc. Ví dụ người ta chưa thấy hết lợi ích của việc đào tạo chuyên gia: nước Việt Nam thuộc địa chỉ có hai bác sĩ cho một trăm nghìn dân, so với Philippin là 25, Nhật Bản là 16. Hơn nữa, mẫu quốc đã tỏ ra dè xẻn trong việc chi tiêu ngân sách để cai trị thuộc địa, do vậy, tiến bộ thật sự chậm chạp và hầu như không nhìn thấy.
Nhân dân Việt Nam nhận biết nhiều tất xấu của chế độ thuộc địa Pháp đối với bản xứ, vì họ đâu phải ngớ ngẩn mặc dù nghèo và thất học. Sự chống đối ắt là không tránh khỏi.
Năm 1908 sau khi các nhà hoạt động yêu nước bị bắt giam hàng loạt, hội Phục quốc Việt Nam ra đời. Đó là một tổ chức vô chính phủ, quá tập trung chẳng có tác động lâu dài. Năm 1927, một đảng dân tộc của Việt Nam, Việt Nam Quốc dân đảng được thành lập ở Bắc kỳ do một thầy giáo 23 tuổi Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Đảng tổ chức một cuộc bạo động vũ trang trong các đồn lính Pháp hy vọng đuổi được bọn Pháp đi, nhưng đến ngày thực hiện lời kêu gọi, binh lính Việt Nam giết sỹ quan Pháp rồi lại bị họ giết hết ngày hôm sau. Trong vụ khủng bố tiếp theo hàng trăm người bị giết, hàng nghìn người khác bị bắt giam, còn Nguyễn Thái Học và mười hai nhà lãnh đạo khác bị bắt và xử tù. Việt Nam Quốc dân đảng thực tế đã bị phá vỡ ở Việt Nam, nhưng còn tiếp tục tồn tại 15 năm ở Trung Quốc hoạt động lưu vong dưới sự yểm trợ của những nhà cách mạng dân tộc ở Quảng Đông Trung Quốc.
Năm 1929 có 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Một do Trần Văn Cung sáng lập gọi là An Nam cộng sản liên đoàn. Một đảng khác được thành lập năm 1925 gọi là Thanh niên cách mệnh đồng chí hội. Đảng này tập họp ngay được một nhóm ở Trung kỳ. Tháng 5-1930, để chống lại nạn đói đang hoành hành ở miền Trung, những người cộng sản tổ chức một cuộc nổi dậy của nông thông trên diện rộng, “Xô viết” được thành lập trong nhiều tỉnh ở Trung kỳ, các địa chủ và quan chức Việt Nam làm việc cho Pháp đều bị giết. Pháp nắm lại quyền kiểm soát Trung kỳ mùa xuân năm 1931. Trong hai năm 1930 và 1931, 699 người Việt Nam bị bắt không xử án, 83 người bị xử tử, 546 bị giam tại chỗ và khoảng 3.000 người bị bắt đến các trại tập trung.
Quan toàn quyền công bố với nhân dân Pháp với giọng lạc quan: “Chủ nghĩa cộng sản có đủ lực lượng chống lại trật tự công cộng đã biến khỏi Việt Nam”. Đến cuối năm, đảng phải lúc thoái trào, trong đảng có khuynh hướng lầm lẫn địch ta: hoạt động có lúc nhằm vào dân, có lúc nhằm vào bọn thực dân. Mặc dù phong trào yêu nước đang trong tình trạng khó khăn, những người cộng sản vẫn giữ thế tấn công, vì họ càng đoàn kết và được tổ chức tốt hơn để chuẩn bị tiếp tục đấu tranh.
Ở Hồng Kông năm 1930, do mật thám Pháp đưa tin, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) bị người Anh bắt giam hai năm, nhưng đã quá muộn. Tháng Giêng, ông đã tổ chức được một hội nghị thống nhất ba nhóm cộng sản và thành lập một đảng mới Đảng Cộng sản Đông Dương (?) ở Côn Minh đồng thời có chân ở Thái Lan và Malaysia. Ông xuất bản một tờ báo mới của Đảng tờ Tiến lên. Tờ báo trở thành tiếng gọi đoàn kết binh lính ở Việt Nam. Đảng cộng sản Đông Dương được tổ chức ở trong nước và ngoài nước. Đảng chia đất nước thành 3 miền Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, rồi đến các khu, tỉnh và huyện. Đảng tập hợp những người có cùng lợi ích chung: nông dân, công nhân, sinh viên, phụ nữ, người già; ở nước ngoài có đại diện ở Côn Minh và ở phía Đông đến Thượng Hải. Sự trong sạch của chủ nghĩa, sự gắn bó với tổ chức, kỷ luật sắt và lời thề danh dự không phản bội, tạo thành một mẫu mực của Đảng để thử thách với thời gian mà không có thay đổi lớn.
Cuối năm 1931 có khoảng một nghìn năm trăm đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng có đến hàng chục nghìn người cảm tình đảng. Người Pháp rất dè chừng những người yêu nước Việt Nam, vì người Việt Nam rất căm thù bọn thực dân Pháp, trong khi những người cộng sản được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh và hứa hẹn với nhân dân sẽ có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục bất công. Năm 1932 hòng thoa dịu phong trào, người Pháp cho ra đời một đảng chính trị đầu tiên tổ chức ở Sài Gòn, đảng mới xây dựng đã chịu ảnh hưởng của một tổ chức tôn giáo nhỏ-giáo phái Cao Đài-giáo phái này từ chối hoạt động chính trị và đảng cũng biến mất. Trong những năm trước chiến tranh thế giới II, Đảng cộng sản Đông Dương là tổ chức cách mạng duy nhất ở Việt Nam, mà đảng viên có kỷ luật và lý tưởng nghiêm chỉnh. Họ đại diện cho lực lượng mạnh nhất của phong trào đấu tranh đòi độc lập.
Năm 1936, sau khi Chính phủ Mặt trận bình dân ở Pháp chấp nhận một số quyền dân chủ cho nhân dân thuộc địa, bộ máy của Đảng cộng sản hoàn toàn được xây dựng lại, tuyên truyền rộng rãi ảnh hưởng trong tầng lớp trí thức, giai cấp cônn nhân, nông dân và tổ chức ra mặt trận. Ở Bắc kỳ, đảng hoạt động dưới danh nghĩa Mặt trận dân chủ Đông Dương do hai nhân vật chưa ai biết lúc bấy giờ: Phạm Văn Đồng - Thủ tướng tương lai và Võ Nguyên Giáp - Đại tướng tương lai, lãnh đạo.
Du nhập vào Việt Nam chiến tranh và tính chất dân tộc, nhân dân Việt Nam là một dân tộc có tác phong công nghiệp, thông minh và dũng cảm, nhưng thể hình bé nhỏ: đàn ông cao trung bình 1,55 mét và cân nặng 54 đến 58 kilô; đàn bà nhỏ nhắn hơn, ít người cao quá 1,45 mét và cân nặng không quá 45 kilô.
Nhân dân gần 90% dân tộc người Việt cũng như người miền Nam Trung Quốc, đó là người Mông Cổ. Còn lại 10% là những dân tộc bị người Việt đẩy ra khỏi vùng châu thổ và bắt buộc sống trên vùng rừng núi. Các dân tộc này còn bé nhỏ hơn người Việt-người Pháp gọi là dân miền núi-Những năm ba mươi, có khoảng một triệu người gồm khoảng 33 họ tộc như Giơrai, Ê đê, Nùng, Mèo, Thái (người Thái có Thái trắng, Thái đen ngày xưa phân biệt bằng màu sắc váy của phụ nữ Thái).
Miền Nam có 12 đến 13 triệu dân, trong số đó một triệu là người Trung Quốc, 350.000 người Campuchia và từ 500.000 đến 750.000 người miền núi. Miền Bắc cũng phân bố dân số tương tự như miền Nam, với tỷ lệ người Trung Quốc và người miền núi tương đương.
Những bộ tộc người miền núi sống hoang sơ. Người Việt Nam cho rằng họ thuộc thời kỳ đồ đá. Ở phía Bắc họ nói tiếng gốc Trung Quốc, trong khi ở phía đông nam họ nói tiếng gốc Mon-Khmer, với một số từ vay mượn của Trung Quốc. Các tộc họ này gắn với linh hồn đồ vật họ thờ cúng.
Lúc ban đầu, tiếng Việt rất lạ tai đối với người phương Tây, một loại ngôn ngữ nghe như tiếng chim ríu rít, âm họng, mũi, khàn, viết cùng một dạng chữ với người Trung Quốc có đến hàng nghĩ từ. Năm 1627, một vị giáo mục, cha Alexansde Rhodes đã đến Việt Nam trong một phái đoàn tôn giáo ở Nam kỳ hay đúng hơn ở Faifo một chi nhánh của Bồ Đào Nha. Ông học tiếng Việt vài tháng và sau hơn 1 hoặc 2 năm, ông đã chuyển chữ nôm thành chữ quốc ngữ thành công bằng cách dùng chữ latinh. Ngày nay người phương Tây có thể đọc tiếng Việt được nhưng phát âm khá phức tạp. Hơn nữa một số từ có đến bảy nghĩa tùy theo lúc sử dụng vào lúc cần nhấn mạnh.
Về tổng thể Việt Nam có một số vấn đề đặc hữu cần dùng nhiều dự án lớn: 90% lao động phải làm việc để nuôi sống còn lại của dân số. Về địa lý hai phần ba đất nước là rừng núi, chỉ còn 5% đất đai trồng trọt được, gần như ít ruộng đất cày cấy được nhất trong các nước trên thế giới. Còn 75% dân số ở châu thổ sông Hồng; dưới thời thuộc Pháp, châu thổ cũng là nơi có nhiều địa chủ nhất châu Á: 98% nông dân cày cấy ruộng của họ, nhưng 60% tá điền không có đến nửa hécta. Trong nửa thứ hai của thế kỷ XX hàng nghìn người bị đàn áp và giết vì đấu tranh chống bất công này.
Trong những năm 30, tôn giáo có vai trò quan trọng trong cuộc sống của nhân dân Việt Nam. Tuy vậy, thiên chúa giáo là một sản phẩm nhập cảng, nhân dân không tin tưởng (đến 1850 các con chiều đều bị khắc chữ “tà đạo” vào má trái bằng sắt nung đỏ). Gần 10% dân số theo đạo thiên chúa phần lớn là dân miền Bắc. Trong những năm50, khi Ngô Đình Diệm chiếm quyền tổng thống miền Nam, mới làm đảo lộn vị trí đạo thiên chúa ở miền Nam. Đạo Phật tự thân có mâu thuẫn: một mặt đối với chính trị không có gì quan trọng, nhưng mặt khác đối với thân phận con người lại rất quan trọng, đó là quan hệ chính trị. Trong những năm tiếp theo, chính sách của tổng thống nên Phật giáo mới xâm nhập vào đời sống chính trị ở miền Nam.
Đó là nơi chàng trai Võ Nguyên Giáp trưởng thành. Nhìn chung, mỗi người đều lo công việc của mình theo phong tục truyền thống-vâng lời, trật tự, tự lập, gia đình, tươi cười và lễ phép. Nhưng trong dân chúng tiềm ẩn một lòng căm thù sâu sắc, yêu cầu dùng cách mạng bạo lực để đấu tranh đòi hỏi một nền độc lập mà nhân dân được hưởng đầy đủ các quyền lợi hợp pháp.
Đối với người Việt Nam, lịch sử không phải là cơn ác mộng làm cho họ phải thức giấc; mà đó là món quà dâng lên tổ tiên, đó là sự hiện diện của tổ tiên. Tổ tiên đã đấu tranh cho độc lập, con cháu sau này cũng phải tiếp tục chiến đấu như vậy để khỏi phục lòng tin của tổ tiên.
Niềm tin ấy cộng với lòng yêu nước, sự tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản đã hình thành một quyết tâm lạ kỳ, một trí tuệ chiến thắng trong một tổ hợp không thể dập tắt được.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 8:26 am
Chương 5: Người Pháp quay trở lại
Nếu nổi dậy là một nghệ thuật, thì nghệ thuật ấy có mục đích tạo cho cuộc đấu tranh một hình thức phù hợp với địa vị chính trị.
Võ Nguyên Giáp
Lịch sử Việt Nam chỉ là một dãy dài những cuộc náo động. Quân đội tiến và lùi. Những đợt sóng binh sĩ vấy máu nối tiếp nhau vỗ vào lũy tre làng, đập vào hòn đá tảng của giai cấp nông dân, hôm nay, ngày mai và ngày kia nữa, để lại phía sau những xác người và động vật, những bát cơm vơi đi; binh sĩ ngã xuống như một giấc mơ và chỉ xuất hiện lại ở thế hệ mai sau: một cơn ác mộng tái diễn và mờ mờ ảo ảo bất ngờ xuất hiện trong một đêm sâu. Theo dòng tuổi tác, người Việt Nam đã biết giáo, gươmg, mút kê, súng trường, súng máy và lựu đạn; trong vòng 30 năm lại đây họ có thể bị giết hoặc bị thương vì mìn nhảy, lựu đạn có cánh, bom sát thương, napalm, tên lửa và tên lửa điều khiển bằng lade, và họ cũng có thể bị tiêu diệt vì loại mìn mặt đất có thể di chuyển cả những quả núi và đẩy đi ở độ cao mười nghìn mét trong bầu trời xanh, sáng sủa và im lặng.
Ba trăm năm trước, nước Việt Nam bị chia thành hai hoặc ba phần: chia thành hai khoảng năm 1600 và thành ba trong thời kỳ các triều Vua Tây Sơn (1788-1802), được thống nhất đầu thế kỷ XIX để rồi lại bị người Pháp xâm chiếm Nam kỳ trước tiên và những năm sau họ áp đặt cho các tỉnh giàu có này một chế độ đô hộ khác với Trung kỳ và Bắc kỳ. Khi đề cập đến tương lai của Đông Dương cũng như của Việt Nam, Đồng minh quyết định cắt từ vĩ tuyến 16 trở lên, trong kế hoạch chờ đơi những quyết định tiếp theo. Những người họp hội nghị Potsdam tháng 7 năm 1945 hy vọng các vùng bị bảo hộ sẽ nhanh chóng giành được độc lập, còn miền Nam trước mắt vẫn giữ nguyên chế độ thuộc địa và sẽ giành độc lập sau.
Những quyết định của hội nghị Potsdam bắt nguồn từ ác cảm sâu sắc của Tổng thống Roosevelt đối với chế độ thuộc địa. Niềm tin này không phải căn cứ vào thực tế sinh động của thế giới trong những năm 40 mà vì một nguyên tắc cơ bản của chính sách ngoại giao xuất phát từ cuộc nổi dậy chống quân Anh trước đây một trăm năm mươi năm. Không hiểu hết sự bất bình đối với quyết định của ông, Roosevelt đã biếu Việt Nam cho Tưởng Giới Thạch người lãnh đạo phong trào dân tộc Trung Quốc. Quà tặng bị từ chối một cách nhã nhặn: Tưởng nói rằng: “Người Việt Nam không phải là người Trung Quốc; họ luôn luôn khác hẳn chúng tôi; họ luôn nuôi chí căm thù lịch sử; họ không bao giờ hòa nhập vào Trung Quốc và sẽ khó khăn cho việc cai trị họ”.
Về phía mình, sau khi quân Đức rút đi, tướng De Gaulle đã thành lập được một Chính phủ lâm thời ở Paris. Miễn cương ông chấp nhận ý tưởng chia cắt Đông Dương, nhưng không nghi ngờ gì về tương lai của Đông Dương: người Pháp sẽ quay lại ngay sau khi người Nhật rút đi.
Trong thời gian Đức xâm chiếm châu Âu, những thuộc địa của Pháp là mồi ngon cho quân Nhật. Sau những trận đánh dồn dập ở Thái Bình Dương, quân đồn trú Nhật Bản được nhiều năm sung sướng, nhàn nhã. Nhưng chiến tranh ở châu Âu kết thúc, các quân đồn trú này phải chịu đựng toàn bộ sức nặng của một cuộc tấn công tổng lực của quân đội Đồng minh (quân Pháp không được tiết lộ về vũ khí nguyên tử cầu viện). Một khi người Nhật bị bại trận, các đội quân Nhật rút đi, nước Pháp tuyên bố quyền sở hữu đối với các thuộc địa trước chiến tranh. Biết rằng quân Trung Quốc không dễ dàng chấp nhận sự có mặt của quân Pháp ở Đông Dương như người Mỹ, De Gaulle đành chịu để cho quân Tưởng vào Bắc kỳ, Trung kỳ và quân Anh vào Nam kỳ để giám sát quân Nhật rút lui.
Vào lúc này, ngày 28 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp cùng binh sĩ của ông vượt cầu Doumer (Long Biên) cái cầu nhô lên trên mặt nước đỏ nâu của sông Hồng Hà và tiến vào Hà Nội. Ba mươi nghìn lính Nhật đang đóng quân trong thành phố và vùng ven đô không cản trở. Họ biết rằng cuộc trở về của đoàn quân sẽ có thể làm tăng thêm tình trạng hỗn độn của thành phố, vì đoàn quân sẽ kích động và hướng dẫn toàn thể nhân dân nổi dậy chống lại các lực lượng nước ngoài: bọn chiếm đóng Nhật Bản cũng như các quan chức mất tinh thần cuối cùng của chính quyền Pháp. Trước hết, vì nhân dân muốn được làm chủ đất nước.
Hàng nghìn người xuất hiện trên các đường phố lân cận và phá tan hàng rào của Bắc Bộ phủ, chỗ ở cũ của công sứ Bắc kỳ. Giáp kể: “Cuộc nổi dậy được nhanh chóng mở rộng và trong khoảng mười ngày chính quyền của thuộc địa và phong kiến không còn nữa. Các đội quân trở thành những đơn vị của giải phóng quân, của các lực lượng tự vệ và vô số đội du kích. Cách mạng đến như một luồng gió xoáy. Nỗi nhục nhã và nỗi đau của cuộc đời nô lệ hầu như bị quét sạch hoàn toàn trong ba ngày, chính quyền cách mạng thật kỳ lạ: nó làm cho nhân dân sống lại. Đêm qua, thành phối còn bị tê liệt vì đói, vì dịch bệnh và sợ hãi. Giờ đây, mỗi đường phố, mỗi ngõ chật ních người. Hàng nghìn, hàng nghìn người biểu tình trên các đường phố cách mạng được thành lập. Chính quyền nhân dân cách mạng được thành lập. Trộm cắp biến mất, không tìm thấy người ăn xin. Rất nhiều lá cờ đỏ sao vàng tô thắm màu hồng sáng chói nhà cửa và đường phố. Cách mạng thật sự là ngày hội của những người bị áp bức. Đó là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin trong một nước thuộc địa và nửa phong kiến” (Những chặn đường lịch sử, trang 233. Nhà xuất bản chính trị quốc gia).
Sự náo động say sưa ấy không chỉ vì việc giải phóng khỏi ách bóc lột dai dẳng của chính quyền Pháp và sự chiếm đóng ngu xuẩn của quân Nhật mà còn bắt nguồn tự sự hoảng sợ. Vì miền Bắc, đang khổ sở vì nạn đói khủng khiếp. Quân Nhật quyết định tống giam các viên chức người Pháp chịu trách về công tác thủy lợi, đặc biệt dọc theo bờ sông phía Nam Hà Nội, để việc trông coi mực nước vào tay những công dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm. Những trận mưa lớn đến, họ mở cống rộng quá, hàng núi nước vượt qua đê không được củng cố giữ gìn chu đáo, phá hoại hết ruộng đất, hủy hoại hết mùa màng của tám tỉnh trong mười bốn tỉnh ở miền Bắc bị ngập lụt.
Nạn đói đã cướp đi mạng sống của năm, sáu trăm nghìn người. Giá gạo tăng quá mức, đặc biệt ở Hà Nội và nhân dân không bao giờ được ăn no, nằm chết đói trên đường. Giáp viết: “Nước lên cao trên tất cả các sông ngòi. Các con đê do chính quyền thuộc địa bỏ mặc đã bị dòng nước phá hủy, sáu tỉnh của vùng châu thổ, vựa lúa của miền Bắc Việt Nam bị ngập lụt” (Sđd, trang 222).
Tình trạng hỗn độn là không tránh khỏi: một mặt những viên chức người Pháp đang tiếp tục bị giết trong các trại giam, còn mặt khác người Nhật coi như người điều hành đất nước lại đang trong trạng thái mơ hồ, không có sự lãnh đạo của Tokyo, hai quả bom nguyên tử ngày 6 và 9 tháng 8 đã kết liễu chính quyền ở đó. Điều phải làm ngay hiện nay là đưa Việt Minh lên nắm chính quyền hợp pháp để lấp chỗ trống, trước khi bọn Nhật hoặc quân Đồng minh có thời gian hoạt động.
Về đến Hà Nội, sau khi bố trí xong các quân đội, Giáp đến ở nhà một người cảm tình ở phố Hàng Ngang, ở đó Giáp được tin Hồ Chí Minh đang trên đường về Hà Nội, do một phân đội biệt động Quang Trung của Giải phóng quân hộ tống, nhưng phải nằm trên cáng vì tình trạng sức khỏe kém. Trước đây ít lâu, Giáp đã có một đêm thức bên cạnh Hồ Chí Minh nằm trên giường bệnh bằng tre trong một lán nhỏ ở Tân Trào, và bây giờ ông đang trở về Hà Nội. Giáp kể: “Hồ Chí Minh đã một mình bôn ba khắp các miền của trái đất, sau khi rời khỏi cái nhà tranh nhỏ ở Kim Liên, cách Hà Nội 300 kilômét, ông phải mất hơn ba mươi năm mới đến được Hà Nội (Sđd, trang 221). Vài ngày trước đây, Hà Nội chỉ có chợ đen, cuộc sống rất bấp bênh, không có đủ xe bò để chở người chết đói đi chôn chung vào những hố ở vùng ngoại ô. Ngoài các cửa ô, từng đoàn người bị đói từ nông thôn kéo vào. Họ không đứng vững trên đôi chân, cuộc sống như chiếc lá vàng trên cây mùa đông. Chỉ cần người cảnh sát đẩy nhẹ là họ đổ xuống và không bao giờ đứng dậy được nữa” (Sđd, trang 222).
Hôm sau ngày 29 tháng 8 năm 1945, trong khi các quan Nhật vênh váo lượn quanh khách sạn Metropole vừa đi vừa gõ roi ngựa vào đôi dày da, hết hy vọng về mệnh lệnh từ Tokyo, và binh sĩ của họ vừa hút thuốc lá vừa chờ đợi trong các trai lính gần thành nội-nơi đồn trú của lính Pháo trước đây-thì Cụ Hồ Chí Minh nắm quyền kiểm soát Việt Nam và thành lập Chính phủ đầu tiên của Cụ.
Hy vọng người Pháp chấp nhận một sự đã rồi, và có thể tập hợp những nhóm yêu nước khác nhau dưới sự lãnh đạo của Cụ, Cụ Hồ Chí Minh đã mời vào Chính phủ những thành viên không mác xít, độc lập và thiên chúa giáo. Võ Nguyên Giáp được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, bộ quan trọng nhất chịu trách nhiệm phát hiện nguyên nhân của những vụ lộn xộn và bắt đầu cải tạo xã hội theo những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản: hết chiến tranh, Cụ Hồ muốn đưa Giáp vào con đường hoạt động chính trị. Chu Văn Tấn người chỉ huy đội cứu quốc quân, đang chỉ huy một phân đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Lễ đài tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945
Ngày 2 tháng 9, trước vài trăm nghìn người gồm một nửa dân số thành phố ồn ào và náo nhiệt, tập hợp ở Quảng trường Ba Đình, trên lễ đài Cụ Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, nhắc lại những câu nói lịch sử của tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ: “Mọi người có quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Cụ đã yêu cầu một người lính Mỹ của OSS viết vào một mảnh giấy cho Cụ. Võ Nguyên Giáp đọc một bài diễn văn dài về những vấn đề chính trị, kinh tế và những vấn đề khác, đề cập cả đến những chính sách đối ngoại nhấn mạnh đến quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc và Liên Hiệp Quốc. Giáp còn nói thêm: Mỹ là người bạn tốt của Việt Nam.
Sau này, Giáp đã tả cảnh này:
“Hà Nội tưng bừng máu đỏ. Một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa. Cờ bay đỏ những mái nhà, đỏ những rặng cây, đỏ những mặt hồ. Biểu ngữ bằng các thứ tiếng Việt-Pháp-Anh, hoa chăng khắp các đường phố: “Nước Việt Nam của… người Việt Nam”, ”Độc lập hay là chết”, “ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Các nhà máy, các hiệu buôn to nhỏ đều nghỉ việc. Chợ búa không họp. Mọi hoạt động buôn bán, sản xuất của thành phố tạm ngưng. Đồng bào thủ đô già, trẻ, gái, trai đều xuống đường. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị chủ tịch của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra mắt đồng bào như một lãnh tụ đầu tiên xuất hiện trước đông đảo quần chúng. Đó là một cụ già gầy gò, trán cao, mắt sáng, râu thưa. Cụ đội chiếc mũ đã cũ, mặc áo kaki cao cổ, đi dép cao su trắng. Hai mươi bốn năm làm chủ tịch nước, trong những ngày lễ lớn của dân tộc, trong những cuộc đi thăm nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất hiện với một hình ảnh giản dị không thay đổi. Vẫn bộ quần áo vải trên ngực không một tấm huy chương, y như lần đầu Bác đã ra mắt đồng bào”.
Quang cảnh Lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945
Ngày 7 tháng 9, sau nhiều cuộc thảo luận với Giáp xung quanh một ngọn lửa trại, Cụ Hồ đổi tên giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn-quân đội nhân dân-và tuyên bố thành lập một Bộ Tổng tư lệnh gồm những sỹ quan ưu tú và phụ trách việc điều hành toàn bộ quân đội. Bộ Tổng tham mưu này phải: “thống nhất, bí mật, linh hoạt, chính xác và nhanh chóng, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù”. Có 3 bộ phận riêng biệt:
- Một Tổng cục Chính trị thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp chặt chẽ mọi mặt đời sống quân sự của Đảng, tổ chức hệ thống chính trị viên ở mọi cấp chỉ huy cho đến trung đội.
- Một Bộ Tổng tham mưu bao gồm các cơ quan huấn luyện, kế hoạch tác chiến và thông tin liên lạc.
- Một Tổng cục Hậu cần bao gồm vận tải (lúc đầu chưa có xe thì dùng phương tiện bằng tay) và cung cấp thực phẩm, vũ khí và trang bị (kể cả sửa chữa) cùng công tác quân y.
Ngày 8 tháng 9, một hệ thống giáo dục quần áo (bình dân học vụ) ưu tiên 2, được thành lập để chuẩn bị cho nhân dân đi vào cuộc sống mới. Nhiệm vụ là giáo dục cho đại đa số quần chúng cơ sở tinh thần yêu nước. Từ trước đến bây giờ, mục đích chính của tuyên truyền là làm cho quần chúng nổi dậy đồng loạt, còn hiện nay là thấm nhuần việc thành lập một quốc gia cộng sản. Mao Trạch Đông đã công bố lý luận cơ bản: “Phải thuyết phục dần dần quần chúng bằng kết hợp với khủng bố tinh thần, vừa hăm dọa, vừa thuyết phục và dùng áp lực số đông. Việc lãnh đạo không có gì quan trọng như những giải quyết đầu tiên ấy”. Người Việt Nam cũng có những giải quyết ấy, nhưng không thiếu sự lãnh đạo mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.
Phải nghĩ đến bao nhiêu việc phải lo đến bao nhiêu vấn đề cẩn trọng, những tuần lễ đầu tiên hết sức bận rộn. Nói cách khác, Cụ Hồ Chí Minh hết sức lợi dụng những điều kiện đó; còn quân Nhật hết sức sung sướng, được rời bỏ mảnh đất này. Giáp nói rằng: “Bọn chỉ huy Nhật không muốn dùng quân của họ để lập lại trật tự” và họ không đủ khả năng quan tâm đến chỗ trống mà quân Pháp để lại khi ra đi vì chính bọn họ gây nên. Nắm lấy thời cơ, Chính phủ Hồ Chí Minh tổ chức ấn định các qui tắc, thành lập cảnh sát đầu tiên, áp dụng các luật lệ và xây dựng cơ sở của xã hội, Cụ Hồ giành cho dân tộc miền núi một số đại biểu trong đại hội quốc dân. Sau đó khoảng chục nghìn người trong số họ được gọi về Hà Nội để nhận một tổ chức: họ sẽ trở thành thầy giáo, bác sĩ và chuyên gia chính trị.
Mồng 9 tháng 9 năm 1945, thực hiện quyết định của hội nghị Potsdam, 152.000 binh sĩ của quân đội quốc gia Trung Quốc thuộc các quân đoàn 53, 60, 62 và 93 cùng với các sư đoàn độc lập 23, 39 và 93 do tướng Lư Hán chỉ huy vược bg, tiến sâu về phương nam để cuối cùng đóng lại quanh Hà Nội. Có rất nhiều lính Trung Quốc, họ xuất hiện như nạn châu chấu phá hoại đồng ruộng, chỉ làm tăng thêm sự thiếu hụt lương thực. Ở miền Nam, quân Anh cũng không thể mất thời gian tiến vào với những bước dài: ngày 12 một bộ phận sư đoàn Ân Độ số 20 do tướng Donglad Gracey chỉ huy tiến vào Sài Gòn (trong tổ chức quân đội Anh, có một số đơn vị người Anh và một số đơn vị người Ấn Độ do sỹ quan Anh chỉ huy lãnh đạo).
Đáng tiếc là người Anh đã cử đến đây một vị tướng của quân đội Ấn Độ, mặc dù lúc này đang có một vị đô đốc chỉ huy tối cao của tất cả lực lượng Anh quốc ở Đông Nam Á Loris Mountbattes có đủ thẩm quyền và được đánh giá cao đang ở trong tình huống thuận lợi đòi hỏi phải đối xử tế nhị. Vị tướng này đã quen đối xử với nhân dân thuộc địa nên có thể bị thành kiến: những tình cảm của ông dẫn đến việc nâng đỡ người Pháp và giúp họ thiết lập lại vương triều ở đây. Nếu sự việc rõ ràng và khách quan hơn, có thể sự kiện sẽ xảy ra khác đi. Vì vậy khi một phái bộ Việt Nam đại diện Chính phủ Hà Nội đến gặp ông, ông khinh khỉnh chỉ cửa vào, tỏ ra rất khó chịu về cuộc tiếp xúc nhỏ này và ông nhanh chóng mời họ ra ngoài.
Với thái độ khách quan Mountbattes đã ra lệnh cho Gracey tước vũ khí quân Nhật, giữ gìn trật tự; không phải thiết lập lại “vương triều của người Pháp”. Nhưng vì sức ép của quan năm Cédile, cao ủy Pháp ở Đông Dương, Gracey không hoàn thành nhiệm vụ. Ông ban hành luật quân sự, và lính Nhật đang bị giam giữ, sử dụng họ để kiểm soát nhân dân một đất nước không thể kiểm soát nổi.
Giáp kể:
“Đồng minh đã quyết định chia Đông Dương thành hai khu vực để tiến vào tước vũ khí quân đội Nhật Bản khi Nhật đầu hàng. Việc giải quyết quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào do quân đội Anh phụ trách; từ vĩ tuyến 16 trở ra sẽ do quân đội Tưởng Giới Thạch chịu trách nhiệm. Đương nhiên, trong việc hệ trọng đó, dân ta không được hỏi ý kiến. Do áp lực của Mỹ, Pháp đã bị gạt ra ngoài…
Trong nửa đầu tháng 9, gần 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào hầu khắp các tỉnh miền Bắc như một bệnh dịch…
Phái bộ Anh do tướng Gracey cầm đầu đến Sài Gòn, những đơn vị quân Anh, Ấn đầu tiên thuộc sư đoàn 20 theo đường biển lần lượt cập bến Sài Gòn. Chúng ra lệnh cho bọn Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát trong thành phố và đòi các lực lượng của ta phải nộp vũ khí. Ngay từ ngày đầu, quân Anh đã lộ rõ bộ mặt can thiệp. Ngày 20 tháng 9, tướng Gracey ra bản Thông báo số 1. Y khẳng định quyền duy trì trật tự của quân Anh, y ra lệnh cấm mang vũ khí và tuyên bố những ai vi phạm các quy định của y sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, kể cả xử bắn.
Bọn Anh tới chiếm trại giam, thả tất cả những tên Pháp, nhảy dù xuống nb sau này khởi nghĩa bị ta bắt và giữ lại đó. Một ngàn rưỡi lính lê dương Pháp của trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11 đã được bọn Anh đưa ra khỏi trại tù binh Nhật và trang bị lại. Sáng sớm ngày 23 tháng 9 bọn binh lính Pháp của trung đoàn 11 cùng một đơn vị lê dương mới từ Pháp sang được quân Anh, quân Nhật yểm trợ đổ xô ra các ngả đường. Chúng đánh chiếm các đồn cảnh sát của ta và bắn giết đồng bào. Những tên lính lê dương ở thuộc địa và những tên thực dân Pháp trước đây mấy tháng, ngon ngoãn đầu hàng quân Nhật đã tỏ ra vô cùng dã man trong việc tàn sát ngược đãi những người dân tay không… Trong không khí căm thù sôi sục, các chiến sĩ tự vệ và đồng bào Sài Gòn lập tức chiếm các vị trí chiến đấu, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược…” (Sđd, trang 254,255).
Hai tuần sau, đầu tháng mười, hai đại đội bộ binh Pháp, một đơn vị Commando và một trung đoàn xe bọc thép do tướng Leclerc chỉ huy đến Sài Gòn. Vài ngày sau, Chính phủ Anh cho rằng người Pháp phải nắm lại quyền lực ngày càng tốt: ở Luân Đôn và NewDelli người ta vừa được tin lực lượng bé nhỏ của tướng Gracey không thể làm chủ được tình thế. Vấn đề là sức bật của người Pháp, còn người Anh càng rút lui sớm càng tốt. Gracey chuyển tiếp tin tức đến tướng Leclerc. Và đầu tháng mười một, đô đốc d’Argenlieu đến Sài Gòn với nhiệm vụ cao ủy Đông Dương.
Vài tháng sau, tháng 2 năm 1946, trung đoàn bộ binh lê dương ngoại quốc số 2 (2.REI) đổ bộ vào Sài Gòn và đưa ngay vào Trung kỳ. Và trong 3 tháng hành quân khốc liệt chống bộ đội Việt Minh, trung đoàn mất hai trăm ba mươi người chết hoặc bị thương. Đến tháng tư, những đơn vị còn lại là trung đoàn bộ binh lê dương ngoại quốc số 5 (5.REI)-trung đoàn thoát khỏi tay quân Nhật khi chúng bắt giam người Pháp-từ Trung Quốc trở về được thành lập lại ở Sài Gòn. Cùng tháng ấy, những sĩ quan Anh cuối cùng cuốn gói: họ được thay thế bằng quân Pháp mang vũ khí và quần áo Anh quốc lượn khắp Sài Gòn với những đội hình mà người ta gọi là: “Do Chính phủ Hoa Kỳ cung cấp”.
Tướng Philippe Marie Leclerc vốn là một nhà quý phái, ông đã đổi tên (trước là Jean de Hantecloque) năm 1940 để đến gặp De Gaulle ở Luân Đôn tránh cho gia đình ở Pháp khỏi bị bọn quốc xã trả thù. Ông đã xây dựng được một đội quân (một quân đoàn) bổ sung vào lực lượng quân Pháp tự do ở Tachd, là vị chỉ huy đặc biệt trên cánh đồng Tunisie và dứng đầu sư đoàn xe bọc thép số 2 vào Paris tháng 8 năm 1944. Thieny d’Argenlieu đã phục vụ trong hải quân Pháp trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Thời gian ở giữa hai cuộc chiến tranh đó, ông ở trong một tu viện thuộc dòng Carmel. Giáp gọi ông là “Linh mục hoàn tục”. Đó là một con người khô khan, thiếu nhiệt tình, bè phái, với con mắt nhìn cuộc đời cứng nhắc. Một trong những ủy viên hội đồng của ông ta đã mỉa mai nói đó là một trong những người tinh anh xuất sắc nhất của thế kỷ XX. Việc nhanh chóng bổ nhiệm ông ta tỏ ra là một sai lầm đau xót.
Leclerc và d’Argenlieu bắt đầu tăng cường các đội quân Pháp và vội vàng gọi các viên chức ở các thuộc địa khác ở Viễn Đông đến, họ địnhh lập lại trật tự ở Nam kỳ trước khi xảy ra chiến tranh. Trong bốn tháng tiếp quân đội Pháp giao chiến nhiều trận với quân khởi nghĩa, ổn định được Sài Gòn và một số vùng châu thổ sông Mêkông. Tháng 2 năm 1946 d’Argenlieu tuyên bố rằng miền Nam đã được dẹp yên. Người Việt Nam lãnh đạo quân khởi nghĩa ở miền Nam Trần Văn Giàu dẫn vài nghìn người đi gặp các lực lượng của Giáp ở phía Bắc, để lại một số cán bộ vững vàng để thành lập trung tâm của cuộc nổi dậy sắp tới trong các làng mạc.
Cuộc hành quân về phương Bắc không phải dễ dàng. Việc di chuyển ở Việt Nam lúc bấy giờ cũng rất giống như ngày nay. Đi từ Hà Nội lên Điện Biên Phủ cách nhau hơn năm trăm kilômét ngày nay phải đi mất hai ngày rưỡi, phải vòng qua những đoạn đường cái sụt hỏng, phải khai thông một số lối đi giữa những đàn trâu bò ì ạch do trẻ em dẫn dắt, phải vòng vèo qua các phụ nữ hốc hác, chân trần gồng gánh với chiếc đòn gánh trên vai vừa đi vừa bóp còi vược các xe đạp, xe bò kéo và xe tải của thời đại cũ. Năm 1945 dẫn hàng nghìn binh sĩ từ Nam ra Bắc cách nhau tám trăm kilômét phải mất nhiều tuần lễ. Cuối cùng đoàn người của ông Giáp cũng nhập vào quân đội lớn mạnh của Giáp.
Đến tháng mười, Giáp cùng với nhà ngoại giao Pháp Jean Sainteny từ Pháp qua làm nhiệm vụ cao ủy Bắc kỳ đến Sài Gòn để gặp Leclerc. Hai con người không hiểu nhau, suốt buổi nói chuyện, ông Leclerc luôn tỏ thái độ coi thường, nhìn lơ láo và không tỏ chút chân thành mà lại hoàn toàn bất lịch sự khi ông ta phải đàm phán với một con người nhỏ nhắn buồn cười mặc một chiếc quần rộng thùnh thình, đầu đội mũ quá khổ. Đó là một cách đánh giá sai lầm thô lỗ đi đến hậu quả nặng nề: Leclerc không thể ở lại Đông Dương lâu nữa, người Pháp vừa chuốc lấy thất bại khi chống đối con người thứ ba của Chính phủ Hồ Chí Minh.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 8:44 am
Chương 6: Cuộc chiến tranh bắt đầu
Không phải một cuộc chiến tranh chống một đội quân, mà đó là một cuộc chiến tranh chống toàn bộ một dân tộc.
Tướng Philippe Leclerc
Thực tế Việt Nam hiện nay vẫn bị chia cắt làm hai. Điều đó không phải được quyết định vì những giải pháp tạm thời trong khi chờ đợi việc đàm phán cho tương lai của Việt Nam như hội nghị Potsdam đã quyết định, mà vì việc ra đi vội vàng của quân Anh, trước khi đàm phán bắt đầu khiến cho quân Pháp quay trở về Nam kỳ, và kiếm được các cương vị cũ của họ ở đó. Không phụ thuộc những gì xảy ra ở miền Bắc, miền Nam vẫn bị chia cắt trong gần ba mươi năm.
Ở miền Bắc, Chính phủ Hồ Chí Minh đang suy nghĩ thực thi quyền lực và nhân dân tỏ ra ủng hộ Cụ, còn những người Pháp thì có ý kiến khác. Dưới con mắy họ, quyết định của hội nghị Potsdam dựa trên giả thiết có một sự thỏa thuận chung về tương lai của Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc: họ không hiểu nổi một dân tộc thuộc địa lại có thể chiếm lấy quyền lực để làm chuyện đã rồi như dân tộc Việt Nam. Ở Paris chính phủ nổi giận về hoàn cảnh của học lúc bấy giờ-quyết tấm khôi phục cương vị trước chiến tranh của họ ở Việt Nam bị Cụ Hồ Chí Minh chống lại còn ở Hà Nội các viên chức người Pháp vừa được giải phóng khỏi trại giam cảm thấy nhục nhã trước cảnh tưởng người Việt Nam thực hiện nhiệm vụ hành chính một cách vụng về, vì họ chẳng có kinh nghiệm mà cũng chẳng biết yêu cầu của công việc. Người Việt Nam rất nghi ngờ ý định của người Pháp, nhưng không dùng vũ lực đuổi chúng đi được, họ bí mật tăng cường quân đội bằng cách đưa giấu vũ khí qua các cảng hoặc chế tạo lấy trong các công binh xưởng.
Tháng 11 năm 1945, hy vọng người Pháp công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là chính quyền hợp pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ, cũng như muốn dẹp bớt bọn nổi loạn-nhất là bọn quốc dân đảng được quân Tưởng yểm trợ, Cụ tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương. Cụ khẳng định đất nước Cụ có đảng của Cụ. Cụ xóa bỏ thuế muối, thuế thân đáng ghét, cấm sử dụng thuốc phiện, quốc gia độc quyền sản xuất rượu. Cụ lôi kéo cả giới giáo sĩ đạo thiên chúa và để chứng tỏ dân chủ có thể thực hiện ở Việt Nam. Cụ kêu gọi tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc.
Ngày 6 tháng Giêng năm 1946 gần 90 phần trăm cử tri đi bỏ phiếu-các ứng cử viên Việt Minh được số phiếu tuyệt đối. Ông Giáp về tỉnh nhà để tham gia ứng cử và bầu cử, ông đã trúng cử với tỷ lệ 90% số phiếu. Cụ Hồ đã bảo đảm cho Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đồng minh hội 67 ghế ở Quốc hội, cuối cùng họ chỉ đạt được 48. Và muốn chứng minh lòng chân thành của mình, Cụ chỉ giữ lại 3 Bộ trưởng của Đảng Cộng sản Sài Gòn cũ trong số 12 bộ trưởng của Chính phủ của Cụ. Ông Giáp bị đánh giá quá cứng nhắc và không mềm dẻo với bọn quân Tưởng nên không còn giữ ghế Bộ trưởng nội vụ và được cử làm chủ tịch hội đồng quân sự.
Không phải là một chức vụ tầm thường. Tháng 3 năm 1945, Việt Minh có khoảng 1.000 người có vũ khí đã kiểm soát được tám trăm nghìn dân trong vùng tự do và một phần ba Bắc kỳ với ba chục nghìn kilômét vuông đất đai. Tháng 6, Giáp đã thành lập được đơn vị tiểu đoàn đầu tiên; tháng 8 Giáp chỉ huy năm nghìn binh sĩ vào Hà Nội, vào cuối 1945 hơn năm chục nghìn người khác đã được tuyển chọn.
Nhiệm vụ đầu tiên của ông Giáp là trang bị vũ khí cho các binh sĩ mới. Ông đã dùng tiền quyên góp trong “tuần lễ vàng” do Cụ Hồ đề xướng khi Cụ về Hà Nội để mua ba chục nghìn súng trường và hai nghìn súng máy của Hồng quân Trung Quốc. (Cụ Hồ yêu cầu đồng bào đóng góp tiền bạc và của cải cho Chính phủ, vì ngân khố đang trống không. Phần lớn tiền quyên góp được-khoảng hai mươi triệu đồng bạc-phải cung cấp cho tướng Lư Hán để quân Tưởng không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và để cho Cụ Hồ được rảnh tay hoạt động). Ông Giáp đã phái Nguyễn Văn Cam và Trần Văn Giàu-sau này là lãnh đạo miền Nam-đến Hồng Kông và Bang Kok để đổi vàng, thuốc phiện và gạo lấy vũ khí đưa bí mật qua các cảng nhỏ ở miền Nam.
Ông Giáp còn tổ chức sản xuất vũ khí trong những “nhà máy” nguyên thủy và các xưởng rèn. Ở Thái Nguyên, một nghìn năm trăm chiến sĩ Việt Nam cùng làm việc với hàng trăm tù binh chiến tranh Nhật Bản thuộc số vài nghìn lính đào ngũ của quân đội hoàng gia đã đi theo Việt Minh: nỗi nhục đầu hàng là tội lỗi không thể tha thứ trong đạo luật của Võ sĩ đạo của các chiến binh Nhật Bản. Có lẽ vì vậy họ không muốn trở về đất nước họ. Ở Thái Nguyên mỗi ngày có thể sản xuất được 50 súng trường và 10 súng ngắn, mỗi tháng sản xuất được 3-4 súng máy phỏng theo kiểu các vũ khí hiện có trong kho.
Nhà máy thứ hai ở Quảng Ngãi. Ba trăm đàn ông và đàn bà làm việc ở đó dưới sự điều hành của một sĩ quan tham mưu Nhật Bản đào ngũ tên là Saito. Còn một xưởng ở Phú Thọ và một ở Tháp Mười, năm trăm công nhân làm việc với những người Nhật Bản và có cả vài người Đức thuộc quân lê dương ngoại quốc đào ngũ. Có một dãy núi ở Trung kỳ và miền Nam. Một vài công nhân Trung Quốc sản xuất vũ khí ở Trà Lĩnh trên biên giới Việt Trung. Ngoài ra còn có nhiều xưởng thợ thủ công của làng xã cũng sản xuất các phụ tùng của vũ khí mà không thể thực hiện sản xuất hàng loạt được. Giáp đã dùng mọi nơi lớn hoặc nhỏ thuận lợi để sản xuất vũ khí. Đó là một dẫn chứng về tài năng kỳ lạ của ông Giáp trong việc tổ chức, sử dụng và tuyển chọn những người dưới quyền.
Ở các tỉnh, các cán bộ tuyển chọn thanh niên để thành lập bộ đội địa phương. Bộ đội địa phương cũng tổ chức thành đơn vị thông thường nhưng không phải trả lương? (Cho đến năm 1950, dân thường không có ai phải tái ngũ, sau đó thì sĩ quan phải tái ngũ). Mặc dù Cụ Hồ đang hết sức cố gắng để thành lập một Chính phủ được người Pháp công nhận dù cho tương lai sắp tới sẽ như thế nào ông Giáp cũng muốn: “động viên, tổ chức và trang bị cho nhân dân để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh nhân dân”. Dù sao ngày ngày 26 tháng 3 Giáp cũng đã đọc một bài diễn văn ca ngợi quân đội Pháp: người ta có thể nghĩ rằng khi có điều kiện ông Giáp có thể trở thành nhà ngoại giao.
Đầu năm 1946 đại diện của Chính phủ Pháp đồng ý với đề nghị của Cụ Hồ, chấp nhận từ bỏ quyền cai trị Đông Dương trước chiến tranh để đổi lấy việc quân đội Tưởng rút khỏi Bắc kỳ và Trung kỳ. Quân Tưởng ra đi dọn đường cho quân Pháp tự do vào miền Bắc. Cùng lúc đó ngày 6 tháng 3, Sainteny thỏa thuận với Cụ Hồ Chí Minh ký kết một hiệp định cho phép hai mươi lăm nghìn quân Pháp được đóng ở miền Bắc chỉ trong 5 năm. Đổi lại Việt Nam trở thành một quốc gia tự do-một bộ phận của “Liên bang Đông Dương” trong khối liên hiệp Pháp-có chính phủ riêng, tài chính và quân đội riêng. Chỉ sau hai tuần lễ, để tăng tăng cường sự có mặt nhanh chóng của quân Pháp ở Đông Dương, một nửa lữ đoàn quân lê dương số 13 nổi tiếng vào miền Nam, ngay sau đó lữ đoàn lê dương số 3 và những quân tăng viện từ Pháp, châu Phi vào miền Bắc.
Quân lê dương đến Đông Dương từ 1883, họ rất bất mãn đối với người Việt Nam và rất kiêu ngạo khi làm việc với người Việt Nam. Chúng tung ra một chương trình can dự và phát triển. Bọn lê dương cũng đối xử rất nghiêm khắc đối với lính lê dương lọt vào tay Việt Minh: thiến, mổ bụng, đóng đinh, đó là những từ thông thường trong lịch sử của quân đội lê dương.
Chiến lược của người chỉ huy quân sự ở Việt Nam tướng Salan là giữ các thành phố bằng đội quân đồn trú và lấn chiếm vùng nông thôn bằng các đội tuần tiễu. Quân đội Pháp càng tiến sâu vào vùng nông thôn càng đòi hỏi quân số phải tăng lên từng ngày, tốt nhất là tuyển mộ người Việt Nam không được hưởng toàn bộ chế độ của lê dương ngoại quốc và phải đội cái mũ mềm trắng thay cho cái kêpi trắng truyền thống; họ được phân tán trong các đại đội khác nhau của các đơn vị Bắc Phi để chứng tỏ lòng trung thành của họ. Quân lê dương còn thành lập những lính dù Việt Nam để sử dụng linh hoạt trong chiến thuật. Tháng 11, từ Bắc Phi, tiểu đoàn dù lê dương nước ngoài mới nhất (1BEP) đến, tiếp theo tháng 2 năm 1947 là tiểu đoàn thứ hai.
Đối với Hồ Chí Minh, hiệp định mồng 6 tháng 3 là một bước tiến về phía trước. Cụ đã giải thích cho bọn ngoại quốc gia theo Trung Quốc và cho người Pháp rằng người Trung Quốc đã vào Việt Nam và ở lại một nghìn năm, không nên tạo cho họ một cơ hội mới nữa-nhưng sự hiện diện của quân đội Pháp cản trở nghiêm trọng nền độ clập sau này. Nhân dân đã phản ứng mạnh mẽ khi họ biết tin này. Ngày hôm sau, trước nhà hát, nơi hội họp truyền thống của thành phố, Cụ Hồ đã khẳng định tính đúng đắn của hiệp định trước vài trăm nghìn người. “Tôi xin thề tôi không lừa dối nhân dân, nhưng cách tốt nhất để tránh khỏi chiến tranh là đàm phán”.
Ông Giáp nghĩ rằng chỉ có dùng vũ lực mới có thể giành được độc lập, nhưng vẫn ủng hộ Cụ Hồ và đến lượt mình phải làm cho quần chúng bớt căng thẳng. Trong một bài diễn văn cảm động, ông khẳng định hiệp định cũng có mục đích như lúc Lênin yêu cầu quân Đức ngừn tiến công Nga trong chiến tranh thế giới thứ nhất; do đó mà những người cộng sản củng cố được quyền lực; ngày nay Việt Minh cũng củng cố được vị trí của mình nếu quân Pháp định ở lại đây lâu dài. Hiện nay chúng ta chưa sẵn sàng, phải có thời gian để chuẩn bị quân đội kháng chiến mới thắng lợi. Cuối cùng quần chúng giải tán mà chưa hẳn đã được thuyết phục hoàn toàn.
Thật ra quần chúng cũng có lý của họ. Sau khi quân Tưởng và quân Anh đã rút lui, Việt Nam trở thành vấn đề nội bộ của nước Pháp không liên quan đến quốc tế. Người Pháp tự do rảnh tay hành động, kể cả khi người Mỹ đang chú ý theo dõi các sự kiện xảy ra ở đây. Vì từ khi Liên Xô tăng cường ảnh hưởng ở phía Đông châu Âu, người Mỹ rất sợ sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản thế giới.
Ngày 18 tháng 4, ông Giáp dẫn đầu phái đoàn Việt Minh đến hội nghị Đà Lạt để bàn định những điều chi tiết cụ thể cho hiệp định mồng 6 tháng 3. Đà Lạt là vùng rừng núi có nhiều biệt thự rất thích hợp cho người Pháp nghỉ mát trong những tháng hè oi bức. Cuộc đàm phán không đi đến thỏa thuận, vì trái ngược với ý kiến của người Việt Nam về hiệp định Sơ bộ, người Pháp tuyên bố nhiều hạn chế nghiêm ngặt về quyền kiểm soát của người Việt Nam. Hình như người Việt Nam chẳng còn có quyền lực gì nữa ví dụ luật pháp, kế hoạch kinh tế và giao thông. Vì sự phản bội của người Pháp, Giáp về Hà Nội hai bàn tay trắng. Đến tháng 5, quân Tưởng bắt đầu rút về nước, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Theo một sĩ quan Pháp tham dự hội nghị Đà Lạt, ông Giáp bỏ mặc chuyện đàm phán. Người hơi nghiêng, miệng mỉm cười, ông kể cho chúng tôi nghe về thời trai trẻ của ông, vợ ông bị bắt và giết thế nào. Cuộc đời ông tàn tạ đến thế nào. Và ông tiếp tục: nhưng ông sẵn sàng quên hết mọi chuyện, đưa thẳng bàn tay ra, nuốt hết đau thương để dành hận thù cho những kẻ gây nên tội ác và không thể thống nhất với nước Pháp.
Ngày 31 tháng 5, Cụ Hồ Chí Minh cùng Phạm Văn Đồng đáp tàu đi Hải Phòng, hy vọng một cuộc đàm phán ở Pháp sẽ gặp được thái độ hợp lý hơn. Ngay ngày hôm sau, d’Argenlieu tuyên bố thành lập nước “Cộng hòa Nam kỳ tự trị”, như vậy quyền lực của miền Nam sẽ ở trong tay cao ủy Pháp. D’Argenlieu chắc rằng chia đôi được đất nước thì có thể áp đặt quyền đô hộ của người Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Ở Nam kỳ, người Pháp tiếp tục tăng cường lực lượng quân sự và tuyển mộ người Việt Nam để chống lại phong trào nổi dậy liên tục của nhân dân và đối phó với việc quân khởi nghĩa thanh chừng hơn ba trăm xã trưởng. Hiện nay quân Pháp đã có ba mươi nghìn lính Pháp và hơn sáu nghìn lính mới bản xứ. Một số lính mới này đã được phục vụ trong quân lực Pháp tự do ở châu Âu.
Ngày 12 tháng 9 ở Fontainebloau đã có một số thỏa hiệp nhượng bộ đối với Việt Nam, nhưng là những điều vô nghĩa, về thực chất không đạt được tiến bộ nào đáng kể. Ngày 13 phần lớn phái đoàn Cụ Hồ Chí Minh lên tàu thủy về Hải Phòng; nhưng cụ không muốn trở về tay không.
Ngày 14, Cụ gặp Thủ tuớng Chính phủ lâm thời Georges Bidault và yêu cầu ông ta có điều gì đó để trình bày với nhân dân Việt Nam. Ông Bidault đã hứa sẽ tổ chức trưng cầu dân ý ở Nam kỳ và tiếp tục những cuộc đàm phán năm sau.
Bí thư Tổng Quân ủy Võ Nguyên Giáp tuyên đọc Nhật lệnh của Quân ủy hội ngày 2/9/1946
Trở lại Hà Nội, ông Giáp không được nghỉ, ông đã đọc một bài diễn văn nhân dịp kỷ niệm một năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước quần chúng và một số đại biểu Pháp. Bên ngoài tình thế xem có vẻ bình thường, yên tĩnh, nhưng bên trong có rất nhiều chuyện nổi cộm.
Ngày 10 tháng 10 năm 1946, D’Argenlieu cho rằng cắt đứt con đường cung cấp là có thể chặn đứng việc vận chuyển vũ khí bí mật vào. Y ra lệnh cho cao ủy Pháp ở Bắc kỳ giành lấy quyền kiểm soát hải quan ở Hải Phòng. Ngày 15 khi người Pháp công bố quyết định này mà không giải thích, lập tức bị quần chúng phản ứng. Người Việt Nam phản đối việc người Pháp cướp quyền kiểm soát hải quan, nhưng người Pháp lại hành động cứ như chính phủ của họ lầm lỡ bỏ qua. Ở Hải Phòng, nhân dân xuống đường còn ở Hà Nội Giáp rất tức giận.
Ngày 20, một thuyền chở hàng cấm bị quân Pháp tuần tiễu bắt giữ. Trên bờ biển chiến sĩ Việt Minh bắn vào lính thủy Pháp. Quân Pháp bắn trả, trên hai mặt trận, quân lính vào chiến tranh chiến đấu và bắn vào nhau. Ngày 23 D’Argenlieu cho người chỉ huy hải quân Pháp sử dụng những biện pháp hữu hiệu để chấp hành mệnh lệnh của ông. Do vậy, tuần dương hạm Suffren sử dụng pháo binh hải quân và không quân bắn phá Hải Phòng. Phần lớn bom đạn rơi vào khu phố Trung Quốc. Có khoảng 6 nghìn người chết và mười bốn nghìn người bị thương. Một lần nữa phía Việt Nam không ai biết rõ số người thương vong.
Tình trạng ngày càng căng thẳng. Cụ Hồ Chí Minh đang trên con đường về Việt Nam. Ông Giáp là người thay thế chủ tịch, muốn can thiệp để giảm bớt căng thẳng nhưng không có hiệu quả. Tháng 11, Cụ Hồ về nước. Cả hai mặt trận đã sẵn sàng vào cuộc chiến, tiếng súng đã lan đến Hà Nội.
Ông Giáp kể:
“Quân Pháp bắt đầu đẩy mạnh những hoạt động khiêu khích tại Hà Nội. Bọn lính lê dương mũ đỏ kéo đi hàng bầy trên phố Tràng Tiền. Chúng xông vào các hiệu buôn, cướp hàng hóa. Chúng xé báo, xé ảnh trưng bày tại nhà thông tin. Có lần chúng giật cả một lá cờ Việt Nam treo trên đường. Lính tuần cảnh Pháp phóng mô tô bừa bãi giữa các phố đông. Chúng cố tình gây ra tai nạn và khiêu khích công an giao cảnh của ta… Có tên lính Pháp còn đứng trên nhà gác, chĩa súng xuống, bắn vào tàu điện đang chạy qua. Vòng xích xe bọc thép của Pháp ngày đêm nghiến mặt đường.
Ngày 7 tháng 12 quân Pháp ở Hải Phòng tiến hành một cuộc tiến công mới… quân ta chặn đánh kịch liệt. Cuộc tấn công thất bại.
Ngày 9 Pháp đổ bộ trái phép 800 lính lê dương vào Đà Nẵng một tuần dương hạm đến đó ngày 13. Ngày 14 Pháp đưa thêm 400 lính lê dương vào Hải Phòng…
Trên cả nước, đã dấy lên một phong trào phản đối bọn phản động Pháp. Tổng bộ Việt Minh thay mặt chín triệu hội viên, gửi thư ngỏ tới Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, yêu cầu Chính phủ kiên quyết bảo vệ chủ quyền, và tuyên bố sẵn sàng đem xương máu để giữ gìn từng tấc đất của ông cha. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, giáo viên… đều ra hiệu triệu kêu gọi các hội viên hăng hái góp phần cùng toàn dân phá tan âm mưu xâm lược của quân đội Pháp.
Đảng ta giữ vững quyền lãnh đạo tuyệt đối các lực lượng vũ trang và thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp đối với quân đội… Hàng ngũ dân quân du kích lúc này đã phát triển khá đông, tới gần một triệu người. Công việc xây dựng làng kháng chiến được tiến hành khẩn trương. Bộ đội và dân quân du kích luyện tập ngày đêm, ra sức nâng cao trình độ chiến đấu, sẵn sàng ứng phó với tình thế chiến tranh nổ ra.
Nhiều nhà máy, xưởng cơ khí của thực dân Pháp trước đây được chuyển thành xưởng quân giới. Với tinh thần của những người chủ mới, anh em công nhân cùng với những cán bộ kỹ thuật phần lớn xuất thân từ các trường kỹ nghệ thực hành của Pháp hăng say làm việc sửa chữa các loại súng và pháp hư hỏng. Chúng ta cũng bắt đầu sản xuất một số vũ khí cần thiết cho bộ binh, đạn, lựu đạn, mìn, bom ba càng…
Một hôm, sau cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, khi mọi người đã ra về, Bác hỏi tôi: -Nếu địch mở rộng chiến tranh trên miền Bắc, Hà Nội có thể giữ được bao lâu? Tôi thưa với Bác: -Có thể giữ được một tháng. Bác lại hỏi: -Các thành phố khác thì sao? -Các thành phố khác thì ít khó khăn hơn. -Còn vùng nông thôn? -Vùng nông thôn nhất định ta giữ được. Người suy nghĩ giây láy rồi nói: -Ta lại trở về Việt Bắc.
Một kế hoạch chiến đấu bảo vệ Hà Nội đã được vạch ra khá cụ thể… Hằng ngày, đồng bào kéo đến ủy ban khu phố đông nghịt, xin ghi tên vào các đội bảo vệ, cứuy thương, hỏa lực (nấu ăn). Phụ nữ cắt bỏ những chiếc áo dài tha thướt, cắt tóc ngắn, mặc quân phục vác súng, đeo gươm tham gia các cuộc tuần tra canh gác. Những người công nhân chuẩn bị khi cần thiết đánh đổ các tàu điện lên đường phố cản trở hoạt động chuyển quân của quân Pháp. Họ đào lỗ trên các gốc cây dọc đường để đặt mìn và khi cần cho đổ cây cản trở sự tiến quân của quân Pháp.
Từ trung tuần tháng 12, sự khiêu khích của quân Pháp ở Hà Nội chuyển sang một bước mới. Ngày 15 tháng 12, quân Pháp nổ súng ở nhiều nơi trong thành phố. Chúng bắn vào các chiến sĩ công an quận tám tại vườn hoa Hàng Đậu. Chúng ném lựu đạn làm bị thương hai chiến sĩ vệ quốc ở phố Hàm Long… sáng ngày 17 máy bay thám thính của Pháp lượn suốt buổi trên bầu trời Hà Nội. Mười giờ sáng, lần đầu, quân Pháp cho xe bọc thép tới phá những công sự của ta tại phố Lò Đúc. Bọn lính lê dương bắn nhiều phát súng cối vào phố Hàng Bún, có nhiều xe tăng và xe bọc thép đi kèm, kéo ra nhiều khu phố gần khu thành. Cùng ngày Bác Hồ đã nhận định… “Chúng ta đã nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng thì kẻ địch càng lấn tới. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta sẽ trường kỳ và gian khổ song nhất định sẽ thắng lợi”.
Chiều ngày 19, tôi đi thăm bộ đội. Dọc phố nhiều nhà cửa đóng kín. Một số cụ già và em nhỏ tiếp tục rời Hà Nội bằng xe tay. Trên xe những gói quần áo, chăn màn chất đầy trước, sau… từ trong ngõ những chiếc xe bò chở đất đang tiếp tục được đẩy ra. Thanh niên trai, gái vừa đẩy xe vừa vui vẻ la hét mọi người tránh đường. Thành đất đắp cao. Các chiến sĩ tự vệ đóng những cục gỗ và tiếp tục đắp đất vào chiến lũy. Một tổ úy lạo đang hát để động viên họ. Lớp người trẻ tuổi này đang khẩn trương chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù, còn rất xa lạ với chiến tranh. Nhưng qua câu chuyện với anh em, tôi đã thấy mọi người đang đón nó với nhiều lạc quan tin tưởng. Họ chưa biết điều gì xảy ra với họ ngày mai. Nhưng nhìn vẻ mặt của họ, ta biết rồi đây họ sẽ vượt qua mọi thử thách.
Từ đêm 19 tháng 12 chiến tranh đã lan rộng ra cả nước ta. Huế, Đà Nẵng, Nam Định… cũng đã vùng dậy chiến đấu cứu nước diệt thù.
Ngày 20 thán chạp, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đài tiếng nói Việt Nam truyền đi từ một địa điểm cách Hà Nội không xa. “…Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi: Đồng bào, chúng ta phải đứng lên!”.
Mùa đông năm ấy, 56 tuổi, với cây gậy trúc và đôi dép cao su, Người lên đường đi kháng chiến. “Cố rán sức qua khỏi mùa đông lãnh lẽo, thì ta sẽ gặp mùa xuân”, Người nói với tôi như vậy. Đó là một con người yêu nước vĩ đại. Tình thương yêu đối với đất nước, sự ân cần sâu sắc đối với nhân dân của Người thật không có biên giới. Người đã hy sinh suốt đời cho sự sống của dân tộc và sự giải phóng của nhân dân…
Đọc những dòng này và tính đến sự tôn thờ chủ nghĩa cộng sản gắn liền với nhân cách của con người thì có thể giải thích được tại sao những người khởi nghĩa lại chiến đấu cho nền độc lập của họ nhiệt tình đến như vậy.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 9:00 am
Chương 7: Những trận chiến đấu đầu tiên
Yếu tố quyết định thắng lợi trên chiến trường là làm cho quần chúng cách mạng sẵn sàng xông lên phía trước, sẵn sàng đổ máu, sẵn sàng hy sinh tất cả khi cần thiết, và sẵn sàng chiến đấu vì quyền lợi cơ bản của giai cấp và sự sống còn của đất nước.
Võ Nguyên Giáp
Việt Minh rời Hà Nội ngày 27 tháng 11 năm 1946 và trở lại Việt Bắc hay chính xác hơn vùng Bắc Cạn cách 130 km về phía Bắc. Ở đó họ tạo lập một vùng tự do cho biên giới không rõ ràng cho nên quân Pháp không thể đánh vào vùng biên giới Trung Quốc, và quá rộng lớn khiến quân Pháp không thể chia cắt được. Ngày 19 tháng 12 Việt Minh tuyên chiến với nước Pháp.
Ông Giáp có nhiều việc phải làm, ông lao vào công tác tràn ngập ý tưởng, nghị lực và nhiệt tình. Trước hết ông phải tuyển mộ thêm nhiều binh sĩ, trang bị và huấn luyện cho họ.
Việc tuyển mộ không thành vấn đề. Ở Việt Bắc, nhiệt tình cách mạng đã được tuyên truyền giáo dục cách đây hai năm vẫn còn nóng bỏng; một số cán bộ ở nguyên vị trí, họ tiếp tục hoạt động; chẳng bao lâu số người tuyển mộ được vượt quá con số vũ khí hiện có. Tất nhiên vùng căn cứ là vùng rừng núi, vùng của người miền núi và việc tuyển mộ trước hết trong các dân tộc thiểu số. Những người biết tiếng dân tộc được cử đến những vùng dân tộc đó để tổ chức vận động quần chúng, có thể cưới một cô vợ người dân tộc, để tuyển mộ tân binh ở trong làng và những vùng lân cận.
Còn vũ khí thì Việt Minh có thể tự sản xuất được một phần ba trong số 83 nghìn vũ khí đủ cho họ chiến đấu đến năm 1949. Một phần ba lấy của quân Nhật đầu hàng hoặc của OSS cung cấp và một phần ba còn lại mang được ở Thái Lan, Hồng Kông hoặc của quân Anh: sáu nghìn súng trường, bốn trăm súng máy, năm cao xạ nhỏ, hai trăm mìn và một nghìn lựu đạn. Ông Giáp có thể bổ sung vào kho vũ khí bằng các trận đánh thắng, thu được vũ khí từ tay quân Pháp. Năm 1946, ông cũng đi mua được mười hai nghìn đồng tiền phương tiện thông tin của Hồng quân Trung Quốc: như vậy rõ ràng ông đã có trong tay phương tiện, tuy còn hạn chế để kiểm soát và chỉ huy lực lượng vũ trang.
Về vấn đề huấn luyện, năm 1946 Việt Minh đã thành lập những trường sĩ quan và hạ sĩ quan ở Tổng, trên một cơ sở cũ của quân Pháp phía Tây Bắc Hà Nội, và ở Quảng Ngãi miền Trung Việt Nam. Cả hai cơ sở đều có giáo viên Nhật Bản người của tổ chức đoàn kết và ủng hộ nền độc lập của Việt Nam do trung tá Mukaiyaman thành lập. Cuối năm 1946 một nghìn năm trăm hạ sĩ quan ra trường, nhưng chỉ có vài trăm sĩ quan trong khi yêu cầu đến hàng nghĩ. Thật lạ lùng, theo tư tưởng chỉ đạo mác xít của Đảng, các sĩ quan không phải thi tốt nghiệp mà họ được lựa chọn trong số học sinh giỏi và tích cực nhất, động cơ tích cực luôn luôn được thuận lợi hơn khi đánh giá về năng lực hành động.
Sau khi lùi về chiến khu, nhiều sĩ quan và hạ sĩ quan khác được thành lập theo kiểu trường huấn luyện đầu tiên ở Pác Bó với những lán lợp lá cọ và sạp ngủ bằng tre thêm một cái bếp và một văn phòng. Các sĩ quan và hạ sĩ quan ra trường đều đến trung tâm thực tập rồi phân phối về đơn vị. Số đơn vị quân đội ngày càng tăng lên không ngừng. Mỗi khi việc sản xuất vũ khí đã đáp ứng yêu cầu tuyển mộ tân binh, một số người Nhật Bản rời xưởng máy của họ và theo bộ đội Việt Minh đi chiến đấu, thường phụ trách các loại vũ khí nặng: súng cối, súng máy và vài cỗ pháo binh hạng nặng do quân đội Việt Nam lấy được của quân Nhật đầu hàng.
Tất nhiên trong các nhà trường, đều có giảng dạy về những lý luận cơ bản của chủ nghĩa cộng sản và đường lối lãnh đạo của Đảng cùng với sử dụng vũ khí và luyện tập chiến thuật. Nhiều khẩu hiệu dễ hiểu và dễ nhớ có thể làm cho những trí óc chậm hiểu nhất vẫn có thể nắm được những nội dung cơ bản.
Võ Nguyên Giáp nhà nghiên cứu và vận dụng lý luận chủ nghĩa cộng sản vào điều kiện Việt Nam đã viết:
“Cuộc chiến tranh giải phóng là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt trong đó chúng ta phải tự lực cánh sinh là chính, vì chúng ta rất mạnh về chính trị nhưng yếu về vật chất kỹ thuật, còn kẻ địch rất yếi về chính trị nhưng mạnh hơn về vật chất kỹ thuật.
Chiến tranh du kích là cách đánh của một cuộc chiến tranh cách mạng dựa trên chủ nghĩa anh hùng để chiến thắng vũ khí hiện địa. Đó là cách nhân dân của một đất nước yếu và trang bị kém có thể đứng lên chống lại một quân đội tấn công được trang bị mạnh hơn với kỹ thuật hiện đại hơn.
Trong cuộc chiến tranh cách mạng thì chiến thuật đúng đắn là tiến hành chiến tranh du kích, rồi chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến tranh thông thường và kết hợp chặt hcẽ hai loại chiến tranh này; chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến tranh cơ động rồi chiến tranh vây hãm”.
Tích tụ hàng nghìn chiến thắng nhỏ để làm một thắng lợi lớn… Trong thế giới cộng sản, mọi hành động thực tiễn đều cần có lý luận và cần có lý luận trong mọi hành động thực tiễn. Cách mạng và phục hưng là đề tài của phần lớn lý luận và thực tiễn: làm sao đánh đổ trật tự cũ và thiết lập một trật tự mới ưu việt hơn. Nhưng ông Giáp không tự bằng lòng với việc lặp lại các ý tưởng, ông trau dồi thêm tư duy của mình, và sáng tạo những tư tưởng mới. Ông đem những đóng góp của mình vào nền văn học đang phát triển mà đã có một số nội dung khó tiêu hóa; tên ông có trong danh sách những danh nhân văn học của ý thức hệ cộng sản. Các tín đồ và sinh viên toàn thế giới đang nghiên cứu tác phẩm của họ. Trong những năm tới nhiều người cũng tin tưởng chủ nghĩa cộng sản như ông, tìm tòi trong những tác phẩm của ông con đường đi đến không tưởng. Chắc chắn trong số họ có những người bước tiếp con đường đó và làm sụp đổ thế giới cũ: vấn đề đã trùng hợp với việc thiết lập nên một thế giới khác ưu việt hơn.
Dựa theo những tư tưởng tiến bộ của Mác và Engels trong tuyên ngôn cộng sản, Mao Trạch Đông đã nhiều năm nghiền ngẫm những tư tưởng sâu sắc đặt ra một số câu hỏi và tìm tòi giải đáp rồi ghi vào bài viết cho in ấn để lại cho hậu thế. Suốt mấy năm đã soạn thảo như vậy được nhiều tiểu luận và sách nhỏ, nhưng lại là tác phẩm quan trọng nhất của ông. Năm 1928 ông viết cuốn đấu tranh trong rừng núi Chi Kan Shan, năm 1937 chiến tranh du kích, năm 1938 những vấn đề chiến lược trong chiến tranh chống Nhật. Ông đã nêu lên những điểm tiên quyết của chiến tranh du kích. Đó là:
- “Có nước sâu thì cá mới bơi lội được, nói cách khác cán bộ khởi nghĩa phải là bí mật ở cùng nhân dân mới giúp họ nổi dậy được.
- Không vừa lòng mọi người để họ đáp lại bằng lật đổ. Làm cho họ không vừa lòng nếu họ chẳng còn gì nữa.
- Những người khởi nghĩa có thể dấu mình trong những mảnh đất không có lối vào nếu họ bị lực lượng an ninh truy đuổi vây ráp.
- Cần mùa màng tốt cho những người cảm tình nuôi mình. Cần một biên giới với người láng giềng hoàn toàn theo mình”.
Từ sau năm 1949 Trung Quốc cộng sản cung cấp cho Việt Nam mọi thứ cần thiết. Bảy giai đoạn để giành thắng lợi trong chiến tranh du kích là:
“- Vận động quần chúng nổi dậy và tổ chức quần chúng. - Thực hiện đoàn kết nội bộ. - Xây dựng cơ sở. - Phát triển cơ sở. - Tạo nên một tiềm lực dân tộc. - Phá hoại tiềm lực của địch. - Giành lại những đất đai bị địch chiếm”.
Cụ Hồ Chí Minh và ông Võ Nguyên Giáp đã lần lượt qua các Đông Dương này theo đúng thứ tự như trên.
Ông Giáp còn thêm vào bảy giai đoạn của Mao những nguyên tắc của ông:
“- Nếu kẻ địch tiến, chúng ta lùi - Nếu chúng dừng lại, chúng ta quấy rối - Nếu chúng tránh giao chiến, chúng ta tấn công - Nếu chúng rút lui, chúng ta đuổi theo”.
Rõ ràng chúng ta có một ông Giáp hăng hái và sẵn sàng xông tới, ông thẳng thắn, tự tin, quyết đoán và kiên nhẫn. Người Pháp và người Mỹ đã hứng chịu những hậu quả tai hại của những nguyên tắc của ông khi ứng dụng vào thực tiễn.
Cụ Hồ Chí Minh, ông Giáp và ông Phạm Văn Đồng đã soạn thảo ra những luật tổ chức của Việt Nam:
- Chia cắt bọn phản động (nước ngoài hoặc chống cộng sản). - Không phá tan bọn phản động mà kiểm soát được chúng. - Không loại bỏ hoàn toàn hệ thống xã hội hiện hành. - Không tham việc quá. - Phải có lý lẽ đồng thời hành động chống bọn phản động. - Sử dụng những tổ chức bí mật, không để họ tiếp xúc với nhau. - Không khơi dậy những sự nới khéo, không có lợi, để tránh tạo nên những đối thủ nguy hiểm. - Lao động từ nhỏ đến lớn, từ riêng đến chung. - Hãy giành lấy những thắng lợi nhỏ cho chủ nghĩa cộng sản và thắng lợi lớn cho dân tộc.
Mao đã định nghĩa 3 loại hành động chính trị: Những hành động hướng tới kẻ thù (địch vận); những hành động đối với nhân dân (dân vận); những hành động dùng cho các lực lượng du kích và đảng viên (cương lĩnh và tổ chức). Ông Giáp suy nghĩ về ba dạng hành động phụ trước khi sử dụng các dạng trên:
Tạo lập cơ sở tâm lý trong nhân dân; một hoạt động tổ chức mức thấp (tìm kiếm những cuộc tiếp xúc vững chắc, lập nên ở đó một hệ thống liên lạc) bao gồm việc thành lập những vấn đề vũ trang tuyên truyền. Những hoạt động khác nhau của cán bộ cốt cán đều có tên khác nhau: dân vận là hoạt động trong nhân dân do đảng trực tiếp kiểm tra, binh vận là hành động trong binh lính địch, địch vận là hành đông trong dân chúng địch. Mỗi lần được học tập hết những nguyên tắc trên, các chiến sĩ sẽ sẵn sàng đi chiến đấu.
Năm 1946 D’Argenlieu đã tính sai những kế hoạch tấn công ở miền Bắc. Ở Hà Nội, những người cộng sản quan tâm chủ yếu đến các nhóm phản động cần thanh toán (trước hết bọn Việt Nam quốc dân đảng) và củng cố chính quyền của họ. Họ không chống đối quyết liệt quân Pháp mà còn tìm kiếm một cách thỏa hiệp với chúng. Trong khi D’Argenlieu tìm cách tăng cường ảnh hưởng của Pháp, tăng cường lực lượng quân sự Pháp ở Nam Kỳ, có thể ông ta đã không ưu tiên cho việc ngăn cản Việt Minh trước khi họ rút về chiến khu. Phong trào chống chủ nghĩa thực dân được thời cơ thuận lợi để cuối cùng họ có thể quét sạch quân Pháp, tuy lúc bấy giờ quân Pháp có thể làm chậm trễ việc rút lui về Việt Bắc, và thời gian sau có thể ra đi ngẩng cao đầu. Cụ Hồ Chí Minh và quân đội của Cụ đã ra đi, miền Bắc mở rộng cửa để người Pháp có thể dùng hiệu lực quân sự để tăng cường nhanh chóng vị trí của họ ở Bắc kỳ và Trung kỳ. Nhưng thật bất hạnh đối với các tướng tá Pháp ở Đông Dương, năm 1947 người Pháp đã qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế và cả tình trạng lộn xộn về chính trị.
Hoa Kỳ rót vào châu Âu một khoản viện trợ kinh tế hào hiệp đáng ngạc nhiên để giúp châu Âu hàn gắn vết thương chiến tranh. Vì bị mất thăng bằng trước những hoạt động của chủ nghĩa cộng sản, nước Pháp được hưởng một khoản viện trợ ưu tiên. Đáng lẽ dùng khoản viện trợ này vào việc xây dựng kiến thiết đất nước hưng thịnh và ổn định, nước Pháp dùng tiền của kế hoạch Marshall vào ngân sách chiến tranh ở Đông Dương, không giành khoản nào cho kiến thiết kinh tế. Phản ứng của dư luận dãn đến không ổn định chính trị và thường xuyên thay đổi chính phủ. Các vị thủ tướng chính phủ lần lượt ra đi cùng với các sĩ quan chỉ huy quân sự ở Đông Dương mà họ cử ra. Ở Sài Gòn không còn tư duy chiến lược lâu dài, mà thường xuyên phải chịu những tin tức thất bại của Đông Dương không gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị mới ở mẫu quốc và sự thay đổi chính phủ không biết là lần thứ mấy.
Ông Giáp đã phân tích một cách sáng suốt tình trạng này bằng hai chương sau:
“Các chính phủ Pháp đều khẳng định mọi cố gắng phải đạt được một lối ra danh dự, nghĩa là một kết cục thắng lợi. Để đạt được mục đích đó, họ đều nhanh chóng tăng cường chiến tranh và họ đã thu được một số thắng lợi nhất định, nhưng chủ yếu đế quốc Pháp đã yếu đi sau chiến tranh thế giới thứ hai, các lực lượng của họ, con người cũng như vật chất kỹ thuật đều có hạn. Hơn nữa ở nước Pháp, nhiều người Pháp phản đối cuộc chiến tranh thuộc địa của họ. Họ đành bất lực trong việc động viên một lực lượng vật chất khổng lồ để chống lại chúng ta, phương thuốc cứu họ là sử dụng ngày càng nhiều quân phản động (thông thường ông Giáp và những người cộng sản gọi bọn người làm việc và chiến đấu cho người Pháp và sau này cho người Mỹ. Về bản chất bọn phản động không kiểm soát được hành vi của họ và tuân theo quan thầy của họ. Từ thế kỷ XIX người Pháp đã tuyển mộ quân thuộc địa vào quân đội của họ và bây giờ vẫn tiếp tục con đường đó).
Nguyên nhân chính của những khó khăn của họ bắt nguồn từ bản chất không công bằng của chiến tranh xâm lược. Mục đích cuối cùng của bọn thực dân Pháp là chiếm lấy đất đai của chúng tôi; so với cuộc kháng chiến của chúng tôi, họ phải phân tán lực lượng và dựng nên hàng nghìn đồn bốt quân sự, nhỏ và lớn để bảo vệ những gì mà họ đã thu được. Họ phải thường xuyên phân tán quân đội của họ. Càng phân tán, chúng tôi càng có thời cơ để đánh phá từng miếng, từng miếng một. Càng tăng tỷ lệ quân phản động, tinh thần quân địch càng sa sút”.
Cả hai mặt trận của hai bên đều sử dụng những tháng đầu năm 1947 để chuẩn bị lực lượng. Quân Pháp giành quyền kiềm soát một số thành phố chính của Việt Nam để tăng cường lực lượng quân sự. Ông Giáp thành lập ba thứ quân cần thiết cho cuộc kháng chiến: lực lượng chủ lực, lực lượng quân địa phương và lực lượng dân quân tự vệ.
Ở cấp thứ nhất, mọi người trong làng-già trẻ, gái trai-phải ủng hộ các đọi quân ở cấp cao hơn, có khi trực tiếp tham gia tác chiến du kích hoặc phòng ngự, có khi gián tiếp làm chông bẫy, đào hầm, hoặc cung cấp lương thực và sẵn sàng bảo vệ phòng ngự xóm làng.
Các đơn vị địa phương tổ chức và trang bị không chặt chẽ như bộ đội chủ lực, chỉ tập trung huấn luyện hai ba lần trong một năm, thường đóng tại quê hương, có thể hành động hợp đồng tác chiến với sức cơ động hạn chế để yểm hộ cho bộ đội chủ lực.
Theo ý Mao, những đơn vị địa phương thường rất có ích: về chiến lược là quấy rối phía sau địch, và về chiến thuật được sử dụng làm nghi binh và chiến đấu bên cạnh lực lượng chủ lực trong tác chiến. Các đơn vị tự vệ phụ trách thông tin, dẫn đường và chăm sóc thương binh.
Lực lượng chủ lực của ông Giáp nhanh chóng trưởng thành về số lượng và chiến đấu hiệp đồng trong thời gian, tổ chức của quân đội đều chia ba: ba trung đội thành một đại đội, ba đại đội thành một tiểu đoàn, ba tiểu đoàn thành một trung đoàn, ba trung đoàn thành một sư đoàn. Các đội dân quân tự vệ thường hoạt động chiến tranh du kích và khi đã có ít kinh nghiệm đủ sức vững vàng thì có thể trở thành bộ đội chủ lực. Đó là một sơ đồ tổng hợp, mà những nguồn lực của đất nước ở cấp thấp nhất về con người có thể được động viên, được huấn luyện, được hướng dẫn để có thể chiến đấu ác liệt hơn trong cuộc nổi dậy.
Đầu tháng 10 năm 1947 sau một thời gian dài chuẩn bị, quân Pháp dùng 17 tiểu đoàn tổ chức một cuộc tiến công quân sự với quy mô lớn hy vọng tiêu diệt lực lượng chính của Việt Minh và cơ quan lãnh đạo của họ. Trong cuộc hành quân “Léa”, mười hai nghìn lính dù Pháp sau khi đổ bộ xuống chỉ lùng sục trên mặt đất. Còn Cụ Hồ Chí Minh và ông Giáp đã ẩn nấp vào hang để tránh quân địch phát hiện. Khi bọn lính dù đi khỏi, họ rời khỏi nơi ẩn náu và biến vào rừng rậm. “Ở rừng rậm mọi thứ đều thối rữa, thịt người thối rữa, trước hết”. Người Việt Nam có thể chịu đựng được một mức độ nào đó, còn người Pháp thì không. Quân Pháp bị thối rữa: họ bị sốt rét và chết vì thối rữa. Quân vm vẫn qua lại những vùng mà quân Pháp tưởng đã quét sạch địch, để rồi đêm đến lại đánh vào quân Pháp.
Ngày 16 tháng 10 quân du kích của ông Giáp phá những chiếc cầu phía sau quân nhảy dù. Quân Pháp muốn quay về phải sửa chữa bắc lại cầu. Sâu hơn về về phía Nam, trong vùng châu thổ sông Hồng, hai tiểu đoàn dù người dân tộc Thái do các sĩ quan Pháp chỉ huy đánh đuổi quân Việt Minh khỏi vùng giữa sông Hồng và sông Chảy (trong vùng quân Pháp nhảy dù, quân Việt Minh chống cự đặc biệt hiệu quả như chúng ta sẽ thường chứng kiên sau này). Những đội quân dù khác thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trên hai bờ sông Lô. Mọi việc trông có vẻ trôi chảy, nhưng mùa mưa đến, người chỉ huy quân Pháp hiểu ra rằng quân của ông ta đã tiến quá sâu và dễ bị thương vong trong vùng cơ sở kháng chiến của Việt Minh. Ông ra lệnh cho binh lính lui về trong các đồn trại.
Thông thường khi gió mùa vềm cả hai phía mặt trận đều tạm dừng hành quân chiến đấu vì cơ động chuyển quân rất khó khăn. Nhưng trường hợp lần này thì khác. Ông Giáp không muốn cho quân địch rút lui: “phân tán lực lượng chủ lực thành đại đội độc lập và tập trung cỡ tiểu đoàn, tôi có một lực lượng yểm trợ mạnh cho dân quân tự vệ và du kích chiến đấu sau lưng địch. Đồng thời tôi xây dựng những đơn vị cơ động tiến lên đánh cơ động được. Lực lượng vũ trang của nhân dân với ba thứ quân đã hình thành.
Phân tích cuộc hành quân Léa, ông Giáp đã viết những dòng ngắn gọn và sâu sắc như sau:
“Mùa đông năm 1947 quân địch đã tung vào Việt Bắc ba nghìn quân thiện chiến hòng tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo và bộ đội chủ lực của chúng ta để giành lấy một thắng lợi quyết định và đẩy nhanh việc thành lập một chính quyền phản động trên cả nước.
Chính sách của tướng Revers (tướng chỉ huy cuối cùng) là tăng số quân trên mặt trận Bắc Bộ, mở rộng vùng chiếm đóng ở đồng bằng sông Hồng, tăng cường phòng ngự vùng tứ giác Lạng Sơn, Tiên Yên, Hải Phòng, Hà Nội, khép kín biên giới Trung Quốc-Việt Nam. Kế hoạch của tướng Revers cũng chỉ rõ:
1. Phát triển đội quân phản động làm lực lượng chiếm đóng. 2. Tập trung những đội quân châu Âu và châu Phi trong những đơn vị cơ động. 3. Tăng cường mật độ hành quân càn quét đàn áp các hoạt động của chiến tranh du kích.
Về phần chúng ta, chúng ta tán thành một cuộc chiến tranh du kích rộng rãi trong tất cả các vùng chiếm đóng. Chiến thuật sử dụng đại đội độc lập đã được tham chiến và giành thắng lợi lớn. Một bộ phận chủ lực được chia thành đại đội độc lập luồn sâu vào sau lưng địch và kết hợp tác chiến với đấu tranh chính trị trong lòng nhân dân. Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị vừa tiêu diệt địch vừa xây dựng và củng cố cơ sở trong nhân dân và hướng dẫn các lực lượng bán vũ trang địa phương, kết hợp với nhân dân chiến đấu với quân địch. Công tác địch vận trong hàng ngũ địch, nhất là binh sĩ phản động là một nhiệm vụ chiến lược cần được đặc biệt quan tâm…”.
Giữa năm 1948 và 1950, Việt Minh tung ra một loạt chiến dịch quy mô nhỏ với 9 tiểu đoàn (không phải 3 như thường lệ), đặc trưng cho chiến dịch du kích. Năm 1950 quân Pháp rải trên những vùng sâu rộng nhưng thưa của Việt Nam. Phân tán quân trong những lô cốt rải rác như những tháp canh trên một vành đai pháo đài vững chắc, họ tưởng rằng có thể kiểm soát được tình hình, nhưng đó là ảo tưởng: nói chung quân Việt Minh tự do qua lại giữa các đồn bốt. Hơn nữa, người chỉ huy quân Pháp không thành lập lực lượng cơ động để đuổi theo quân địch mỗi lần họ tấn công vào các lô cốt hoặc họ yểm trợ cứu ứng và không ngừng di chuyển trên các đường cái.
Dần dần các đội quân của ông Giáp đã khai thông được con đường qua các tỉnh phía Bắc trên đường biên giới Việt Trung: Cao Bằng, Lạng Sơn, Lao Cai, qua Hòa Bình trên con đường phía Nam Việt Bắc và phần lớn vùng Tây Bắc từ sông Hồng đến biên giới Việt Lào. Quân Pháp càng tuyển mộ nhiều người Việt Nam hơn bổ sung vào lực lượng thuộc địa: Cuối năm 1947 lực lượng này chiếm hai phần ba quân Pháp hiện có. Nhờ được ưu đãi, sĩ quan và hạ sĩ quan gắn bó với quân Pháp hơn binh sĩ.
Bấy giờ quân Pháp đã xác định tổ chức trong chiến tranh Đông Dương: có vài đơn vị ưu tú như lính dù (Mũ đỏ, vững chắc nhất trong quân đội) một số đơn vị khác là quân đội thuộc địa từ Bắc Phi (Algériem, Maroc, Sénégal) dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp và cuối cùng là quân lê dương ngoại quốc, là đơn vị quốc tế ưu tú lần đầu tiên tham gia chiến đấu. Một phần ba trong số họ là người Đức đã rời bỏ châu Âu lộn xộn sau chiến tranh để tìm đến một thế giới khác mà ở đó họ chỉ chiến đấu bằng mọi giá. Cuối cùng bọn Đức quốc xã cũng đến Đông Á.
Sắc lệnh phong hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp
Tháng 3 năm 1948, ông Giáp thành lập 6 quân khu để thuận tiện cho việc lãnh đạo chỉ huy quân đội trong toàn quốc: Quân khu 1 ở vùng châu thổ sông Hồng, quân khu 2 ở Tây Bắc Bắc Bộ, quân khu 3 ở Đông Bắc Bắc Bộ, quân khu 4 ở phía Bắc Trung Bộ, quân khu 5 ở miền Nam Trung Bộ và quân khu 6 ở Nam Bộ. Mỗi quân khu có tổ chức lực lượng vũ trang riêng và sự lãnh đạo của Quân khu ủy, trực thuộc sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Tổng tư lệnh quân đội.
Cuộc chiến tranh Đông Dương diễn ra chủ yếu trong các quân khu 1 đến 5. Chỉ có một số hành động ở quân khu 6, xung quanh Huế và dọc đường số 1 theo bờ biển Việt Nam mà người Pháp thường xuyên bị đánh, trên con đường quanh co này.
Nhưng ưu iên của năm này là giành lấy lòng tin của nhân dân và tiếp tục cuộc chiến đấu để giải phóng đất nước. Về điểm này, Cụ Hồ Chí Minh và các sĩ quan của Cụ đã hoàn toàn thành công, tình cảm gắn bó với đất nước ngày càng trưởng thành trong nửa thế kỷ sau của thế kỷ XX. Sau đây là câu chuyện của cựu trung tá La Văn Cầu hiện đang sống ở Hà Nội kể cho chúng tôi về tình cảm gắn bó của ông đối với Việt Minh:
“Mẹ tôi người dân tộc Thái sống ở vùng biên giới Trung Quốc còn cha tôi người dân tộc Nùng. Tôi sinh năm 1932 ở làng Na Sen gần Dinh Phong thuộc tỉnh Cao Bằng. Đó là một vùng đất đẹp có một con sông bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Việt Nam rồi trở về Trung Quốc. Vùng này có nhiều đặc sản. Trong đó có một loài cá cỏ ở dưới lòng sông, thịt ăn rất ngon.
Tôi sống ở đó đến năm ba tuổi thì cha tôi vì không đủ tiền trẻ thuế bị thực dân Pháp đánh đập rồi chết. Tôi còn quá nhỏ, không thể trông coi được trang trại, mẹ tôi phải trở lại quê hương. Chỉ sau cách mạng tôi mới có thể tìm lại mảnh đất của tôi. Hiện tôi còn một mảnh ruộng gần một hecta ở đó. Một bánh xe dẫn nước tưới khắp cánh đồng.
Khi bố tôi chết, mẹ tôi còn quá trẻ nên có nhiều người đến hỏi, và mẹ tôi đã đi bước nữa. Do đó tôi lại sống ở Dung Diêm với ông bố dượng cũng dân tộc Thái. Chúng tôi ở một vùng đất gần như nô lệ của người Trung Quốc: một ngày năm 1943 những tên cướp, đến cướp hết trâu bò và cả gia tài của chúng tôi. Bố dượng tôi đã chết khi đánh nhau với bọn cướp.
Tháng 12 năm 1946 chúng tôi bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cũng như rất nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi, tôi rất muốn tham gia chiến đấu, nhưng tôi rất ốm yếu vì tôi bị sốt rét. Chỉ còn lại trong con người tôi những tình cảm đối với cách mạng. Ngày nào tôi cũng nghe tiếng bom nổ ở cag, rồi ngày 20 tháng 10 năm 1948, tôi nhập ngũ. Tôi được bổ sung vào Đại đội 671, một đơn vị địa phương của tỉnh Cao Bằng có nhiều chiến sĩ người dân tộc thiểu số.
Trên đường đến trung tâm huấn luyện đóng trong rừng rậm, tôi và các bạn mới nhập ngũ phải vượt qua khu vực bị quân Pháp chiếm đóng. Chúng tôi bị đánh chặn, một người bạn tôi bị giết, nhưng điều đó càng củng cố thêm quyết tâm của chúng tôi. Trong đêm 25 tháng 19 chúng tôi đến một làng bị quân Pháp tàn sát. Nhà cửa đang bị cháy. Điều đó làm cho chúng tôi càng căm thù quân địch.
Thời đó, nhân dân còn rất nghèo, chúng tôi thiếu thuốc men, thiếu lương thực và vũ khí. Tôi chỉ có mỗi một bộ quần áo để thay đổi, bộ quần áo do mẹ tôi chuẩn bị cho ngày lên đường nhập ngũ. Vì máy bay địch luôn quan sát thám thính, quần áo của chúng tôi không được phơi dưới ánh sáng mặt trời nên không mấy khi được hoàn toàn khô ráo. Chúng tôi đều bị bệnh ngoài da và sốt rét vì điều kiện sinh hoạt thấp kém và thiếu vệ sinh. Chúng tôi thường chưa bệnh bằng lá cây kiếm được trong rừng. Thỉnh thoảng chúng tôi sử dụng loại lá có chất kháng sinh nhưng cách tốt nhất vẫn là dùng nghị lực của mình để giảm bớt đau đớn: chúng tôi lao động cật lực đến toát mồ hôi, mồ hôi đổ ra làm tiêu tan bệnh tật. Khi cơn sốt đến, chúng tôi lại lao động.
Tôi đã qua ba tháng huấn luyện, tập đi đều, tập bắn súng, tập sử dụng lựu đạn và cả cứu thương lúc ban đầu. Lúc nào chúng tôi cũng lạc quan. Ban ngày chúng tôi tập luyện, tối đến ngồi quanh ngọn lửa hát những bài ca cách mạng yêu nước. Chúng tôi mơ đến một ngày có xe tăng, súng lớn và máy bay. Chúng tôi cho nhau như anh em một gia đình, tuy chiến sĩ và sĩ quan thuộc các dân tộc khác nhau của nước Việt Nam”.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 9:12 am
Chương 8: Sớm và quá sớm
Hãy gieo rắc tin tức lẫn lộn vào quân địch để chúng không hiểu được ý định của chúng ta. Một thắng lợi hiển nhiên mà không phải thắng lợi, một thất bại rõ ràng mà không phải thất bại.
Võ Nguyên Giáp
Năm 1948 Việt Minh và quân Pháp đều có một thời gian ngừng chiến để tăng cường quân số và phương tiện. Việt Minh tấn công những đồn bốt quân Pháp để chiếm lấy vũ khí, rồi xây dựng những hệ thống hầm hào và kho tàng bí mật trong các làng mạc để cất giấu. Việc ngụy trang khéo léo tài tình không còn để lại một dấu vết nào khiến cho một số bộ binh Pháp và Mỹ đi lục soát tìm kiếm đến kiệt sức mà vẫn bực mình vì không phát hiện được.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm việc tại chiến khu Việt Bắc năm 1949.
Tháng 12 năm 1949 sau nhiều năm chiến đấu, Hồng quân Trung Quốc đã chiến thắng quân Tưởng Giới Thạch thành lập chính quyền trong cả nước. Quân Tưởng phải chạy sang Đài Loan (một số binh sĩ vượt qua biên giới Việt Nam bị quân Pháp tước vũ khí và trả về Đài Loan). Sự thay đổi chế độ ở Trung Hoa làm thay đổi tình thế của Việt Minh. Việt Minh đã có một láng giềng chấp nhận được: từ 1950 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ còn lại vấn đề, láng giềng lại là Trung Quốc. Mặc dầu không tin tưởng, người Việt Nam hoan nghênh sự giúp đỡ của Trung Quốc mà vẫn kìm nén biểu lộ tình cảm và luôn luôn cảnh giác đề phòng sự lật lọng của họ. Cứ như vậy tình hữu nghị giữa hai dân tộc lúc cao lúc thấp không có gì thay đổi trong nhiều năm.
Trước tình thế này, Cụ Hồ Chí Minh và ông Giáp tháng 12 năm 1950 đến Bắc Kinh và tháng sau đến Nam Kinh. Ông Nguyễn Chí Thanh một người đang có uy tín lúc bấy giờ, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội chịu trách nhiệm về những vấn đề quân sự. Người Mỹ đã có dịp được biết đến và nhớ tên con người này. Cụ Hồ và ông Giáp đã ký kết với các nhà lãnh đạo Trung Quốc một thỏa thuận quan trọng: Trung Quốc nhận cung cấp vũ khí, máy cơ khí chế tạo và thuốc men. Bắc Kinh chấp nhận huấn luyện Việt Minh ở Trung Quốc và gửi sang Việt Nam những cán bộ chính quyền và quân sự với tư cách là cố vấn kỹ thuật. Ngay sau khi Trung Quốc công nhận nước iệt Nam Dân chủ Cộng hòa, Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa cũng lên tiếng công nhận nước Việt Nam, tạo nên một sự kiện có tầm cỡ lớn ủng hộ độc lập của Cụ Hồ Chí Minh. Do đó, dù có đồng ý hay không, người Pháp không phải chỉ đương đầu với một nhóm nổi loạn ngoài pháp luật mà là một Chính phủ được các nước có chân trong Liên hiệp quốc công nhận.
Đến tháng 4 năm 1949 ông Giáp đã có 32 tiểu đoàn chủ lực và 137 tiểu đoàn bộ binh địa phương. Tháng 5 năm 1950 Cụ Hồ Chí Minh công bố luật nghĩa vụ quân sự, tất cả mọi người Việt Nam là đàn ông từ 16 đến 55 tuổi ở Bắc Bộ và Trung Bộ được tuyển vào quân đội, (Luật này được thực hiện dễ dàng trong vùng tự do nhưng khó khăn trong vùng quân Pháp chiếm đóng. Đến giữa năm 1952 luật này cũng được thực hiện ở Nam Bộ). Tháng 6 năm 1951 ông Giáp tổ chức 117 tiểu đoàn chủ lực và 37 tiểu đoàn địa phương thành các trung đoàn.
Sau đó, từ các trung đoàn thành lập các sư đoàn với khoảng một vạn quân: sư 304, sư 308 (sư đoàn thép), sư 312 và sư 316. Đồng thời ở vùng châu thổ sông Hồng có sư đoàn 320. Một sư đoàn khác, sư đoàn 351 là sư đoàn vũ khí nặng của tướng Vũ Hiên gồm 12 trung đoàn pháo và 8 trung đoàn công binh bảo đảm cơ động cho các sư đoàn pháo binh với pháo hạng nặng vào triển khai chiến đấu từ nửa năm 1952. (Một sư đoàn tương tự của Hồng quân Liên Xô nếu được tiếp tế liên tục sẽ đủ hỏa lực để liên tiếp chiến thắng quân Đức. Còn ở Việt Nam rất hiếm pháo thủ giỏi, và sử dụng vật liệu công binh phải rất cẩn thận, tất nhiên phải tạp trung hỏa lực và nguồn lực công binh).
Một sư đoàn cần đến 5 vạn dân công mang vác, mỗi người đàn ông hoặc đàn bà có thể mang vác theo sức mình (sau nhiều lần thí nghiệm và thất bại, ông Giáp và người cộng sự của ông đã xác định được những tiêu chuẩn hợp lý: một người đàn ông mang trên lưng được 25 kg gạo hoặc 20 kg vật liệu khác đi trên 25 km một ngày và 20 km một đêm, trong vùng rừng núi thì được một nửa tiêu chuẩn này, một xe trâu kéo có thể mang 350 kg đi 12 km một ngày; một xe ngựa chở được 210 kg đi 20 km một ngày).
Tháng 10 năm 1951, với 200 công binh và 3.000 thợ, Hồng quân Trung Quốc đã hoàn thành tuyến đường sắt nối liền Liễu Châu với Nam Ninh. Nhờ con đường này, chiến sĩ Việt Nam có thể đến các trung tâm huấn luyện quân sự Trung Quốc, Yalin, Liễu Châu, Tungsing, HaiKon trên đảo Hải Nam và Quảng Đông. Từ đó cho đến cuối năm 1952, 4 vạn chiến sĩ và 1 vạn sĩ quan, công binh và kỹ thuật đã được qua các trường này. Tuy chưa có máy bay để sử dụng theo ý định nhưng ông Giáp vẫn thành lập những đội nhảy dù. Kho tàng của Trung Quốc ở Côn Minh và một vài nơi khác phục vụ cho Việt Minh.
Trong những thời gian đầu hầu như ông Giáp dựa hoàn toàn vào những kinh nghiệm của Trung Quốc, lắng nghe ý kiến của các cố vấn về những lĩnh vực mà Việt Nam có khuyết điểm lớn. Tướng La Quý Ba dẫn đầu đoàn Quân sự Trung Quốc, sau đó khoảng tháng 8 năm 1950, hai tướng nữa Chaing Yuni và Chieng Keng đến Pắc Bó để thảo luận những kế hoạch tiếp theo. Những người chỉ huy Việt Minh cũng đã có khoảng 5 người có kinh nghiệm học ở Bắc Kinh, hoặc ở học viện Quân sự Whampoa hoặc ở những đơn vị Hồng quân Trung Quốc. Một trong những số họ, ông Nguyễn Văn Sơn được cử vào ban lãnh đạo chỉ huy trung tâm tác chiến và huấn luyện của Việt Minh ở Quảng Ngãi; ông Lê Thiết Hùng chỉ huy phó cũng được đào tạo ở Trung Quốc. Năm 1949 trong số 6 sư đoàn trưởng của ông Giáp có người đã có thời gian tham gia Hồng quân Trung Quốc, 2 thuộc dân tộc Thổ và 1 người đã là hạ sĩ quan trong quân đội Phá, chỉ có người thứ 6 là hoàn toàn do Việt Minh đào tạo.
Trong năm 1951 Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam 4.000 tấn vũ khí trong đó pháo 75 mm của Liên Xô và Trung Quốc sản xuất, hàng trăm súng Skoda và nhiều khẩu pháo gốc Đức. Trung Quốc còn gửi cho 100.000 lựu đạn chày, 10.000 đạn 75 mm và 10 triệu đạn súng trường. Ông Giáp đã trở thành người chỉ huy quân sự đúng nghĩa của nó, chứ không phải là người chỉ huy du kích. Được trang bị như vậy ông có thể tăng thêm sức mạnh và tổ chức chỉ huy một cuộc chiến tranh thông thường.
Lực lượng quân đội Việt Nam càng tăng lên, Trung Quốc càng tăng cường thêm viện trợ có hiệu quả: năm 1952, họ gửi sang 40.000 súng trường, 4.000 súng máy, một số pháo 120mm không giật, 35 pháo mặt đất, 450 súng cối và 50 pháo phòng không. Sự giúp đỡ quả là hào hiệp không kém gì thời kỳ Trung Quốc chiến đấu ở Triều Tiên. Co số gần như đã tương hợp: quân Pháp sử dụng vũ khí Mỹ, còn Việt Minh được OSS, Trung Quốc cung cấp và tự sản xuất lấy.
Rõ ràng ông Giáp đã có trong tay một đội ngũ đã được huấn luyện quân sự, tất nhiên phần lớn được đào tạo ở Trung Quốc do người Trung Quốc huấn luyện nhưng họ đã được nghiên cứu kỹ đường lối quân sự Xô viết. Dưới con mắt ông, nó là “một đường lối quân sự hoàn chỉnh được phát triển để sử dụng cho các nước thuộc địa và nửa thuộc địa”. Việt Minh theo gương giải phóng quân Trung Quốc. Ông Giáp là Tổng tư lệnh của 250.000 quân chủ lực và một lực lượng dân quân tự vệ khoảng 2 triệu người đã đến tuổi trưởng thành.
Quân Pháp đã tăng cường lực lượng. Cuối năm 1947 có 50.000 quân Pháp ở Việt Nam, năm 1948 tăng lên gấp đôi trong đó 42% là người Pháp còn lại là người châu Phi và quân lê dương ngoại quốc. Năm 1949 quân Pháp có khoảng 150.000 phần lớn nhốt trong các lô cốt có hàng rào dây thép gai xung quanh như các pháo đài Trung cổ chế ngự lên đất đai phong kiến, và như bản thân chúng chế ngự những người Việt Nam trong thời kỳ “Bình định”. Thực tế họ luôn bị quân Việt Minh vây hãm và xuất hiện như quỷ thần để luôn luôn quấy rối họ.
Quân đội Pháp hoàn toàn phụ thuộc vào các đường cái, thường rơi vào những trận phục kích và bị tấn công bất ngờ: thời gian để cho binh lính Pháp rời khỏi xe cộ để vào vị trí chống tấn công thì quân Việt Minh đã biến vào rừng rậm dưới làn mưa đạn của kẻ thù dội và cây cối. “Khi kẻ địch tấn công, chúng tôi rút lui…”. Quân Pháp tiếp tục tuyển mộ ngụy quân Việt Nam khoảng 250 nghìn người do khoảng 400 sĩ quan châu Âu chỉ huy. Tình trạng đó kéo dài cho đến những năm 60. Cả hai phía đều tuyển mộ thanh niên Việt Nam, phía họ phục vụ hoàn toàn không phải do họ tự chọn, cho nên có khi hai anh em phục vụ ở hai phía khác nhau. Với nhiều vẻ khác nhau, cuộc chiến ở Việt Nam gần như một cuộc chiến tranh của dân thường, mỗi phía đều sử dụng quân nhân trừ bị với mục đích cá nhân. Do đó công tác tuyên truyền cũng như chiến tranh tâm lý rất quan trọng, tuy vậy ưu thế vẫn ở về phía Việt Minh. Năm 1954 Việt Minh đã tuyển được nhiều quân hơn người Pháp.
Câu chuyện quân khởi nghĩa hăng say chiến đấu chống lại quân Pháp chứng tỏ điều đó. Các trận đánh lớn nhỏ có đến hàng trăm. Phía nào cũng chứng tỏ lòng dũng cảm lạ kỳ và tinh thần cao thượng như nhau. Chiến sĩ người Thái La Văn Cầu kể tiếp câu chuyện như sau:
“Kết thúc huấn luyện, chúng tôi bắt đầu đi chiến đấu. Từ năm 1948 đến năm 1950 chúng tôi đã dự hơn ba mươi trận. Thời gian không đi chiến đấu thật hiếm. Tự tôi đã tiêu diệt được 25 lính địch, các bạn tôi đã tiêu diệt được hàng trăm. Tôi đã cướp được 7 súng trường, tất cả chúng tôi đã lấy được hàng trăm súng địch. Có thêm một khẩu súng, thêm một viên đạn thật quan trọng.
Phần lớn chúng tôi chiến đấu với bọn lính lê dương trong đó có bọn Đức, bọn Anh và bọn Mỹ đã từng dự chiến tranh chống phát xít Đức. Chúng tôi thích đánh nhau với chúng nó. Đó là những tên lính đánh thuê rất tinh nhuệ. Đánh nhau với chúng, chúng tôi cảm thấy trưởng thành nhanh chóng. Chúng nó không có gia đình, những tên lính Pháp có bố, mẹ, vợ, không đánh giỏi như bọn lê dương. Rất nhiều bọn lê dương đến rồi lại đi, luôn thay đổi chỗ trú quân, rất thuận lợi cho chúng tôi được đánh nhau với nhiều tên lính lê dương khác. Các sĩ quan của chúng tôi rất muốn góp phần chiến đấu cùng chúng tôi, chúng tôi đã được lệnh tuân theo mệnh lệnh chiến đấu của họ. Kể cả khi chúng tôi thiếu ăn, chúng tôi cũng chia phần cho họ…”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thị sát thị xã Cao Bằng vừa được giải phóng (1950).
Trận Đông Khê bắt đầu từ 16 tháng 9 là một trong những trận quyết định của chiến dịch Biên Giới. Trận đánh quan trọng đến nỗi Cụ Hồ Chí Minh xuất hiện bên cạnh ông Giáp . Cụ có mặt để củng cố quyết tâm của bộ đội Việt Minh. La Văn Cầu tiếp tục kể:
“Để bảo đảm thắng lợi tiểu đoàn chúng tôi thành lập một nhóm 25 người chia ra thành 5 tổ. Chúng tôi mang những gói thuốc nổ to tướng. Ông biết đấy, chúng tôi không có nhiều pháo, bản thân chiến sĩ sẽ mang thuốc nổ đến mục tiêu. Người Pháp gọi chúng tôi là “pháo-người”. Nhiệm vụ này rất nguy hiểm, nhưng chúng tôi sẵn sàng hy sinh. Trước hết, chúng tôi đã thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, đến con người cuối cùng. Sau đó chúng tôi phải đoàn kết để hoàn thành nhiệm vụ. Cuối cùng chúng tôi phải tôn trọng nghiêm ngặt kỷ luật chiến trường: “không được lấy của kẻ địch và không giết kẻ đầu hàng…”.
Lực lượng của chúng tôi còn cách địch khoảng 1 kilômét. Ba trăm lính đóng trong một đồn năm trên một ngọn đồi nhỏ kiềm chế cả cao nguyên Đông Khê. Cuộc chiến đấu từ 6 giờ sáng với tiếng nổ của bộc phá chúng tôi làm tín hiệu xung phong. Ngay lập tức chúng tôi trông thấy pháo binh của chúng tôi dùng pháo 75 Nhật Bản đánh đổ cột cờ trên đỉnh vị trí địch ngay từ quả đạn đầu.
Chúng tôi rất vui sướng thấy kẻ địch bị đánh ngay từ những phút đầu tiên!
Đến 18 giờ 30 màn đêm buông xuống, La Văn Cầu và các đồng chí chạy đến vị trí địch. Anh ta bị thương vào cánh tay phải vì một loạt đạn súng máy ngã xuống trên hàng rào dây thép gai, tay bị thương còn móc vào lưới thép, rồi thiếp đi vì đau đớn.
“Khi tôi tỉnh dậy, tôi nghĩ rằng mình sẽ chết mà chưa hoàn thành nhiệm vụ. Tôi đã yêu cầu bạn tôi chặt cánh tay bị thương cho khỏi vướng. Bạn tôi từ chối bảo rằng tôi là con một, gia đình tôi cần cánh tay của tôi, tôi trả lời điều đó không quan trọng vì dù sao tôi cũng sẽ chết. Sau vài phút anh ấy đồng ý, đặt cánh tay tôi lên một cái đe và chặt đi bằng lưỡi lê, xong anh ta buộc chặt đầu cánh tay còn lại bằng một sợi dây.
Sau đó tôi trèo lên đồi đến vị trí địch, dùng cánh tay còn lại và vai đẩy khối bộc phá vào lỗ châu mai lô cốt địch. Tôi quay lại và bị sức bộc phá nổ đẩy đi làm tôi ngã xuống quay mấy vòng trên mặt đất, máu ra nhiều. Dù sao tôi cũng được kết nạp vào Đảng vì những hành động dũng cảm trong chiến đấu, tôi quay về trạm cấp cứu ở trong rừng phía sau chúng tôi.
Tôi rất mệt, muốn bỏ đi ngủ, tôi biết rằng cái chết đang đợi tôi. Tôi tiến từ cây này sang cây khác, tựa vào cây một thời gian để lấy sức đi tiếp. Cuối cùng tôi phát hiện được ánh sáng của trạm cấp cứu. Bác sĩ nhìn cánh tay tôi và tuyên bố cắt lại cho sạch sẽ. Ông tiêm cho tôi một mũi kim và bảo tôi đếm đến bảy hoặc tám sẽ không còn biết gì nữa, nhưng tôi đếm đến hai mươi trước khi đi vào giấc ngủ…
Vì hành động ở Đông Khê, tôi được phong tặng Anh hùng Quân đội nhân dân Việt Nam và khi vết thương lành hẳn, tôi được đưa đến nơi này nơi khác để động viên mọi người đi đánh bọn thực dân…”.
Trở thành đảng viên thật không dễ dàng. Mọi người phải trải qua một thử thách, thực sự quyết tâm, được hai đảng viên giới thiệu, có hai đảng viên giám sát và qua một kỳ thi vấn đáp. Những người thỏa mãn những tiêu chuẩn ấy là những người ưu tú có động cơ phấn đấu rõ ràng. Họ đại diện cho trái tim của chủ nghĩa cộng sản trong nước, những đồng chí trung thành của chủ nghĩa Mác mà ban lãnh đạo của Đảng lấy làm căn cứ để quyết định kết nạp vào Đảng. Ngược lại, họ được ưu đãi và thăng cấp, sau trận đánh La Văn Cầu được kết nạp vào Đảng là không có gì đáng ngạc nhiên.
Trận Đông Khê chỉ là một phần của trận đánh để kiểm soát đường số 4 chạy giữa các dãy núi đá vôi dọc theo biên giới Trung Quốc bảo đảm giao thông cho hệ thống đồn bốt hai bên đường. Quân Pháp dùng chiến thuật cũ rích chốt chặn để bảo đảm hành quân và an toàn cho các ngọn đồi. Khi đoàn xe đến các đồn bốt Cao Bằng, Lạng Sơn và Đông Khê, nhưng họ tiếp tục bị phục kích. Họ quyết tìm mọi cách để kiểm soát con đường và cắt đứt đường tiếp tế từ Trung Quốc cho quân đội Việt Minh. Ngược lại Việt Minh đã mở rộng những con đường mòn song song trong rừng rậm bên này hoặc bên kia biên giới Việt Trung và dùng dân công chở hàng.
Mùa mưa đến ở Đông Khê vào tháng 5, tiếp theo 5 tiểu đoàn Việt Minh, trong đó có những tiểu đoàn vừa được huấn luyện ở Trung Quốc về, hành quân đến Đông Khê. Bầu trời thấp đầy mây, mưa suốt ngày không trông chờ gì được máy bay yểm trợ. Bốn mươi tám giờ sau khi La Văn Cầu và các bạn “quyết tử” tấn công bằng bộc phá, Pháp mất đồn tiền tiêu. Vài ngayd sau quân Pháp chiếm lại được, giữ được vài tháng rồi mất hẳn. Không một người lính bảo vệ căn cứ còn sót lại: hai tiểu đoàn quân lê dương bỏ mạng.
Các đồn bốt lần lượt rơi vào tay quân Việt Minh. Biên giới hoàn toàn được giải phóng. Đến tháng 10 quân Pháp rút khỏi Lạng Sơn bỏ lại đồn bốt và trang bị kỹ thuật quân sự.
Trong cuộc họp của Hội đồng Chính phủ ông Giáp tuyên bố hơn 6.000 quân Pháp bị tiêu diệt, quân ta thu được 13 pháo, 125 súng cối, 940 súng máy, 450 xe, 1.200 tiểu liên và hơn 8.000 súng trường. Và 5 tỉnh lỵ được giải phóng! Nhà nước tặng ông Huân chương Hồ Chí Minh hạng 3, huân chương đầu tiên của ông.
Về những thắng lợi vừa qua, ông Giáp đã viết:
“Thắng lợi của những trận chiến đấu ở miền biên giới 1950 chứng tỏ những tiến bộ lớn của ba thứ quâ, đặc biệt là quân chủ lực. Bộ đội ta được tổ chức mạnh hơn, trang bị vũ khí tốt hơn lần đầu tiên đánh những trận tấn công lớn, tiêu diệt một phần lực lượng tinh nhuệ của địch, đập tan hệ thống phòng ngự biên giới của chúng, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn. Chiến tranh nhân dân đã chuyển từ giai đoạn chiến tranh du kích sang chiến tranh thông thường. Cùng với sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, chiến tranh ở vùng biên giới của chúng ta đã chấm dứt sự bao vây của chủ nghĩa đế quốc đối với cách mạng Việt Nam. Những con đường liên lạc của chúng ta với các nước bạn xã hội chủ nghĩa đã được khai thông”.
Ông Giáp đã trình bày ba giai đoạn của chiến tranh cách mạng của Mao Trạch Đông như sau:
“Ở giai đoạn thứ nhất, chiến tranh du kích địa phương là chủ yếu và chiến tranh vận động là thứ yếu nhưng chiến tranh vận động ngày càng quan trọng. Ở giai đoạn thứ hai chiến tranh vận động là chính lúc đầu để chống càn quét ở địa phương, dần dần trên những địa bàn rộng lớn hơn. Chiến tranh du kích bấy giờ mạnh hơn nhưng so với chiến tranh vận động, chỉ là thứ yếu. Giai đoạn thứ hai thường kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trong quá trình này thực tế không có truy kích quân địch mà củng cố vị trí vững chắc. Tiếp theo, khi quân địch đã chuyển vào phòng ngự, quân cách mạng sẽ chuyển qua tấn công bằng chiến tranh cơ động với những trận tấn công chiến thuật phân tán của các đội du kích đánh các đồn tiền tiêu, các đoàn xe và quân tuần tiễu. Giai đoạn thứ ba là nổi dậy đồng loạt.
Rất khó nói ngày nào chúng tôi chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến tranh cơ động vì không có ai phân chia máy móc. Trong thời kỳ chúng tôi đang tiến hành chiến tranh du kích, đồng thời vẫn sử dụng đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung. Tiếp theo chúng tôi có những trận chiến đấu với nhiều trung đoàn, đến năm 1950 tôi mở chiến dịch lớn với những lữ đoàn. Chiến dịch giải phóng biên giới năm 1950 có thể coi như giai đoạn chiến tranh cơ động đã bắt đầu…”.
Ông Giáp đã hoàn thành thắng lợi giai đoạn 1 và 2. Ông nghĩ lúc bấy giờ có thể chuyển qua tổng phản công chuyển về tổng tấn công để tiêu diệt hoàn toàn kẻ địch. Ông đã nhầm, lý do chính của sự nhầm lẫn là việc tướng Jean Marie de Lattre de Tassigny đến Hà Nội vào thắng chạp. Ông ta là một con người có cá tính vững chắc và rất dũng cảm. Ông vừa nhận nhiệm vụ cao ủy và tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương. De Lattre đã chỉ huy một đại đội trong chiến tranh thế giới thứ hai và nhanh chóng được cử đứng đầu một sư đoàn và cuối cùng là người chỉ huy các lực lượng Pháp tự do. Ông bỏ ngay quyết định buộc phụ nữ và trẻ con Phép rời khỏi Hà Nội khi lính Pháp chưa rời khỏi Việt Nam và ông để vợ ông ở lại thành phố.
Sau đó ông củng cố tinh thần binh sĩ và chuẩn bị chống lại cuộc tấn công sắp tới của ông Giáp.
Chẳng phải đợi lâu. Từ ngày 11 đến ngày 17 tháng Giêng năm 1951, trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, 22.000 chiến sĩ của các sư đoàn 308 và 312 của ông Giáp tấn công vào thành phố Vĩnh Yên đã được củng cố công sự vững chắc, một điểm quan trọng cuối cùng ở Tây Bắc Hà Nội của Pháp. Họ bị đẩy lùi tàn nhẫn và hy sinh từ 6 đến 9 nghìn người. Tháng trước, quân Pháp lần đầu tiên dùng máy bay ném bom napal, lần này lại tiếp tục sử dụng phương tiện này: chiến sĩ Việt Minh bị chất độc tưởng rằng bị ném bom nguyên tử.
Từ 23 đến 28 tháng 3 sư đoàn 316 tấn công Mạo Khê hy vọng tiến vào Hải Phòng. Sư đoàn cũng thất bại phải rút lui, hy sinh hàng trăm chiến sĩ.
Từ 28 tháng 5 đến 18 tháng 6, các sư đoàn 304, 308 và 320 đánh một loạt trận tấn công vào các căn cứ dọc sông Jour (?). Họ bị nhầm hướng, chia cắt lẫn nhau và phải rút lui để lại trên chiến trường hàng nghìn chiến sĩ hy sinh.
Ông Giáp đã đánh giá quá cao và tổn thương sâu sắc. Ông chấp nhận rút quân nhưng để lại những cán bộ trong lòng nhân dân để tiếp tục gieo hạt cho cuộc khởi nghĩa. Ông không còn tươi tỉnh, không còn một lực lượng dự bị nào để tạo được một thời cơ thuận lợi, hoặc quay ngược lại tình thế nguy kịch và đã cảm nhận được bao nỗi khó khăn mệt nhọc của mọi người khi đưa quân ra khỏi trận đánh cuối cùng. Nhưng ông vẫn sử dụng những đội hình lớn và hoàn tất nhiều hoạt động gọng kìm rộng rãi với mục đích:
- Mở đường phía Tây Hà Nội. - Đánh địch ở phía sau lưng và phía bên kia Hà Nội. - Chuyển quân về phía Nam trong khi cuộc tấn công thứ nhất vào Vĩnh Yên đã gây sức ép với Hà Nội và cuộc tấn công thứ hai ở Mạo Khê uy hiếp Hải Phòng tách khỏi cảng.
Chiến dịch năm 1951 nếu thắng lợi là một công trình kết hợp chiến thuật; trong trường hợp này kế hoạch thông minh của ông Giáp không thực hiện được vì ông Giáp không có đủ phương tiện cần thiết, không đầy đủ thủ tục chỉ huy và kiểm soát, không có kinh nghiệm tác chiến trong điều kiện phức tạp kể cả với qui mô nhỏ hơn. Hơn nữa đối thủ của ông chiến đấu với lòng bực tức chưa bao giờ có: cuộc sống của họ, của gia đình người Pháp ở Đông Dương, hạnh phúc của họ và vương quốc của họ, tất cả đều vào cuộc.
De Lattre bắt đầu xây dựng một hệ thống cứ điểm có công sự vững chắc bảo vệ châu thổ sông Hồng và những ngọn đồi lân cận mà Việt Minh đã chiếm: 15 triệu tấn xi măng được sử dụng để xây dựng. 20 tiểu đoàn bộ binh thường xuyên chốt chặt ở đây. Khốn thay cho nước Pháp ông ta bị bệnh nặng phải trở về Paris và chết tháng 1-1952 vì ung thư. Tướng Salan là người thay thế.
Quân Việt Minh chiến đấu mãnh liệt và đầy căm thù dù chỉ là một trận đánh nhỏ mà người ta thấy lại trong những năm 60. Đó là trường hợp trận tấn công vào một cứ điểm do quân Bắc Phi chiếm giữ trên đường số 4.
Hai đại đội Marốc và một phân đội xe tăng tổ chức thành 2 cứ điểm phòng ngự mạnh yểm trợ lẫn nhau, lại được pháo binh yểm trợ và một dãy lô cốt tiền tiêu làm nhiệm vụ cảnh giới báo tin có lực lượng tấn công. Một dòng sông chảy giữa hai cứ điểm.
Sau hai mươi phút hỏa lực chuẩn bị tập trung của cối 120 rót vào cứ điểm phía Nam, đến 22 giờ 10, nghe tiếng xung phong của bộ binh Việt Minh vượt lên hàng rào dây thép gai. Lưỡi lửa của một chục khẩu súng tự độg chặn làn sóng người xông lên ở vùng cửa mở. Để ngăn chặn quân tấn công, đạn pháo ngày càng gần vị trí cho đến tận hàng rào của quân Marốc. Đến nửa đêm thì cứ điểm phía Nam không còn giữ được nữa. Dây thép gai rối tung với một thảm xác người bên trên không còn là vật chướng ngại nữa. Phần lớn hố cá nhân đã bị cối của Việt Minh phá hủy những tên lính Marốc sống sót không còn đạn. Gần một giờ có lệnh vượt qua cầy chạy về cứ điểm phía Bắc.
Nhưng ở đó cũng chẳng yên ổn. Ba giờ sáng, 5 tiểu đoàn Việt Minh tấn công mạnh mẽ vào hai trăm người còn sống. Trên chiến trường những chiếc xe tăng nhẹ của phân đội xe bọc thép, nòng pháo hạ thấp đến tối đa không ngừng nổ súng vào chùm người hò hét vượt qua ụ pháo. Xích sắt xe tăng nghiến lên đầu, tay, ngực hàng chục con người di chuyển chậm chạp nhưng cùng ngập trong biển người xông lên không ngớt. Những bàn tay bám vào nắp thép pháo xe định mở nắp, những quả lựu đạn ném vào nòng pháo, hàng loạt súng máy xuyên qua lỗ phương hướng, rồi cuối cùng các xe tăng cũng bị bazôka xách tay tiêu diệt, thép vỏ xe nóng chảy trắng.
Một mùi thịt cháy bốc lên trong không khí. Cả năm kíp xe tăng bị tiêu diệt đến người cuối cùng, số bộ binh còn lại cũng nhanh chóng bị chung số phận.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 9:40 am
Chương 9: Lưỡi kiếm được vung lên
Quyết định nhanh chóng là vấn đề sống còn. Quyết định nhanh chóng ấy có nghĩa là chúng ta đã sẵn sàng đánh địch bất cứ lúc nào, lúc chúng chưa kịp đứng chân hoặc lúc chúng đang rút chạy, có nghĩa là chúng tôi sẵn sàng đánh địch ở vùng núi hoặc ở đồng bằng, sẵn sàng đánh vận động chiến, đánh địch tại chỗ hoặc đánh du kích khi chúng tôi cảm thấy tiêu diệt được quân địch, mục đích cơ bản của mọi chiến thuật.
Võ Nguyên Giáp
Ở Triều Tiên, quân Mỹ đã chặn được những trận tấn công của hàng biển người Trung Quốc tiến trên những mảnh đất đã được quét sạch bằng hỏa lực pháo binh và súng cối và thỉnh thoảng cả bom của máy bay. Trong 3 năm tiếp theo, các tướng lĩnh chỉ huy tối cao Pháp lần lượt muốn dẫn dụ ông Giáp vào một cuộc chiến cổ điển mà họ chiếm ưu thế về hỏa lực dưới mặt đất và ở trên không hòng giành thắng lợi quyết định. Nhưng ông Giáp đã thất rõ sai lầm ở đồng bằng sông Hồng và không bao giờ lặp lại những sai lầm ấy: trong những trận sắp tới, có thể phải hy sinh một số đơn vị chiến đấu quyết liệt trong vòng vây, hơn là dẫn đến những lò “sát sinh” giết người; ông lùi về khi dồn sức đuổi địch vô ích và làm yếu sức quân đội kể cả những mất mát nhỏ nhất. Khi đã vào trận lớn, hy sinh một vài đơn vị nhỏ là cần thiết! Ông Giáp cũng nổi tiếng về sắp xếp linh hoạt sự có mặt của những người khác: lên án những đối thủ chính của ông như tướng Westmoreland và tướng Bigeard cũng như những người khác viết khác về lịch sử chiến tranh này.
Sau những tổn thất mùa thu năm 1951, quân Việt Minh băng bó vết thương và tiếp tục mở rộng đội ngũ, huấn luyện, cũng như tiếp tục chiến đấu: phương pháp huấn luyện tốt nhất là nắm vững những nguyên tắc cơ bản. Là một người thực dụng, ông Giáp nhận rõ đã phạm sai lầm chuyển sớm quá sang tổng phản công nhưng ông không buồn rầu về những lồi lầm và những cơ hội đã bỏ qua. Như ông đã làm trong quá khứ, và sẽ làm trong tương lai, ông quay lưng về quá khứ và hướng tới tương lai.
Không tránh khỏi những ý kiến phê bình trong Đảng, nhưng hình như mọi người đều thấy hết những khó khăn của quân đội và không ai yêu cầu thay thế ông. Mỗi người phải học trên trận địa, học chiến đấu. Nếu có những nhà lãnh đạo quân sự khác có thể thay thế ông thì đó là một trong những thành viên hàng đầu của ban lãnh đạo Đảng và đã có thể giúp ông tránh khỏi sai lầm.
Ông Giáp luôn luôn nhận được những chỉ thị của Đảng (dĩ nhiên ông là một trong những người lãnh đạo có uy tín và quyền lực), của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của Cụ Hồ Chí Minh, nắm vững chủ nghĩa cộng sản đã có nghị quyết về những cơ sở như đường lối chiến lược của chiến tranh: “Nguyên tắc tổng quát của lãnh đạo chiến tranh là một cuộc kháng chiến lâu dài. Chúng ta không coi thường địch, chúng ta không có những kế hoạch tác chiến vội vàng và hy sinh không cần thiết. Chúng ta đánh chắc, tiến chắc, đã tiến công là chiến thắng: không được như vậy, chúng ta không tiến công. Đã đánh là phải thắng, không có quyền đánh mà không thắng lợi”.
Trong những hang núi đá vôi của an toàn khu Trung ương Việt Nam ở Thái Nguyên, ông Giáp và Hội đồng quân sự của ông-đồng thời là ý định của Trung ương cùng chia sẻ trách nhiệm về những quyết định tập thể, về việc lựa chọn những phương án thích hợp cho quân Việt Minh và quân Pháp: “Nhờ có nhiều đường giao thông thuận lợi và nhiều khả năng cung cấp nuôi quân, vùng đồng bằng (sông Hồng) có nhiều điều kiện thuận lợi cho một cuộc tấn công lớn của bộ đội và vì vậy việc tổ chức phòng ngự của quân Pháp cũng chặt chẽ cẩn thận hơn. Quân Pháp dễ bị tổn thất ở địa hình rừng núi, lực lượng bị phân tán, yểm trợ pháo binh và không quân bị cây rừng hạn chế, và điều kiện nắm vững địa hình không phải dễ dàng. Chúng ta có một số thuận lợi hơn quân Pháp, khả năng cung cấp của chúng ta có hạn, lực lượng dự bị không đủ chiến đấu quy mô lớn, do đó chúng ta chỉ sử dụng lực lượng tương đối nhỏ để tổ chức những trận tấn công ngắn. “Trung ương Đảng quyết định: vận động chiến là hình thái chiến tranh chính trên chiến trường chính-miền Bắc Việt Nam-còn các chiến trường khác, du kích vẫn là nhiệm vụ hàng đầu”.
Năm điều kỷ luật dân vận được phổ biến rộng rãi trong quân đội:
- Hãy lễ phép - Phải thực thà - Mượn cái gì của dân phải trả - Không được phá hoại của dân và làm hư hỏng phải bồi thường - Không hết bạn với phụ nữ
Chấp hành nghiêm chỉnh những kỷ luật nêu trên, chiến sĩ sống hài hòa đoàn kết với nhân dân trong vùng đóng quân, trái lại binh lính Pháp tuân theo mệnh lệnh của chính quyền thuộc địa (thực dân) luôn luôn coi dân là kẻ thù, ngay cả khi không muốn-một thực tế không thể bóp méo trong tất cả các cuộc nổi dậy.
Việt Minh còn có một mục đích xác định rõ ràng và một quyết tâm thực tế với khả năng đạt được, còn bọn thực dân Pháp cùng với quân đội ô hợp của họ nào phải Bắc Phi, nào lê dương, nào ngụy quân Việt Nam không phải bao giờ cũng tự nguyện làm sao có được nhiệt tình hăng hái khi chiến đấu và chiến thắng như chiến sĩ Việt Nam. Giai thoại sau đây cho người ta một hình ảnh cụ thể: một hôm, một người chỉ huy tiểu đoàn quân Pháp hỏi cấp trên của ông cho ông biết lý do phải ở lại Việt Nam bao nhiêu năm chiến tranh mà không được gì hết ngoài hàng chục nghìn nạn nhân chiến tranh: chết, bị thương, mất tích và bị bắt: “Thưa tướng quân, chỉ một câu thôi, để tôi có thể nói điều gì đó với gia đình tôi”. Cũng như Ponce Pilate, anh ta không được trả lời.
Một điều hơn hẳn nữa là kỷ luật không phải dựa vào những hình thức trừng phạt mà thực hiện theo áp lực của quần chúng. Không được tống giam kẻ đào ngũ ở chiến khu. Không bao giờ phải trả tiền phạt vì mọi người chẳng ai nhận tiền bạc: chiến sĩ chỉ được nhận quân phục, vũ khí cùng với một cái màn và những thuốc men khi ốm đau. Còn dân công chỉ được nhận lương thực và thực phẩm, nhưng không phải lúc nào cũng có: họ đã có thời gian ở nhà sản xuất và nhân dân ở quê hương cung cấp cho họ. Hình thức kỷ luật dựa trên cơ sở tự ăn năn hối lỗi, danh dự bị tổn thương và sự phê bình của đồng đội.
Vì vậy, những kỳ phê bình và tự phê bình được tổ chức để mỗi người tự phê bình những sai lầm khuyết điểm của mình. Khi đã nhận rõ khuyết điểm thì đến thời gian khắc phục khuyết điểm, như thú tội trong các nhà thờ thiên chúa giáo, nhưng những kẻ phạm tội và phạm những sai lầm nghiêm trọng phải kiểm điểm trước đơn vị, hoặc hình thức kỷ luật cuối cùng: khai trừ khỏi Đảng, khỏi quân đội. Việc trở về làng là bất hạnh, mọi người xa lánh như một kẻ phạm tội. Cả xã hội coi khinh, hậu quả đối với toàn gia đình cũng xấu như hình phạt tạm thời. Trái lại, quân Pháp dùng hình thức phạt tù đối với các tội lỗi và người gây nên tội lỗi chấp nhận phạt tù: vào tù còn đỡ nguy hiểm hơn.
Từ mùa hè năm 1951 đến mùa xuân năm 1952, khi có dịp thuận lợi là Việt Minh tổ chức tấn cồn theo định kỳ: ví dụ 1951, đánh ở đồng bằng sông Hồng; năm 1952 ở vùng Tây Bắc, bộ đội Việt Minh đã buộc quân của tướng Salan phải bỏ một vị trí then chốt gần Hà Nội. Nhưng chiến dịch ấy bị hạn chế như ông Giáp kể:
“Ở trung tâm, trên đường quyết liệt 18, và trên những cánh đồng Hà Nam Ninh, chúng tôi đã thành công khi tập trung một số lực lượng để tạo nên ưu thế hoàn toàn trong một thời gian ngắn. Cho đến khi quân địch lợi dụng khả năng tăng cường lực lượng nhanh chóng đã bố trí nhiều lực lượng cơ động mới, chúng tôi gặp khó khăn lớn để tiếp tục các cuộc tấn công”. Mặc dù vậy, kế hoạch tác chiến ấy vẫn buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng: họ bị kiệt sức vì chống đỡ quay cuồng lộn xộn như người bị ong bò vẽ tấn công.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hoàng thân Souphanouvong bàn kế hoạch mở Chiến dịch Thượng Lào 1953
Năm 1953, hy vọng dụ quân Pháp ra khỏi đồng bằng và mở rộng các đường giao thông, ông Giáp quay sang phía Tây, hướng Lào. Trong nhiều năm các đơn vị Việt Nam đã thực hiện một số trận đánh nhỏ để yểm trợ Pathet Lào, những người cộng sản Lào mà họ phải bảo đảm tổ chức lực lượng (hai dân tộc khác ngôn ngữ nhưng họ vẫn hiểu nhau). Vì vậy, hàng nghìn quân tình nguyện Việt Nam không chiến đấu trực tiếp với quân Pháp mà ở lại trong chiến khu để giúp đỡ quân Pathet hàng mấy năm (ví dụ đại úy lục quân Bùi Công Ái của Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1950 cưới vợ lúc 18 tuổi rồi nhanh chóng xa rời vợ để sang làm nhiệm vụ ở Lào. Đại úy ở lại đấy 4 năm, cô vợ trẻ không biết chồng còn sống hay chết, và đại úy cũng không được tin cha mình chết). Tháng 4, ông Giáp đưa bộ đội Việt Minh sang lào. Sau khi bao vây các cứ điểm Pháp trên Cánh đồng Chum, quân Việt Minh đến ngoại ô Luang Prabang. Nhân dân vùng này đã được báo trước về sự có mặt của họ. Cho đến lúc này thì người chỉ huy cao cấp của quân đội Pháp hiểu rằng họ có thể đến bất cứ nơi nào trên đất Đông Dương. Và ông Giáp đã rút quân về trước khi mùa mưa tới tránh bị tổn thất.
Ông Giáp viết: “Đầu mùa hè năm 1953 quân đội giải phóng Pathet Lào và những người tình nguyện Việt Nam đã hợp tác đánh Sầm Nưa và phần lớn quân địch hiện có trong vùng. Toàn bộ tỉnh Sầm Nưa và những vùng rộng lớn của Bắc Lào được giải phóng”. Đúng lúc này, tháng 5 năm 1953 tướng Henri Navarre thay thế Salan làm tổng chỉ huy quân Pháp.
Navarre là một con người hướng ngã được một người Pháp có trách nhiệm mô tả “một con mèo, hình thức và tinh thần”. Sau một thời gian làm công tác huấn luyện, ông được điều về chỉ huy một trung đoàn xe bọc thép trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sau đó ông về làm công tác ở cơ quan tham mưu trong nhiều năm. Có kinh nghiệm công tác tham mưu ông được cử giữ chức Tham mưu trưởng các lực lượng liên quân NATO của miền Trung châu Âu trước khi sang Đông Dương. Ông là một người thông minh, một trong những người giỏi trong các bạn cùng khóa lúc ra trường, nhưng nhiều người lính dày dạn chiến trận chê trách ông ở học viện quân sự nhiều thời gian quá mà không đủ thời thời gian thử thách ở chiến trường. Những lời chê trách thành kiến của những người lính bộ binh và lính dù (quân Pháp và Lê dương) thật khó tránh khỏi, dù hiệu quả chiến đấu như thế nào thì ông ta vẫn ở trong câu lạc bộ của lính chiến đấu. Ông Giáp đánh giá: “Dầu ông ta có tên tuổi và danh tiếng Như De Lattre, nhưng Navarre là một nhân tài quân sự trong hàng ngũ tướng trẻ của quân đội Pháp có trí thức và có nhãn quan chiến lược” (Điện Biên Phủ trang 70. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia).
Càng lún sâu vào cuộc chiến, quân Pháp càng phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ: năm 1951, viện trợ Mỹ cho kinh phí chiến tranh là 12%, đến năm 1953 tăng lên 71%, viện trợ vật chất năm 1953 có 40 nghìn tấn thiết bị quân sự mỗi tháng. Navarre đến đúng lúc một kế hoạch do các tướng lĩnh Pháp và Mỹ soạn thảo khoảng đầu năm đang được áp dụng. Navarre phân tích: “các đơn vị Việt Nam mới được thành lập chịu trách nhiệm phần lớn nhiệm vụ bình định ở đồng bằng và canh gác các trang thiết bị để cho quân Pháp được rảnh tay vào những nhiệm vụ quan trọng hơn; đồng thời các đơn vị quân Pháp được tăng cường và tập trung thành những lực lượng cơ động để tìm, quấy rối và tiêu diệt địch” (đây là khái niệm Việt Nam hóa đã từng biết đến với quân Mỹ mười lăm năm về sau và tất nhiên là thất bại).
Ông Giáp kể:
“Mặc dầu khẩu hiệu của ông ta” luôn giữ vững ý chí để tấn công, nhưng Navarre phải quyết định bảo đảm phòng ngự chiến lược ở miền Bắc trong mùa đông năm 1953 và mùa xuân năm sau, tăng cường hiệu quả của quân ngụy và thành lập một lực lượng cơ động mạnh. Sau đó đến đầu năm 1954, lợi dụng khoảng nghỉ của quân đội ta (vì gió mùa mưa nhiều) ông đã chuyển về phía Nam phần lớn lực lượng cơ động. Nếu tấn công thuận lợi ở máy bay, ông sẽ đưa lực lượng cơ động mạnh đến tấn công chiến lược ra miền Bắc, ông ta buộc chúng tôi phải đàm phán trên thế bất lợi, nếu chúng tôi không chấp nhận, ông ta sẽ tiêu diệt quân chủ lực của chúng tôi (Sđd, trang 75).
Ông ta muốn có 7 sư đoàn cơ động (6 bộ binh và 1 nhảy dù) tốt khoảng 27 lữ đoàn cơ động. Chấp hành ý định này, ông tư lệnh tập trung lại một số đơn vị thiện chiến quân châu Âu và châu Phi và yêu cầu chính phủ Pháp gửi thêm cho 2 sư đoàn dự bị. Ông ta chỉ nhận được 12 tiểu đoàn từ Pháp, châu Phi và Nam Hàn đến (thực tế ông ta yêu cầu 14 tiểu đoàn nhưng chỉ được 9)…” (Sđd, trang 77).
Ở Sài Gòn, ông Navarre phân tích tình thế và đi đến kết luận phải tăng thêm thành phần quân Việt Nam để cuối năm có thể thành lập được 54 tiểu đoàn cơ động và đến 1954 thì tăng gấp đôi lực lượng này. Bây giờ ông đã sử dụng gần 300.000 binh sĩ trong quân đội viễn chinh Pháp. Thực tế, ông chỉ thành lập được 107 tiểu đoàn mới, khoảng 97.000 người. Không tính đến số lượng thay cho chất lượng.
Ông Giáp viết tiếp: “Mùa hè năm 1953, tình thế hai phía có thể tóm tắt như sau: Đối với chúng ta, tất cả các sư đoàn và trung đoàn chủ lực đã được tổ chức lại và trang bị vũ khí mới. Lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm một số lớn sư đoàn và trung đoàn chủ lực, thêm nhiều trung đoàn và tiểu đoàn địa phương. Các lực lượng du kích cũng phát triển nhanh chóng. Tiếp sau cuộc chỉnh huấn chính trị về đấu tranh giai cấp, chiến sĩ chúng ta nhìn nhận rõ ràng hơn về mục đích cuộc chiến đấu, nâng cao lòng căm thù địch và tinh thần chiến đấu.
Còn quân địch, trong toàn Đông Dương có khoảng 450.000 binh sĩ trong đó có 120.000 quân châu Phi và lê dương, còn lại là quân ngụy. Nếu hiệu quả chế độ của họ rất cao trong thời kỳ đầu chiến tranh, thì nay sự cân bằng lực lượng giữa hai phía luôn nghiêng về phía cơ lợi cho chúng ta. Về chính trị, nhân dân Pháp tổ chức nhiều cuộc biểu tình chống lại chiến tranh phi nghĩa, lính đánh thuê Pháp và châu Phi ngày càng không chịu đựng nổi. Sau nhiều thất bại, tinh thần quân Pháp càng sa sút. Thông thường lính ngụy phải vào lính không phải tự nguyện vì họ không tìm được việc làm” (Sđd, trang 65).
Tháng 7 năm 1953, Navarre tung quân dù xuống rất sâu trong hậu phương ta, họ tấn công Lạng Sơn và tưởng rằng có thể gây cho chúng ta những tổn thất lớn, nhưng điều đó thật vô nghĩa. Tháng 8, họ rút hết quân ở Nà Sản đưa về đồng bằng, tuyên bố cuộc rút quân là một thắng lợi lớn. Và Nà Sản không còn giá trị quân sự nữa, mà trước đây họ đã gọi là “thành Verdun thứ hai” ngăn chặn đường về phía Nam của cộng sản” (Sđd, trang 79).
Những người chỉ huy quân đội Pháp chỉ còn một cách đưa đến thành công là cầu viện tập đoàn commando hỗn hợp GCMA và từ tháng Chạp năm 1953 cầu viện tập đoàn quân hỗn hợp GMI. Đó là những lực lượng du kích theo mô hình chindit de Wingate và Marauder do Merill ở Miến Điện. Nhưng quan trọng hơn, với những đơn vị gốc của một tiểu đoàn Pháp đã từng chiến đấu dũng cảm ở Triều Tiên, với sư đoàn 2 quân Mỹ, cộng với những đội quân xây dựng ở Việt Nam và ở những thuộc địa khác, đã thành lập được tập đoàn quân 100, có 3.500 quân. Đến nửa năm 1953 có 15.000 lính loại đó phải bảo đảm 300 tấn hàng do máy bay cung cấp mỗi tháng. Họ hành quân vào rừng, cùng với người dân tộc thiểu số, cũng có kho cả người nông dân Việt Nam không chịu ảnh hưởng tuyên truyền cộng sản. Có trường hợp họ hất cẳng một Việt Minh, cưới những con gái của già làng để gắn chặt quan hệ (và để thỏa mãn một thời gian dài không có đàn bà). Họ đã thắng lợi trong cuộc hành quân chống GCMA tiêu diệt hầu hết 12 tiểu đoàn Việt Minh chỉ còn một tiểu đoàn có nhiệm vụ tập hợp tin tức của tập đoàn quân của ông Giáp.
Thắng lợi của những đơn vị đặc biệt này là vì quân Việt Minh lần đầu tiên ở trong thế phòng ngự. Cho đến lúc này, quân Pháp đều vào trận theo ý định của Việt Minh: họ liên tục phục kích trên đường cái, hoặc họ tấn công một cứ điểm vào ban đêm. Tiến sâu vào rừng, họ đảo ngược lại nhiệm vụ, họ thắng trên đất thánh với những thắng lợi không cân xứng về tỷ lệ quân số. Chỉ có dùng chiến thuật ấy họ mới thắng được Việt Minh. Họ phải chấp nhận thiếu thốn mọi bề, chiến đấu quyết liệt, đánh và rút và tiếp tục đánh lần thứ hai, cũng cần đánh lâu dài.
Người phương Tây rất tinh vi không thể thực hiện tẩy não trong họ, họ thích giá trị vật chất, phải có tính cách hấp dẫn hơn để tạo lập trạng thái tinh thần và thể lực cần thiết cho họ. Phải có sức mạnh diệu kỳ với đồng lương gấp nhiều lần đồng lương lính thường. Nếu sau một vài năm, họ tích lũy được một số tiền quan trọng bên cạnh, và có thêm tự hào, thắng lợi, đơn vị đánh thắng, thì họ coi như được phần thưởng, giảm bớt đau thương và hy sinh của họ. Khốn nõi, bất chấp những thắng lợi hiển nhiên của quân đội dưới quyền, hình như quan niệm ấy không hoàn toàn đáp ứng, kể cả những năm 1960 sau này. (Để chứng minh cho lòng tận tụy của những đơn vị chiến đấu của GCMA được đài phát thanh quân đội nhân dân truyền đi tháng 9 năm ấy. Những con người cô đơn ấy sẽ như thế nào? Chết hết chăng? Hoặc chết hoặc chôn hết vũ khí và ký hiệu rồi vào rừng ở với phụ nữ Việt Nam? Họ sống phân tán trong các tỉnh phía Bắc Việt Nam: cuộc sống không còn thích hợp với đẳng cấp của họ!).
Năm 1953, theo thói quen, ông Giáp chuẩn bị cho giai đoạn mới.
Trung ương Đảng công bố những yêu cầu chiến lược của chiến dịch Đông 1953 và Xuân 1954:
- Giải phóng Lao Cai và vùng Tây Bắc - Tổ chức một cuộc tấn công ở Lào - Dấu kín một bộ phận quan trọng quân chủ lực và chuẩn bị cho họ sẵn sàng làm nhiệm vụ - Ở vùng đồng bằng, tăng cường du kích chiến - Ở phía Nam, Quân khu 5 tổ chức tấn công trên cao phía Tây để bảo đảm vùng giải phóng.
Vì mục đích chiến lược, chúng tôi phân tán cơ quan (đại bản doanh ở Yên Bái) chuyển văn phòng và nhà trường về phía sau, trong tháng 10, tuyển hàng nghìn dân công.
Nửa tháng 11, theo kế hoạch này, một bộ phận lực lượng di chuyển về hướng Lai Châu. Hoạt động này thay đổi cơ bản tình thế quân sự nhưng kẻ địch không phát hiện được. Địch đánh Tây Bắc hay đồng bằng? Nếu họ đánh Lai Châu, họ sẽ làm gì để bảo vệ ở lê dương và chặn đường tôi sang Lào? Ngày 20 tháng 11 năm 1953, 6 tiểu đoàn quân dù nhảy xuống cánh đồng Mường Thanh và chiếm Điện Biên Phủ.
Đại tướng bốn sao Marcel Bigeard, từng là cựu Thứ trưởng Quốc phòng Pháp (1975), khi tham chiến ĐBP là thiếu tá
Thiếu tá Marcel Bigeard là người nhảy dù đầu tiên. Năm 1941 ông đội Bigeard bị quân Đức bắt khi chiếm nước Pháp. Sau đó ông được thả và cử làm thiếu úy chỉ huy một đội quân thuộc địa Pháp ở Bắc Phi. Sau khi được quân Anh huấn luyện, ông trở thành lính nhảy dù, nhảy xuống vùng du kích. Chiến đấu ở đó, ông đạt danh hiệu Brishtish Distinguished Service Order (phục vụ đặc biệt theo mệnh lệnh nước Anh) một ưu điểm hiếm hoi đối với một sĩ quan trẻ tuổi. Ông đã có mặt 2 lần ở Đông Dương-lần thứ nhất năm 1945 lúc bấy giờ ông là đại úy, và lần thứ hai năm 1948 là chỉ huy đại đội trong một tiểu đoàn quân Việt Nam người dân tộc Thái trước khi ông quay lại lần thứ 3 năm 1952 đứng đầu tiểu đoàn dù thứ 6 với một nghìn lính dù.
Trước khi nhảy xuống Điện Biên Phủ, người ta bảo ông rằng không có sự chống cự ở đó, nhưng ông Bigeard kể lại: “Có hai đại đội Việt Minh ở khu vực chúng tôi nhảy xuống. Nhiều người của chúng tôi bị giết trước khi chạm đất, một số khác bị thương nặng khi rơi xuống đất. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt cả ngày với 40 người của chúng tôi bị chết và hai đại đội Việt Minh hầu hết bị tiêu diệt”. Một tuần sau đích thân Navarre tổ chức một cuộc kiểm tra: ông quyết định với 10.000 lính hiện có và 5.000 lính dự bị, sẽ tổ chức một vị trí “hoàn hảo”.
Ông Giáp khẳng định: “Ý định của Navarre là sau khi củng cố Điện Biên Phủ sẽ có thể nối với Lai Châu rồi mở rộng địa bàn hoạt động bảo đảm việc phòng thủ thượng Lào. Nhưng đến hạ tuần tháng 11, địch đã phát hiện hiện được những triệu chứng mới: nhiều đơn vị chủ lực kể cả những đơn vị thiện chiến nhất đang di chuyển lên hướng Tây Bắc. Bây giờ cần phải chọn lấy một quyết định: hoặc rút quân khỏi Điện Biên Phủ hoặc tăng cường Điện Biên Phủ? Ngày 3 tháng 12 Navarre đã chọn phương cách thứ hai và ra chỉ thị cần giữ vững Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào. Đây là một quyết định có tính chất chiến lược cực kỳ quan trọng” (Sđd, trang 80, 81, 82) chẳng phải nói gì thêm: đó là một quyết định chưa được suy nghĩ kỹ.
Điện Biên Phủ chỉ cách biên giới Lào 11 km, luôn luôn là một vị trí chiến lược quan trọng. Vì ở ngay ngã ba con đường thương mại nối với Trung Quốc, Thái Lan và Lào. Vị trí xa xôi và khó tiếp cận, là một vị trí chiến lược cuối cùng của quân đội Pháp từ khi trở lại Đông Dương. Một lực lượng kháng chiến kiên cường do anh Nguyễn Văn Giáp chi huy đã hy sinh anh dũng. Navarre quyết định ở lại Điện Biên Phủ vì 3 lý do khác nhau. Cắt được các trục tiếp tế của Việt Minh, Navarre có thể chấm dứt cuộc nổi dậy của nhân dân Lào. Nay mai, các đơn vị Việt Minh sẽ bị tiêu diệt khi tham gia các trận chiến đấu phức tạp: một cứ điểm được củng cố vững chắc có xe bọc thép nhẹ và pháo binh yểm trợ cho các đơn vị bộ binh truy kích các đơn vị Việt Minh trước khi đuổi họ ra khỏi vùng này. Một lần nữa Giáp đặt ngón tay vào điểm chính.
“Vấn đề của chúng ta là phán đoán hành động của địch như thế nào. Chúng có thể giữ Điện Biên Phủ vừa giữ Lai Châu đồng thời hoặc co lại về một nơi, tăng viện thêm nhiều, biến thành một tập đoàn cứ điểm, nhưng chúng cũng có thể rút. Rút thì mất đất, tăng nhiều thì phân tán lực lượng cơ động. Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ bộc lộ mâu thuẫn của địch giữa chiếm đóng đất đai và tập trung lực lượng, giữa chiếm đóng chiến trường rừng núi với củng cố chiến trường đồng bằng.
Ông Giáp nhấn mạnh thế hai ngã của Navarre càng khó khăn: “Ngày 7 tháng 12 địch đã rút một bộ phận lực lượng từ Lai Châu để tăng cường cho Điện Biên Phủ; số còn lại cũng chuẩn bị rút lui. Ngày 10, chúng tôi đánh vào Lai Châu đồng thời cho một số đơn vị chặn đường rút về Điện Biên Phủ. Ngày 12, chúng tôi giải phóng thị xã Lai Châu. Sau hơn 10 ngày chiến đấu, truy kích, bao vây và tiêu diệt, bộ đội giải phóng những phần của tỉnh Lai Châu còn bị địch chiếm. Địch đã nhanh chóng tăng cường Điện Biên Phủ”.
Không phải chỉ có thế: “Để nghi binh địch, ngày 21 và 22 tháng 12, nhiều đơn vị quân Pathet Lào và Việt Minh cùng tấn công 2 trận vào vùng biên giới Lào, tiêu diệt hai tiểu đoàn cơ động và phần lớn một tiểu đoàn thứ ba và tiểu đoàn pháo. Địch đã phải gấp rút điều động những lực lượng cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ đến tăng viện cho Sênô, tổ chức Sênô thành một cứ điểm. Sênô trở thành một điểm tập trung lực lượng của địch. Nava bị bắt buộc phải phân tán lực lượng”.
Tướng Pháp Navarre, Cogny và đại tá De Castries ở Điện Biên Phủ
Quyết định ở lại Điện Biên Phủ, Navarre không biết rằng ông đã thay đổi kế hoạch. Nhưng ông vẫn theo đuổi việc tập trung lực lượng cho chiến dịch Atlante dùng 15 tiểu đoàn tấn công vào miền Nam Quân khu 5 (ở Trung Bộ) không liên quan đến tình thế mời này. Cùng lúc này ngày 26 tháng Giêng 1954, bộ đội của ông Giáp tấn công Tây Nguyên, chiếm được Kontum ngày 5 tháng 2 và tiến đến tận đường quốc lộ 19. Đáp lại Navarre phải điều động nhiều đơn vị ở miền Bắc ở đồng bằng Bắc Bộ tới Tây Nguyên. Ông tiếp tục tập trung lực lượng chuẩn bị cho cuộc hành quân Atlante, nhưng một lần nữa ông bị ông Giáp cản trở. Bộ đội của ông Giáp tiếp tục tấn công Lào. Ông phải chấm nhận tăng viện cho Luan Prabang bằng những lực lượng cơ động rút từ Việt Bắc. lực lượng cơ động của địch tiếp tục bị phấn tán.
Ông Giáp kể:
“ Vào thượng tuần tháng 3 năm 1954, nhìn chung hình thái chiến sự trên các chiến trường nổi lên hai đặc điểm đáng chú ý:
Một là quân ta chủ động ở một loạt chiến dịch tấn công trên nhiều hướng đã chiến thắng khắp nơi…
Hai là khối cơ động chiến lược của địch không còn tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ nữa mà bị phân tán ra nhiều hướng từ 44 tiểu đoàn bây giờ chỉ còn 20 tiểu đoàn…
Navarre cho rằng mặc dầu đã bị những tổn thất nhất định nhưng đã chống đỡ và ngăn chặn được các cuộc tiến công Thu Đông của ta và thời cơ tốt của chúng đã đến. Tướng Nava ra lệnh tiếp tục tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam, tập trung một binh lực tương đối lớn tiếp tục đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5, tiếp tục thực hiện kế hoạch Atlante bị bỏ dở. Ngày 12 tháng 3 chúng mở cuộc tiến công đổ bộ lên Quy Nhơn, không ngờ rằng ngày hôm sau vào ngày 13 tháng 3 năm 1954 quân ta mở cuộc tiến công lớn vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ”.
Ông Giáp luôn gây rối cho Navarre làm cho ông ta mất hết thời cơ. Ông Giáp cưỡng bức ông ta vi phạm hai nguyên tắc không thể thay đổi của chiến tranh: thứ nhất ông ta không có khả thực hiện mục đích của mình-thành lập một lực lượng dự bị trung tâm-và thứ hai việc tập hợp lực lượng chạy quanh ngắn ngủi buộc phải phân tán lực lượng cho kế hoạch Atlante. Một cuộc tranh chấp nghiêm trọng giữa Navarre và Cogny người chỉ huy Hà Nội càng thổi bùng những vấn đề thêm phức tạp.
Cogny, một chiến binh có kinh nghiệm và được tôi luyện, không chịu Navarre từ buổi ban đầu; đó là trường hợp thúc đẩy đối lập. Ở Sài Gòn Navarre có một đại bản doanh hiện đại có điều hòa nhiệt độ, với đầy đủ các cố vấn giúp việc xung quanh, ông ta di chuyển người ghi điểm to lớn trên bản đồ. Còn ở phía Bắc Cogny phải chăm lo đến mọi vấn đề hàng ngày, các vật chất kỹ thuật cũng như vận hành của chúng khi chuyển đến, các đường giao thông liên lạc bị cắt đứt, những khó khăn trên đường tiếp tế, bệnh tật của sĩ quan cao cấp và ý thích thất thường của họ cũng nưh đoàn tùy tùng của khách vãng lai. Đó là dẫn chứng tiêu biểu cho sự đối lập của con người trong văn phòng và con người ngoài thực địa. Trong trường hợp này, sự chống đối chỉ chấm dứt khi họ đã chết sau những năm rời khỏi Đông Dương và trao đổi tình cảm trên quảng trường công cộng ở nước Pháp.
Cogny và Navarre tranh luận với nhau về vị trí của họ trong lịch sử: Navarre muốn chứng minh những quyết định chính xác của ông ta, Cogny tìm cách trút trách nhiệm thất bại do những quyết định đó gây nên. Cogny chê trách chủ yếu Navarre không đến ngay Điện Biên Phủ từ đầu, đưa quân vào một chuyện nghi binh không hiệu quả, xa hỏa lực chính, mà chỉ cần tổ chức một cuộc hành quân ứng cứu. Cogny cũng muốn Navarre hoãn việc sử dụng 20 tiểu đoàn có thể để giảm sức ép ở Điện Biên Phủ, để ông ta có thể sử dụng gấp đôi lực lượng trong một trận tấn công vào một vị trí mà dù có chiến được lúc bấy giờ cũng hề đưa lại thắng lợi cho cuộc chiến.
Cuộc tranh luận còn tiếp tục về sau. Đúng lúc xảy ra một câu chuyện về một trận đánh nổi tiếng trong lòng chảo dài 16 km rộng 9 km gần biên giới Lào của một con người hình như đã thấy ngày nhận lon tướng.
Tháng Chạp năm 1953, ông Giáp đã 42 tuổi, nhưng nhìn có vẻ trẻ hơn. Ông luôn có những nét tinh tế, đôi mắt to bộ tóc dày màu hạt huyền phía trên lông mày. Một hôm ở Pắc Bó, Cụ Hồ Chí Minh cười nói với các đồng chí xung quanh rằng: “Giáp xinh như một phụ nữ”. Nhưng không có gì phụ nữ trong ông: đó là một con người có sức lực kỳ lạ và trí tuệ mạnh mẽ. Ông yên tĩnh phân tích tình hình và hạ quyết tâm không do dự cho các trận đánh. Bây giờ ông sẵn sàng tiêu diệt đối thủ bằng một bầu máu lạnh.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 10:13 am
Chương 10: Vũ đài tuyệt hảo
Đã một năm, chúng ta không thấy thắng lợi nào. Bây giờ, chúng ta sẽ thấy rõ ràng, như ánh sáng cuối đường hầm.
Tướng Henri Navarre, 1953
Điện Biên Phủ - trụ sở của một tỉnh trưởng tỉnh biên giới, lúc bấy giờ chỉ là một xóm nhỏ tất cả độ một trăm sàn nhà rải rác trong một thung lũng dài 18 km, rộng 8 km ở Tây Bắc Việt Nam. Từ khi người Pháp chiếm được Bắc Bộ, Điện Biên Phủ trở thành nhiệm sở của một viên chức giản dị và cô đơn như người ta thường gọi, được cử đến để thu thuế.
Nhân dân cư trú ở đây đã hàng thế kỷ, các làng mạc ở bên cạnh một con suối, sông Nậm Rốm, chảy qua thung lũng. Người viên chức khổ sở phải cách biệt với nền văn minh Hà Nội hàng mấy ngày đường, gần như bị đầy ải, mà bù lại thật nghèo nàn, ngoài việc sống với người láng giềng dân tộc Thái duy nhất ở đầu cuối thế giới. Trong trường hợp này, những trò tiêu khiển không thiếu: Có những điều kỳ dị để ngắm nhìn, những điều để học hỏi, một cách sống khác với những trò vui mới để giải trí. Thời gian yên bình trôi đi theo vòng quay đều đặn bốn mùa, theo thiên nhiên và theo con người. Không ai nghĩ rằng cái lòng chảo với những ngọn đồi xa xôi bao quanh ấy mà người Thái gọi là Vũ đài tuyệt hảo lại có một ngày xảy ra những trận đánh lớn nhất thời đại, một cuộc chiến giữa hai bên cùng hết sức dũng cảm. Không, không có lý do gì để trụ sở của ông tỉnh trưởng một tỉnh biên giới lại là nơi một vị tướng đã vận dụng đầy đủ những tài năng chiến thuật kỳ diệu của mình và chứng tỏ đúng nghĩa một vị Tổng tư lệnh.
Năm mươi lăm ngày đêm chiến đấu ở Điện Biên Phủ tự nó không phải là một kỷ lục. Quân Mỹ đã giữ Bataan sáu mươi sáu ngày, quân Đức chiếm Stalingrad bay mươi ngày, quân Anh giữ Tolrouk hai trăm bốn mươi mốt ngày. Ở Stalingrad có 330.000 lính Đức bị một triệu Hồng quân Xô Viết bao vây; so với tập đoàn cứ điểm 14.000 lính Pháp chiếm và 50.000 chiến sĩ Việt Minh đánh cho “vàng mắt”. Đó là cách phát triển chiến trận với những hiệu quả của nó đã được ghi vào sử sách là một trong những trận quyết định nhất của mọi thời đại cùng với tên tuổi ông Võ Nguyên Giáp.
Lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ
“Đầu tháng 12, Navarre xây dựng một kế hoạch phòng ngự chia thành 4 phân khu, với ý định:
- Làm chậm bước tiến của quân ta bằng cách dùng máy bay đánh phá các đường giao thông chính của chúng ta
- Dùng các loại bom hạng nặng để đẩy lùi quân ta ra khỏi Lai Châu
- Thu hút chủ lực ta tấn công Điện Biên Phủ để gây cho chúng ta tổn thất nặng nề
- Sau những thắng lợi đó, Navarre đã mở rộng vùng chiếm đóng
Đối với Điện Biên Phủ, Navarre nghĩ rằng pháo binh và xe tăng của ông ta có thể chặn mọi con đường tiếp cận của quân đội ta, lực lượng pháo binh cơ giới và không quân đủ sức tiêu diệt các căn cứ pháo binh của ta mà chúng cho là dễ phát hiện, vì buộc phải đặt ở sườn núi phía trong lòng chảo, còn nếu đặt ở phía ngoài thì lại quá tầm bắn cần thiết-khoảng 10 đến 12 km; một hệ thống tổ chức phòng ngự đủ mạnh để tiêu hao và đánh lui mọi lực lượng tiến công, có sẵn một lực lượng cơ động sẵn sàng để phản kích và tiêu diệt mọi lực lượng tiến công từ bên ngoài đến…
Với lực lượng hùng hậu và cơ cấu phòng ngự vững chắc như trên, Navarre đã từng nhận định rằng Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất chưa từng có ở Đông Dương, là “một pháo đài không thể công phá” (Sđd, trang 128)”. Do nhận định chủ quan đó, mà địch đã phán đoán rằng quân ta ít có khả năng tiến công vào Điện Biên Phủ, và nếu quân ta mạo hiểm tấn công vào thì càng tốt, vì chắc chắn là quân ta không thể nào tránh khỏi thất bại… Chúng đã có lần láo xược thả truyền đơn thách thức quân ta tiến công Điện Biên Phủ…” (Sđd, trang 123).
Tập đoàn cứ điểm của người Pháp giống như một dấu chân khổng lồ hướng về phía Bắc trong thung lũng bằng phẳng: Ngón chân cái là đồi Độc Lập, những bộ phận ngang của bàn chân là khu trung tâm, hình thành một dấu chân dài với hàng rào dây thép gai và bãi mìn bảo vệ-con sông chảy ở giữa; Hồng Cúm là gót chân. Trên một chu vi khoảng 45 km, đã bố trí 50 tiểu đoàn để phòng ngự an toàn, nhưng vẫn cần đến pháo binh và súng cối yểm trợ ba cứ điểm phía Bắc và một phía Nam; những pháo binh súng cối khác phòng ngự trung tâm ở mặt Bắc. Từ xa, tập đoàn cứ điểm giống như một con nhím đang giương hết lông lên.
Chỉ huy tập đoàn cứ điểm ĐBP - đại tá Christian de Castries
Chỉ huy tập đoàn cứ điểm là đại tá De Castries. Ông ta đặt tên phụ nữ Pháp cho 9 cứ điểm chính, chuyện kể rằng đó là tên các cô giáo của Castries. (Bigeard không có ý đó: theo ông thì Castries cũng “không khỏe hơn những cô giáo ấy”). Độc Lập gọi là Gabrielle, Bản Kéo là Anne Marie, Him Lam là Béatrice. Phân khu trung tâm là một vòng những cứ điểm kiên cố: Huguette, Fransoise, Claudine, Eliane, Dominique, Isabelle là cái gót chân. Mỗi cứ điểm kiên cố này được đánh số, ví dụ Dominique từ 1 đến 5, Eliane từ 1 đến 4. Tất cả có 49 cứ điểm tổ chức phòng ngự tách rời nhau.
Thực hiện được quả là một công trình lạ kỳ. Mỗi tiểu đoàn cần 55 hầm trú ẩn dưới mặt đất, 75 công sự boong ke cho các loại súng máy, xung quanh là những lỗ châu mai đè lên nhau dùng yểm hộ cho các đơn vị lân cận và phòng ngự mặt trước của tiểu đoàn. Các lỗ châu mai không đủ. Cứ điểm còn có công sự pháo binh. Muốn xây dựng những cứ điểm này cần 2.500 tấn vật liệu công binh và 500 tấn dây thép gai. Toàn bộ 3.600 tấn vật liệu các loại do máy bay chuyên chở đến để tổ chức phòng tuyến đồn trú của 10 tiểu đoàn và 2 lữ pháo. Việc tính toán chẳng có gì khó khăn: 1.200 chuyến bay của C47 từ Hà Nội hoặc Hải Phòng lên mới đủ để chở hết số hàng này. Trung bình 80 chuyến mỗi ngày cũng phải mất 5 tháng mới hết!
Ông Giáp cũng cần nhiều thời gian chăng? Navarre nghĩ rằng quân Việt Minh phải đi bộ mất hàng tháng trời mới có thể tổ chức lực lượng tấn công tập đoàn cứ điểm được. Họ không thể tổ chức tấn công khi các đội tuần tiễu Pháp thường xuyên có mặt trên các ngọn đồi để đánh trả quân địch tới gần. Không, nhất định không thể. Vì hy sinh quá lớn… (sau khi lui quân, Bigeard lúc bấy giờ mới 38 tuổi, khẳng định sai lầm là “tưởng rằng quân Việt Nam không thể đến đó bằng sức mạnh”, nhưng người sĩ quan trẻ tuổi lại tự hào đã dẫn quân đến một vị trí quan trọng mà ông ta nghĩ rằng không thể đánh chiếm được như những người khác).
Lúc đầu thiếu 30.000 tấn vật liệu công binh. Như vậy phải có hầm ngầm ở chỉ huy của Q.G, trung tâm thông tin liên lạc, bệnh viện và điểm lọc nước sạch. Để bù vào số xi măng và sắt thép đổ bê tông, căn cứ đồn trú đã chặt nhiều cây to trong thung lũng: điều đó làm cho Việt Minh từ trên đồi cao dễ dàng quan sát hoạt động của quân đội trong lòng chảo.
Về nhân công, 40 người mất 8 ngày để đào một hầm trú ẩn cho 10 lính và 1 khẩu pháo. Cũng chừng ấy nhân công cần 5 ngày để đào 1 công sự pháo binh. Một tiểu đoàn không làm gì hết ngoài việc đào công sự chuẩn bị cho chiến đấu mất 2 tháng. Một trong những quyết định đầu tiên của Castries là xác định ưu tiên giữa người đào công sự và người đi tuần tiễu.
Theo ý Navarre, cần ưu tiên cho việc tuần tiễu, tiêu diệt quân Việt Minh ở vùng lân cận (điều mà Navarre không biết rằng toàn thể quân đội bước vào chiến đấu sau này sẽ thiếu đi công việc dịch vụ chuẩn bị cần thiết trước đó). Nhưng lính Pháp vẫn phải đào! Trong những tháng cuối năm 1953 và đầu năm sau, những đơn vị xung kích-có khi đến nửa quân số đồn trú-phải mất cả ngày hàng tuần lễ để đi tìm quân địch. Họ cũng thu được một ít kết quả, nhưng không thể so với những mất mát: một nghìn ba trăm bảy mươi thương vong, phần lớn bị các bệnh khác nhau, và số còn bị thương vong trong chiến đấu. Gần 10 % lực lượng bị thương vong trong chiến dịch Điện Biên Phủ chỉ từ 20 tháng 11 năm 1953 đến 15 tháng 2 năm 1954. Sự tiêu hao lực lượng quân sự đó sẽ rất khó khăn cho những tuần lễ tới khi cuộc chiến thật sự bắt đầu.
Binh lính phải đi tuần tiễu. Khi không đi tuần tiễu, họ phải đào công sự. Vì vậy không bao giờ đủ quân số đi tuần tiễu cũng như đào công sự. Tăng cường tuần tiễu có thể phát hiện và tiêu diệt những sư đoàn chủ lực của ông Giáp. Tăng cường việc đào hầm có thể củng cố hệ thppngs phòng ngự. Binh lính không bao giờ được nghỉ ngơi. Họ đào hoặc đi, nhưng cả hai việc đều đau chân, đau lưng, viêm tấy, và chai sạn chân tay; mồ hôi chảy qua lỗ chân lông bằng nước lọc ở trung tâm-chỉ do một người điều khiển trong suốt thời gian chiến dịch (uống nước ruộng là mắc bệnh lỵ amip. Mọi người biết thế, nhưng khi những người mang nước bị tai nạn, những người khát nước phải uống nước mưa hoặc nước ruộng rồi chờ bệnh tật đến. Những nỗi khổ ấy vẫn chưa thấm vào đâu!).
Người tạ sợ đến lúc nào đó cỏ mọc cao lên phất phơ trước làn gió có thể ngăn cản việc ngắm bắn: cần phải cắt phạt đi, nhưng phân công người nào. Nhiệm vụ ấy được xếp ưu tiên cuối cùng và không ai phải làm việc ấy cả. Từ 10 đến 16 nghìn ngưiơì, gần hai trăm xe ô tô, mười xe tăng, mười bốn máy bay và năm máy ủi ủi nát và chôn sâu xuống đất; những gì còn lại dùng thuốc nổ thổi tung đi.
Khu trung tâm và phía Nam chật hẹp không thể đặt cố định trong công sự phần lớn ở trung tâm. Các pháo thủ của ông Giáp đã dùng ống nhòm xác định cho mỗi vị trí một con số. Sau đó họ tra số để dễ dàng tìm mục tiêu, đặt máy ngắm chính xác và quan sát điểm rơi ngay ban ngày (một nhiệm vụ của họ càng dễ dàng hơn sau này chiến dịch mờ màn một thời gian ngắn nhờ quân Việt Nam lấy được một bản đồ tỷ lệ cao do quân Pháp dựng lên bằng ảnh máy bay). Thật quá dễ dàng: không phải chỉ pháo binh quân Pháp mới được đánh dấu, mà cả những P.C cứ điểm trung tâm quan trọng cũng bị lộ vì 300 trong số 1.400 máy vô tuyến điện của tập đoàn cứ điểm đều mắc anten bên ngoài, do đó chỉ rõ vị trí cho đối phương.
Trước khi cuộc chiến bắt đầu, Bộ Tổng chỉ hy của ông Giáp cho xuất bản một tài liệu mới về chiến dịch. Trong đó có đoạn: “muốn bảo đảm thắng lợi, cần phải bố trí ưu thế về binh lực gấp ba lần và hỏa lực gấp năm lần quân địch” và một đoạn khác: “sau khi mở cửa phải xung phong vào cứ điểm địch và giữ lấy vị trí bằng bất cứ giá nào”. Sau khi viết xong bản tài liệu, ông Giáp tiến hành đưa nguyên tắc lý luận vào thực tế, với sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc.
Các tướng Wei Guoiping và Li Cheng Hu là những cố vấn ở Điện Biên Phủ (theo tướng Bigeard, sự hiện diện và ảnh hưởng của các vị cố vấn này cũng như những người tiền nhiệm, giải thích thái độ của ông Giáp đối với việc hy sinh tính mạng chiến sĩ: ở Triều Tiên quân Trung Quốc đã áp dụng những đợt xung phong của cả biển người để chiến thắng những làn đạn súng tự động, họ yêu cầu ông Giáp cũng theo gương họ). Ngoài các vị tướng, còn hàng trăm cố vấn phân phối trong tất cả các cấp của quân đội, chủ yếu là trong lực lượng pháo binh chiến dịch và pháp phòng không DCA những binh chủng mà chiến sĩ Việt Nam chưa có kinh nghiệm-nhưng họ tiến bộ rất nhanh-Bộ đội Việt Nam đã học tập cách sử dụng pháo binh đúng vào lúc chập tối, còn một ít ánh sáng đủ để trông thấy mục tiêu và ngắm bắn nhưng không kịp cho máy bay và pháo binh địch phản kích.
Ông Giáp gợi lại ngày đầu của chiến dịch:
… “Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ được bố trí thành tập đoàn cứ điểm gồm 3 phân khu, tất cả có 49 cứ điểm… (Sđd, trang 120, 121).
Phân khu quan trọng hơn hết là phân khu trung tâm hai phần ba lực lượng của địch (tám tiểu đoàn gồm 5 tiểu đoàn chiếm đóng và 3 tiểu đoàn cơ động), có nhiều trung tâm đề kháng yểm hộ lẫn nhau và bao bọc lấy cơ chỉ huy, các căn cứ hỏa lực và căn cứ hậu cần, đồng thời bảo vệ sân bay… Điện Biên Phủ có hai sân bay. Ngoài sân bay chính ở Mường Thanh lại còn một sân bay dự bị ở Hồng Cúm, ngày ngày được nối liền với Hà Nội, Hải Phòng bằng một cầu hàng không, trung bình mỗi ngày có 100 chiếc, máy bay vận tải tiếp tế khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù khoảng 100 đến 150 tấn… Nhưng do vị trí của nó nằm cô lập ở giữa núi rừng trùng điệp và mênh mông của miền Tây Bắc, rất xa những căn cứ hậu phương, nhất là những căn cứ không quân lớn của địch, mọi việc tăng cường hoặc tiếp tế đều hoàn toàn dựa vào đường không. Do đó, nếu đường hàng không bị hạn chế hoặc bị cắt đứt thì tập đoàn cứ điểm rất mạnh sẽ ngày càng lộ rõ nhược điểm của mình. Trường hợp lâm nguy, cũng khó lòng rút quân được toàn vẹn. Đó là chưa nói đến tinh thần của bính lính địch nói chung là bạc nhược.
… Chúng ta hạ quyết tâm tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ để tiêu diệt những binh lực tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm… nhiệm vụ của bộ đội ta trên các chiến trường cả nước là phối hợp hoạt động với Điện Biên Phủ tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, phân tán giam giữ lực lượng của chúng, giảm đến mức tối đa khả năng của chúng tăng quân thêm cho mặt trận Điện Biên Phủ…”
Trước khi bắt đầu tấn công Điện Biên Phủ, ông Giáp đã thực hiện được hai mục tiêu vô cùng quan trọng: tập trung một lực lượng pháo binh và càng ngày càng phân tán các lực lượng của Navarre. Ông Giáp không chỉ ngăn trở vị tướng Pháp tập trung trở lại các đơn vị để tấn công hoặc đẩy lùi tấn công mà còn phải phân tán những phương tiện vận tải hàng không: việc tiếp tế cần thiết cho các đơn vị hàng không nhỏ lẻ yểm trợ cho lực lượng cơ động ở Lào và ở Tây Bắc Việt Nam cho nên thiếu máy bay cần thiết tiếp tế cho Điện Biên Phủ. Rõ ràng, khi bộ đội của ông Giáp vào vùng này, De Castries vẫn chưa sẵn sàng.
Từ cuối tháng Chạp năm 1953 đến đầu tháng Giêng năm 1954, ông Giáp đã lệnh cho sư đoàn 308 hành quân gây sức ép ở Lào, và sư đoàn 325 mới thành lập-sư đoàn Sao Vàng-tiếp tục làm nhiệm vụ ấy ở châu thổ sông Mêkông. Bộ đội Nam Bộ lúc nào cũng góp phần vào cuộc chiến mặc dầu xa sự chỉ huy của ông. Navarre đã chấp nhận đáp lại, đưa thêm một ít lực lượng cơ động dự bị đúng lúc ông thấy rằng hiệu quả chẳng đáng kể gì nữa.
Việt Minh tăng cường lực lượng bộ binh vào lúc quân Pháp chiếm lại Điện Biên Phủ, cuối tháng 11. Quân Pháp đã từng thách thức quân Việt Minh, mà họ không thấy ngay rằng ông Giáp đã nhận lời thách thức, vì rừng rậm đã giấu kín những hoạt động của bộ đội Việt Minh. Tiểu đoàn 980, tiểu đoàn pháo binh mạnh của sư đoàn 316 của tướng Lê Quảng Ba vào vị trí tập kết nửa tháng Chạp. Sư đoàn thép 308 do tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy gồm chủ yếu bộ đội tình nguyện Hà Nội cũng tập kết tháng Chạp, sau đó đi Luang Prabang trước khi trở về Điện Biên Phủ vào tháng Giêng, tất nhiên hoàn toàn hành quân bộ. Trung đoàn 57 của sư đoàn 304 do đại tá Hoàng Khải Tiến chỉ huy tập kết ngày 24 tháng Giêng. Các tiểu đoàn khác của sư đoàn 304, 312 và 316 và trung đoàn độc lập 148 lần lượt chiếm lĩnh các ngọn đồi vào vị trí chiến đấu. Pháo binh và công binh nặng của sư đoàn 351 cũng vào vị trí tập kết.
Đoàn xe đạp thồ vận chuyển lương thực, vũ khí vào mặt trận Điện Biên Phủ.
Khi bắt đầu chiến đấu, ông Giáp bố trí 28 tiểu đoàn bộ binh-tổng số 37.500 chiến sĩ kể cả pháo thủ và công binh bao vây “Vũ đài tuyệt hảo” và mảnh đất lầy lội của nó. Khoảng 10.000 binh sĩ dự bị trang bị đến tận răng bố trí gồm bộ binh, pháo binh và công binh làm lực lượng dự bị. Toàn bộ cái thế giới hùng vĩ ấy được 50.000 chiến sĩ hậu cần với số dân công gấp 4 lần nuôi dưỡng và cung cấp đạn dược. Tất cả khoảng 300.000 người hành quân theo con đường dọc biên giới Trung Quốc, con đường 13B đến sông Hồng và đường 41 đến Điện Biên Phủ. Tất cả khoảng 800 km hành quân dưới bom đạn máy bay.
Ông Giáp viết cho chúng tôi về việc tăng cường lực lượng:
“… Chúng tôi đã xúc tiến mạnh mẽ công tác chuẩn bị về mọi mặt cho chiến dịch sắp tới:
… Thứ nhất, Điện Biên Phủ nối liền với đường 41 bằng một con đường ngựa dài gần 100 km. Con đường đi qua những đồi núi liên tiếp trên những độ dốc khá cao, bị cắt đứt bởi gần 100 con suối lớn nhỏ. Muốn sử dụng chủ lực, nhất là pháo binh mở cuộc tiến công thì vấn đề đặt ra trước tiên là phải gấp rút mở con đường nhựa để xe hơi có thể chạy được. Quân và dân chúng ta đã khắc phục những khó khăn rất lớn mở được đường, bắc được hàng chục chiếc cầu qua suối trong một thời gian tương đối ngắn. Về sau cho đến khi chiến dịch kết thúc, các đơn vị công binh đã làm tròn nhiệm vụ giữ vững con đường được tốt và nước lũ gây thêm cho chúng tôi rất nhiều khó khăn (Việt Minh có khoảng 800 xe tải trong đó 600 Molotova Liên Xô 2 tấn rưỡi do Trung Quốc viện trợ, số còn lại là xe Mỹ do Trung Quốc chiếm được ở Triều Tiên.
… Thứ hai, pháo binh của chúng tôi đã được di chuyên rbằng xe hơi đến vùng phụ cân Điện Biên Phủ, rồi từ đó cho đến trận địa dã chiến, bộ đội chúng tôi đã từng dùng sức người để kéo pháo trong suốt bảy ngày đêm liền… Tiếp đó chúng tôi đã mở năm con đường mới để có thể vận chuyển pháo binh bằng xe hơi, tạo điều kiện sử dụng pháo binh một cách cơ động hơn. Đây là những con đường được mở qua các sườn núi, ngọn đèo trong tầm hỏa lực pháo binh của địch, qua những nơi từ trước đến nay chưa bao giờ có một vết đường nào cả. Bộ đội chúng ta đã bạt núi xẻ đồi hoàn thành nhiệm vụ mở đường cho pháo binh trong thời gian quy định. Những con đường ấy đã được bảo quản tốt và giữ được bí mật nhờ ngụy trang kín đáo mãi cho đến lúc chiến dịch kết thúc. Trên những đoạn đường quá hiểm trở, xe hơi không thể đi qua thì pháo lại được kéo vào trận địa bằng sức người. Không gì cản trở được họ, kể cả pháo binh và không quân địch. Đã từng có những chiến sĩ hy sinh thân mình để bảo vệ pháo…
… Thứ ba, Quân đội chúng ta đã tổ chức những trận địa pháo binh hết sức kiên cố, đủ sức chịu đựng những trọng pháo 105 và 155 mm của địch ở những vị trí hoàn toàn bất ngờ đối với chúng. Các trận địa này được xây dựng vào sườn núi, sườn đồi lại được ngụy trang rất kín đáo nên máy bay trinh sát của địch khó phát hiện, và lại có đủ khả năng chịu đựng được mọi sự oanh tạc của địch. Chúng ta lại tổ chức những trận địa nghi binh để làm lạc hướng quân địch, phân tán hỏa lực và tiêu hao bom đạn của chúng…
… Thứ tư, Quân đội chúng ta đã xây dựng những cơ sở chỉ huy kiên cố phần lớn nằm sâu trong các sườn núi có thể chịu đựng được những trận bắn phá của pháo binh và không quân địch.
… Cuối cùng chúng ta đã chuẩn bị tốt về mặt cung cấp tiếp tế. Nhu cầu của chiến sĩ về lương thực, đạn dược, thuốc men là rất lớn. Chúng ta đã tổ chức những tuyến cung cấp dài hàng mấy trăm kilômét đi qua những quãng đường hiểm trở và ngày đêm bị oanh tạc phá hoại tìm mọi cách cản trở sự vận chuyển của chúng tôi. Hàng chục vạn anh chị em dân công nam nữ đã không quản khó khăn gian khổ hăng hái phục vụ tiền tuyến, tính đến trên ba triệu ngày công. Các đoàn xe hơi đi không đèn trong suốt nhiều đêm, lợi dụng sương mù để chạy ban ngày. Hàng vạn xe đạp thò và xe thô sơ, hàng nghìn thuyền mảng, hàng đoàn lừa ngựa đã được huy động để vận chuyển lương thực, đạn dược qua đường lớn đường nhỏ, sông sâu, suối lũ để bảo đảm nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến…”
Quân Pháp tin tưởng rằng pháo binh của ông Giáp dù có đem vào Điện Biên Phủ được cũng không thể bắn thẳng. Pháo phải bắt buộc bắn từ bên kia đồi qua trên đỉnh đồi. Thực tế, các pháo thủ của ông Giáp ở rtong những công sự ngầm dưới đất trên sườn trong của các đồi núi kiềm chế cả lòng chảo và có thể ngắm bắn trực tiếp với độ chính xác rất cao.
Sư đoàn pháo 351 lúc đầu được trang bị loại pháo 75mm Mỹ do Hồng quân Trung Quốc cướp được của quân Tưởng, đến năm 1953 nhận thêm 48 khẩu 105 mm Mỹ từ chiến trường Triều Tiên gửi về. Đến nửa tháng 12 năm 1953, trung đoàn 675 (trang bị 24 khẩu 75 mm và 10 khẩu 120 mm) đến phối thuộc sư đoàn 308. Trong những tuần đầu của tháng Giêng, trung đoàn pháo 45 gồm 9 khẩu đội mỗi khẩu đội 4 khẩu 105 vào tập kết, tiếp theo là trung đoàn 367 được trang bị 36 khẩu pháo cao xạ 37 mm của Liên Xô (toàn bộ tiểu đoàn được DCA bảo vệ). Sau này trung đoàn 237 trang bị trọng pháo 120 mm cũng vào tập kết. Cuối cùng ông Giáp đã có dười quyền chỉ huy 48 khẩu 75 mm, 48 khẩu pháo chiến dịch 105 mm, 48 pháo cối 120 mm, pháo cao xạ 37 mm và 60 pháo không giật 75 mm. Ngoài ra lực lượng mạnh nhất của chiến dịch là 4 dàn tên lửa Katyusha Liên Xô mỗi dàn 12 quả tên lửa 120 mm. Tất cả ông Giáp có 200 khẩu cỡ trên 50 mm trong khi quân Pháp lúc đầu bố trí 60 về sau trung bình 40 mỗi ngày khi chiến dịch bắt đầu (lực lượng pháo binh thay đổi hàng ngày vì một số pháo phải ngừng hoạt động vì bị hỏa lực đối phương tiêu diệt).
Các pháo thủ Pháp có mặt trên trận địa đã sử dụng xấp xỉ 30.000 đạn 105 mm và hơn 100.000 đạn cỡ nhỏ trong suốt chiến dịch-vào khoảng 1.500 tấn đạn dược. Hơn nữa cần ghi nhận thêm một thiên tài tổ chức của ông Giáp khi quân đội và dân công mang 8.000 tấn lương thực các loại, 4.500 tấn dầu hỏa và 2.250 tấn thực phẩm-trong đó có 1.700 tấn gạo trừ đi 400 tấn tiêu thụ trên dọc đường.
Khi ông biết được những tin tức quan trọng của đối phương và nhìn rõ sự phân tán lực lượng của quân đội, Navarre đã nghĩ đến việc rút quân. Nhưng làm sao tổ chức được một cầu hàng không khi các đường băng thường xuyên bị đối phương uy hiếp; ngay cả khi bố trí đủ máy bay để bảo đảm những đơn vị cuối cùng không bị tiêu diệt cũng khó lòng thực hiện mà không mang lại hậu quả nặng nề, còn việc rút quân bằng đường bộ, thì muốn cứu được 4 tiểu đoàn của phân khu trung tâm bao gồm người Việt, Bắc Phi tất nhiên không quan trọng, cần có thể phải hy sinh 6 tiểu đoàn bảo vệ phía trước, phía sau, quân dù, quân lê dương tinh nhuệ của quân đội Pháp. Không phải loại ý kiến được ủng hộ. Navarre bị bắt buộc chấp nhận cuộc chiến kể cả Castries, Langlais, Bigeard và những người khác.
Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries, 18 huân chương với một Phula màu nhỏ quấn quanh cổ, một caravat ở tay, vốn là một quý tộc bao biện, một người cưỡi ngựa nổi tiếng thế giới, và là một kẻ ăn chơi không đếm xuể nợ nần. Pierre Langlais là một quân nhân dù kỳ cựu, một con người được tôi luyên như Marcel Bigeard; đây là thời kỳ năm thứ ba ở Đông Dương, ông không thể đếm xuể những trận đánh và huân chương khen thưởng của mình. Marcel Bigeard trẻ, cứng rắn, hút thuốc tẩu, con người của trận địa, đã nổi danh, đã qua nhiều trận chiến đấu ở Algérie là một trong những sĩ quan được nhiều huân chương nhất của quân đội Pháp, 25 huân chương. Và ông ta cũng có dưới quyền hàng nghìn người châu Âu, Bắc Phi và Đông Dương (ít hơn 40% của quân Pháp đồn trú).
Chỉ có một phụ nữ Pháp, một phụ nữ trẻ 29 tuổi mỏng manh, chị Geneviève de Galard-Terraube do máy bay đưa đến Điện Biên Phủ làm bác sĩ rồi ở lại đó không thể trở về nữa. Chị được thưởng huân chương Hồng Thập tự chiến tranh và nhận Bằng danh dự vì dũng cảm dưới lưới đạn tận tụy phục vụ thương binh.
Có 18 phụ nữ khác trong tập đoàn cứ điểm: 18 gái điếm, 9 phụ nữ Việt Nam, 11 phụ nữ Algérie có tác dụng như nhà thổ quân sự trong chiến dịch (BMC) của quân lê dương. Họ đến bằng máy bay và trở về bằng đôi chân, mặc dầu số phận thế nào, mọi người đều quên họ sau khi họ còn giữ lấy đôi tay đã chết, quấn băng đẫm máu và tứ chi cắt cụt trong một nhà thương ác mộng (còn lại 49.000 chai vang Pháp và một vài thứ cần thiết cho cuộc chiến của người Pháp. Cũng có thể còn lại vài phụ nữ ấy trong một góc làng Thái bị quên lãng chẳng có giá trị gì).
Buổi sáng ngày 12 tháng 3 năm 1954, tướng René Cogny mang giày da, cao 1m90 thực hành kiểm tra đại tá De Castries. Tháng trước, tướng John W.O’Daniel, một con người nhỏ nhắn đẫy đà và quyết đoán chỉ huy quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương đến Điện Biên Phủ và đã viết một báo cáo cho cấp trên là tham mưu trưởng liên quân. Từ nay, viện trợ Mỹ cho quân Pháp đã đến 80% kinh phí chiến tranh (Mỹ đã có 385 triệu dollars để chi tiêu cho kế hoạch của Navarre nhằm thành lập lực lượng dự bị và tăng cường quân ngụy Việt Nam). Trong số trang bị họ viện trợ có 1.400 xe tăng, 340 máy bay, 350 tàu tuần tra để phát hệin những tàu các loại của Việt Minh trên vô số kênh lạch tự nhiên và nhân tạo chảy khắp đất nước. Nỗi lo lắng của Washington trước tình trạng quân cách mạng đã khiến cho tổng thống Eisenhower quyết định cho máy bay Mỹ hoạt động khi Hồng quân Trung Quốc trực tiếp giúp ông Giáp.
Hai tuần sau chuyến viếng thăm của O’Daniel ông Malcolm MacDonaldo, con người một thời lang thang, đang từ cao ủy Anh quốc ở Nam Á, vốn là con trai của một cựu thủ tướng Anh, cũng đã đến Điện Biên Phủ va trở về Singapour viết báo cáo cho ngài Anthony Eden bộ trưởng ngoại giao được cử làm phó chủ tịch cùng với người đồng nghiệp Xô viết Moloto ở một hội nghị tranh luận về tương lai Đông Dương.
Khi máy bay Cogny cất cánh trở về, đạn pháo Việt Nam cày xới đường băng và một máy bay bốc cháy trên sân bay. Cogny không còn tìm cách trở về nữa.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 10:43 am
Chương 11: Phát súng kết liễu
Một trận đánh dù tầm quan trọng của nó đến mức nào ISSOS hay Hastings, Phillippi hay Belle-Aliiance, cũng chỉ thể hiện đỉnh cao của một tình thế cách mạng
Võ Nguyên Giáp
Ông Giáp đã thay đổi phương châm tác chiến sau khi bắt đầu chiến sĩ Điện Biên Phủ. Đó là điều không thông thường của ông. Lúc ban đầu ông có ý định sẽ kết thúc nhanh chóng và ra lệnh đánh nhanh giải quyết nhanh. Nhưng rồi chính trong ngôi nhà bằng gỗ trong trung tâm sở chỉ huy chiến dịch ông đã nghĩ lại và kết luận không cho phép hy sinh nhiều xương máu chiến sĩ: nếu ông sai lầm và thất bại, bao nhiêu công lao gắng sức suốt bảy năm kháng chiến sẽ không còn ý nghĩa; quân đội Pháp sẽ chiến thắng và còn một thời gian lâu dài nữa mới có thể xây dựng lực lượng quân Việt Minh được. Ông đặt lại vấn đề và quyết định thay đổi hẳn quyết tâm. Điều đó không dễ dàng: cán bộ chiến sĩ sẽ hiểu là một sự không quyết đoán của ông và mất lòng tin vào ông. Nhưng mất mát đó còn hơn là sai lầm.
Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra lệnh nổ súng vào lúc 17h30 ngày 13/3/1954, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
… “Trong thời gian đầu, quân ta mới thực hiện bao vây Điện Biên Phủ, lực lượng của địch chưa được tăng cường ta đã có dự kiến tranh thủ thời gian lợi dụng những điều kiện sở hở của địch để đánh nhanh giải quyết nhanh. Đánh nhanh giải quyết nhanh có nhiều điều lợi: quân ta đang sung sức, vấn đề tiếp tế lương thực, đạn dược có thể bảo đảm chắc chắn. Tuy nhiên đánh nhanh giải quyết nhanh lại có một điều bất lợi rất lớn quân ta chưa có kinh nghiệm thực tế, lần này là đánh tập đoàn cứ điểm lại gặp một tập đoàn cứ điểm mạnh… Nhưng sau vài tuần lễ, địch đã tăng cường lực lượng, xây dựng trận địa phòng ngự tổ chức hệ thống phòng ngự khá vững chắc, nếu đánh nhanh giải quyết nhanh thì không mười phần đảm bảo thắng lợi. Do đó chúng ta đã kiên quyết xác định phương châm của chiến dịch là đánh chắc, tiến chắc…
… Chúng ta quan niệm chiến dịch không phải là một trận đánh địch tring công sự vững chắc quy mô rất lớn và tiếp diễn liên tục trong một thời gian ngắn, mà là một chiến dịch tiến công trận địa, quy mô rất lớn nhưng lại cần một loạt nhiều trận đánh địch trong công sự vững chắc, tiếp diễn trong thời gian khá dài, tập trung ưu thế binh lực tiêu diệt từng bộ phận tiến tới tiêu diệt toàn bộ cứ điểm…”
Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của Việt Minh là tập trung ưu thế về binh lực và hỏa lực cần thiết cho một trận tấn công thắng lợi. Do đó, để chắc thắng, ông Giáp đã tập trung các đơn vị quân đội vào một trận đánh. Ông quyết định trước hết đánh vào phân khu phía Đông đầu cuối các đường giao thông của ông, sau đó chuyển phân khu phía Tây, tiếp đó đánh chiếm phân khu trung tâm và cuối cùng là các cứ điểm tiền tiêu thuộc phân khu Nam. Như ông đã giải thích rõ: “chiến thuật này phù hợp với trình độ kỹ thuật của bộ đội, nhưng sẽ nâng dần lên trong một loạt trận đánh khó khăn và phức tạp mà quy mô không lớn lắm, để cuối cùng tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm”.
Ông Giáp rất quan tâm đến sức khỏe của chiến sĩ, chỉ thị cho các sĩ quan chăm sóc từng bữa ăn của bộ đội, phải được ăn sáng, uống nước nóng và có thể ngủ đủ và khô ráo. Vệ sinh phòng bệnh phải chú ý đến công việc dịch vụ y tế phù hợp với phương tiện hiện có. Nhưng mọi người đều biết công tác chính trị có vai trò quan trọng và xác định cho bộ đội quyết tâm chiến đấu và chiến thắng. Rất nhiều khẩu hiệu được đặt ra như “tích cực xây dựng đường sá cho pháo binh và lao động tích cực cho chiến thắng” hoặc “Giữ vững đường sá luôn luôn tốt là lao động tích cực cho chiến thắng” và “Xây dựng trận địa dày thêm 1 cách mạng là tạo điều kiện thuận lợi để đánh bại quân địch”.
Để động viên tinh thần quân đội, trước khi bắt đầu chiến dịch một giải quyết ngắn, Cụ Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư cho bộ đội, thư được phân phát đến tận đại đội và được phổ biến đến từng chiến sĩ.
“Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang.
Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự, và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị cũng đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm trong nhiệm vụ vẻ vang sắp tới.
Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị cá nhân xuất sắc nhất.
Chúc các chú thắng to.
Bác hôn các chú”.
Ông Giáp đã chọn những mục tiêu của đợt đầu của chiến dịch là tổ chức thực hiện một chiến thuật giành thắng lợi mà rút ngắn thời gian bộc lộ lực lượng bộ đội và hạn chế tác dụng sát thương của pháo binh và vũ khí nhỏ khi bộ đội xung phong. Ông chỉ thị đào hào giao thông trong các quả đồi lân cận cách vị trí Pháp vài bước. Mặc dù bom đạn của không quân Pháp, quân Việt Minh đã tổ chức được một mạng lưới giao thông hào dài tất cả khoảng 100 km kể cả những hào nối chúng lại với nhau.
Trong đợt đầu, ông lệnh cho quân đội tiêu diệt ba cứ điểm mạnh của phân khu Bắc:
“… 17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tiến công trung tâm đề kháng Him Lam (Béatrice) nằm nhô ra về phía Đông Bắc, trung tâm đề kháng Him Lam có liên quan mật thiết với trung tâm đề kháng Độc Lập Gabrielle và Bản Kéo (Anne Marie).
Trung tâm đề kháng Him Lam là một trung tâm phòng ngự kiên cố nhất của địch. Him Lam do một tiểu đoàn lê dương tăng cường thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13 mà địch cho là một trong những đơn vị thiện chiến nhất của chúng, chiếm giữ. Địch bố trí thành 3 cứ điểm yểm hộ lẫn nhau có trận địa phòng ngự vững chắc, có nhiều hỏa điểm lợi hại và cả một hệ thống công sự phụ bằng mìn và dây thép gai bố trì thành bãi có nơi rộng đên 100-200 mét. Vị trí đồi Độc Lập do một tiểu đoàn Bắc Phi tăng cường chiếm giữ có nhiệm vụ án ngữ con đường và ngăn chặn các cuộc tiến công của quân ta từ phía Bắc đánh xuống. Còn trung tâm đề kháng Bản Kéo do một tiểu đoàn ngụy người Thái chiếm đóng. Cả ba trung tâm đề kháng nói trên đều được hỏa lực trọng pháo 105 và 155 ở Mường Thanh và Hồng Cúm yểm hộ.
Bộ binh và pháo binh phối hợp khá chặt chẽ. Sau 1 giờ chiến đấu, quân ta tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm đầu tiên; sau 2 giờ tiêu diệt cứ điểm thứ hai. Cuộc chiến đấu ở cứ điểm thứ ba diễn ra gay go. Pháo binh của địch lúc đầu bị tê liệt, dần dần hoạt động trở lại khá mạnh. Đến 22 giờ 30 phút, quân ta tiêu diệt hoàn toàn trung tâm đề kháng Him Lam, tiêu diệt gần 300 địch bắt sống hơn 200 tên…
Lính Pháp bị bao vây trong giao thông hào
… Đêm 14 rạng ngày 15 tháng 3, quân ta mở cuộc tiến công vào trung tâm đề kháng đồi Độc Lập (Gabrielle). 17 giờ trọng pháo của ta bắt đầu bắn vào khu chỉ huy của địch ở Mường Thanh, vào các trận địa pháo binh và sân bay của chúng. Cuộc chiến đấu bằng hỏa lực diễn ra ác liệt. Theo những tài liệu bắt được của địch sau này, để chi viện cho Him Lam và Độc Lập và phá hủy các trận địa pháo binh của ta, chỉ trong 3 ngày, từ 13 đến 15 tháng 3 quân địch đã bắn tất cả trên 3 vạn phát đạn pháo. Trong đêm 14 tháng 3 chúng lại huy động máy bay oanh tạc từ Hà Nội lên ném bom liên tiếp suốt 3 đêm. Đêm đó trời mưa to, các đơn vị sơn pháo chuyển đến chậm, 3 giờ 30 sáng ngày 15 mới bắt đầu. Đến 6 giờ 30 phút thì quân ta tiêu diệt hoàn toàn trung tâm đề kháng đồi Độc Lập… 6 giờ địch cho một đơn vị bộ binh có xe tăng yểm hộ từ Mường Thanh tiến lên phản kích nhưng bị pháo binh ra bắn thương vong một số phải rút lui.
… 15 giờ ngày 17 tháng 3 pháo binh của ta bắn 20 phát vào Bản Kéo. Những binh lính người Thái đã lợi dụng lúc bọn chỉ huy chui xuống hầm ẩn nấp, mang cả vũ khí kéo ra hàng mặc dù bọn chỉ huy Phá ra sức khống chế. Địch cho xe tăng đuổi theo toán quân ngụy, pháo binh của ta bắn chặn để yểm hộ cho số hàng binh nói trên, buộc xe tăng của địch phải lùi lại…”.
Trong quá trình chiến đấu, quân Việt Minh đã mở được một con đường trong quân khu phía Bắc của quân Pháp như vậy cả 3 mặt phân khu trung tâm cùng với sở chỉ huy và sân bay chính đã bày ra trước mũi sóng của đối phương. Sân bay chẳng còn tác dụng mấy, việc tiếp tế trở thành vấn đề nan giải. Chiến dịch càng kéo dài, những tổn thất về người, vũ khí và trang bị càng lớn và càng lớn và càng thấy cần phải được tăng cường. Chuyện ngược đời là càng yêu cầu tăng cường, càng được tăng cường, càng tăng thêm khó khăn thực tế cho De Castries.
Sau đợt tiến công thứ nhất, có một thời gian tạm ngừng. Ông Giáp đã tranh thủ tăng cường lực lượng và củng cố các đơn vị, sau đó quyết định số phận của rất nhiều thương binh địch bị bắt làm tù binh: ông có thể trả lại cho De Castries hoặc cho họ một dịp may về chiến đấu với đội. Ông quyết định trả lại, các đơn vị đã đủ quân số và De Castries có thêm vấn đề phải giải quyết. Vì vậy, trong một trận đánh, một sĩ quan Việt Nam mang cờ trắng đến gần cứ điểm Bản Kéo và chuyển một bức thư cho De Castries. Trong thư nêu rõ sáng ngày 17 tháng 3, 86 thương binh của đồi Độc Lập sẽ đưa đến một địa điểm cách Bắc Bản Kéo 600 mét, có thể đưa băng ca đến đưa họ về. Đề nghị đó cũng như bao nhiều đề nghị tiếp theo tương tự đến đúng lúc trận chiến đang gay go ác liệt làm quên đi tính chất quan trọng của nó. De Castries đang đứng trước trường hợp phải chọn giữa hai con đường khắc nghiệt: nếu ông từ chối những thương binh của ông, hậu quả tinh thần sẽ rất nghiêm trọng; mặt khác các trung tâm cấp cứu đã đầy ắp, quá tải. Cuối cùng, yếu tố tinh thần xem ra quan trọng hơn và số thương binh được nhận về.
Trong bệnh viện đã có gần 500 thương binh nặng, con số đó cứ tăng đều đặn cho đến 1.260 vào ngày 4 tháng 5. Vấn đề càng nghiêm trọng hơn khi khả năng chuyển về bằng máy bay bây giờ hoàn toàn bị cắt đứt (một số người được chuyển đi trong những ngày đầu. Có một lần, máy bay bị đánh ngay khi vừa cất cánh).
Trong bệnh viện của Pháp, điều kiện phục vụ ngày càng tồi tệ. Lúc đầu bệnh viện có 44 giường, rồi ba kíp phẫu thuật nhảy dù xuống, với 2 băng máu và số “giường bệnh” tăng lên (bệnh nhân phải nằm xuống đất chứ không phải giường). Rồi trong một ngày đẹp trời, một chuyến dù của đội phẫu thuật thứ 6 do trung úy bác sĩ Vidal chỉ huy được lệnh của sĩ quan cao cấp quân y bác sĩ Grauwin, thành lập một bệnh viện phụ trợ bên bờ bên kia sông Nâm Rốm để cho thương binh khỏi phải trèo qua cái cầu trống trải bắc qua sông (về sau người ta bước trên xác chết chồng chất trên dòng sông mà không phải qua cầu).
Thương binh rên rỉ trong những phòng tối tăm, ẩm ướt giống như dưới địa ngục Hieronymuss Boch trong những tấm màn khủng khiếp nhất: dưới ánh sáng của các ngọn nến, các bác sĩ và phẫu thuật viên khắc phục mọi mệt nhọc và phương tiện hạn chế cắt thịt, thấm vết thương, cưa tay chân, băng vết thương và cố gắng giảm đau trong một không gian sặc mùi hoại thư và tiếng kêu rên ran của người sắp chết. Các thương binh nằm dài trên băng ca đợi trước phòng mổ, nhưng đến lượt họ thì đã muộn quá: những người chết được mang đến những nhà xác dồn thành đống và cùng chôn vội khi trời sắp tối ở một nơi cách xa bệnh viện.
Trên sườn đồi dốc phía ngoài của các ngọn đồi lần cận, chuyện tương tự được lặp lại trong những lều tre thiếu phương tiện chữa chạy và thuốc men hơn, kể cả khi những người có trách nhiệm nhiệm vụ được cung cấp pênicilin của Trung Quốc viện trợ cho chiến tranh.
Khi những người lính Thái phòng ngự Bản Kéo không thể chống cự nổi bỏ chạy hoặc ra hàng đối phương, người chỉ huy tiểu đoàn dù số 5, người Việt Nam đứng sau họ ra lệnh bắn vào những người lính bỏ chạy, bao nhiêu phát đạn, bấy nhiêu người chết, không thể nói hết được. Một bộ phận của tiểu đoàn Thứ thứ 3 đào ngũ nhanh chóng, gây tiếp việc rã ngũ hoàn toàn của tiểu đoàn 2 Thái và việc bỏ ngũ của nhiều người lính trong tiểu đoàn độc lập nhẹ Thái, nhưng chẳng có gì đáng ngạc nhiên: một số lính là người địa phương, vợ con họ ở dưới quyền kiểm soát của cộng sản. Tất cả được tuyên truyền giác ngộ nhiều hơn là bom đạn và không hiểu sự thật là nên theo phía nào.
Quân Việt Minh cũng chú ý lung lạc tinh thần của lính Bắc Phi và đức của đội quân lê dương ngoại quốc bằng cách phát thanh bằng tiếng của họ hoặc thả truyền đơn ban đêm ở cuối các giao thông hào. Đến sáng, lính lê dương Đức thỉnh thoảng nhặt được các tờ truyền đơn hỏi họ tại sao lại chiến đấu cho kẻ thù của họ. Quân Pháp cũng được thực hiện chiến tranh tâm lý: khi đường giao thông hào chỉ còn cách địch vài mét, quân ông Giáp dùng loa hát điệp khúc bài hát địch vận: “Hỡi người anh em, trong đêm tối hãy vì tự do lắng nghe chúng tôi”. Đáp lại, lính Pháp đồng ca bài La Marseillaise.
Sau vài tuần lễ, nhiều lính Việt Nam gốc Thái đến thay thế cho bọn lính Thái đào ngũ, số lượng bao giờ cũng đông hơn, hoặc lính Bắc Phi loại lính chuyên nghiệp cũng coi như lính lê dương không cần biết chiến đấu cho ai, hoặc phải chiến đấu cho phía thua (trong trận đánh có lúc những tay súng Algérie khi nhận thấy cả biển người Việt Minh tiến lên, hoảng sợ bỏ chạy. Tất cả đều bị quân xung phong của sư đoàn 312 tiêu diệt trừ một con người cứ đứng đó cho đến lúc quân của sư đoàn gạt đi. Cả sư đoàn tiến theo tốc độ chuyển làn của pháo binh sư đoàn, không gì cản trở được bộ binh Việt Nam xung phong. Trong khi bọn lính Algérie rút chạy, quân Việt Nam tiến vào một bãi mìn và hàng trăm người bị chết).
Vì chuyện lộn xộn tăng lên trên chiến trường, không có nhân viên cơ quan tham mưu nào của De Castries tính đến “những quân lính bỏ ngũ trong nội bộ”, thật ra phải khoảng 3.000: đội quân đồn trú không phải chỉ có bị tiêu hao vì pháo đạn của quân ông Giáp, mà còn vì chuyện đào ngũ liên tiếp xảy ra. Các binh lính vơi dần vào trong hàm hố khuất nẻo hoặc những hố bên bờ sông Nậm Rốm, đột nhập ban đêm vào chỗ không người lấy trộm những thực phẩm thả dù xuống không đúng địa chỉ để sống sót. Một cái chợ đen được thành lập ban ngày để cho những người lính đang chiến đấu cần đến những dịch vụ cung cấp cần thiết nhất như đôi phi cho điện đài.
Đường băng nhỏ xíu ở Hồng Cúm bị hỏa lực đối phương trực tiếp kiềm chế ngay từ đầu, khi quân Việt Minh đến gần cứ điểm chính, đường băng trở thành một cái bẫy chết người-những người lái máy bay dũng cảm là dân thường Mỹ đến từ Hà Nội hoặc Hải Phòng không còn muốn hạ cánh ban ngày sau khi cao xạ Việt Minh trải qua một thời kỳ huấn luyện đã tỏ rõ sức chiến đấu ban ngày của chiến sĩ. Sau đó họ phải thực hiện những chuyến bay đêm, tuy vậy cũng phải hủy bỏ việc cất cánh hoặc hạ cánh vì đạn pháo đối phương quá gần-Chỉ còn tiếp tế cho quân lính đồn trú bằng những chuyến thả dù không dễ dàng gì đối với các đội bay cũng như quân lính khi đi nhặt và phân phối hàng trăm tấn hàng trước khi trời sáng. Thỉnh thoảng có những kiện hàng rơi xuống bãi mìn và nổ tung; những kiện hàng khác rơi về phía quân Việt Minh tặng họ những thứ xa xỉ phẩm chưa hề được dùng: mùi nước hoa Gaulois lan tỏa trên những mảnh đất bị cày xới làm nức mũi lính Pháp kiệt sức hoặc bị thương. Một lần, hỏa lực của ông Giáp đánh đúng ngay vào một kho quân dụng và đốt cháy cả những dự trữ thuốc lá và thuốc lào: khói xanh bốc cao trên các ngọn đồi. Thật lãng phí!
Việc đào hệ thống trận địa tiến công và bao vây theo lệnh ông Giáp được tiến hành cực kỳ dũng cảm, nỗ lực và hiệu quả kỳ lạ. Quân đội và nhân dân địa phương thực hiện. Một chiến sĩ bắt đầu đào dần, đưa đất về phía sau, kết thúc công việc. Những người khác thay thế tiếp tục như một cỗ máy. Họ mang theo lựu đạn và tiểu liên. Ví dụ việc đánh chiếm cứ điểm đông sân bay, họ không đào hào trên đỉnh đồi mà đào xuyên qua đồi và đánh từ phía sau. Mặt đất của cả một vùng bị cày xới và nham nhở, bên trong là những hố bắn lỗ chỗ như một tổ kiến.
Việt Minh chiếm ưu thế về địa hình so với quân Pháp. Ở trên cao nên họ không bị quan sát, phần lớn lính ở tuyến đầu thức dậy lúc 11 giờ, sau đó được ăn bữa cơm nóng, trong khi lính Pháp chỉ thỉnh thoảng hoặc có khi chẳng bao giờ được ăn sáng. Hơn nữa vì ở dưới thấp nên lính Pháp khốn khổ vì nước nhiều từ trên các sườn đồi chảy xuống bị ngập nhiều ngày. Mọi người không chịu nổi cảnh này. Trong khi De Castries suốt ngày bên máy vô tuyến tranh luận hàng giờ liền với Cogny-để báo cáo, yêu cầu dù tiếp tế nhiều hơn, báo cho ông ta xấu nhiều hơn tốt, Langlais và Bigeard tổ chức chỉ huy các trận phản kích: quân của họ phải thoát ra khỏi hầm trú ẩn để làm cho đối phương phải khiếp sợ và chứng tỏ họ vẫn còn chưa hết. Nhưng quân Việt Minh đẩy lùi họ, quân Pháp lại bị thương vong nhiều. Rất nhiều người trong bọn họ hy vọng người Hoa Kỳ sẽ can thiệp để giải phóng cho tập đoàn cứ điểm hoặc bằng cách gửi quân đến, hoặc ném bom quân Việt Minh. Muốn tăng thêm hy vọng cho quân linh, Bigeard không ngừng tuyên bố với họ: “phải giữ vững thêm một ngày, người Mỹ sẽ đến với chúng ta”.
Để bù vào những hao hụt quân số chiến đấu, De Castries luôn yêu cầu tăng cường lực lượng. Do đó, 4.227 người nảy dù, 3.596 có dù, số còn lại không bao giờ nhảy từ máy bay đang bay (thêm 2.500 lính của đạo quân viễn chinh Pháp tự nguyện ứng cứu Điện Biên Phủ, 28.048 người châu Âu, 451 Bắc Phi và 95 ngụy Việt Nam. Kể cả khi lún sâu vào cuộc chiến, nhiều người Việt Nam vẫn trung thành với người Pháp: qua nhiều năm bọn thực dân đã làm cho nhiều người Việt Nam, tất nhiên họ cũng hưởng một phần lợi tức nhưng tinh thần, lòng tự hào và sợ mất mặt cũng là một phần quan trọng trong người Việt Nam.
Ông Giáp cũng tăng cường lực lượng dự bị lên 25.000 người. Nhận thấy quân đội phòng không giành nhiều thắng lợi và biết rằng tập đoàn cứ điểm không thể giữ được nếu không có cầu hàng không, ông tung thêm một trung đoàn pháo cao xạ 37 mm và 720 tấn đạn dược. Quân tăng cường được lệnh từ tháng 3 từng đội 100 người vào vị trí chiếm lĩnh tháng 4. Mỗi tân binh được hai cựu binh có kinh nghiệm kèm kặp hướng dẫn chiến đấu. Trong 55 ngày chiến đấu, lực lượng của ông Giáp chỉ thiếu hụt tạm thời.
Ngày 23 tháng 3, Navarre lần đầu tiên gọi ông Giáp là “Đại tướng” trong một cuộc nói chuyện trên máy vô tuyến. Đây là một sự đổi hướng vì cho đến lúc đó, ông Giáp chỉ là một vị chỉ huy du kích. Rõ ràng người ta đã chấp nhận cương vị Tổng tư lệnh quân đội của chiến dịch, điều mà không ai còn tranh cãi.
Việc đánh chiếm Độc Lập không dễ dàng. Căn cứ vào ảnh máy bay của quân Pháp, Việt Minh đã hy sinh hơn một nghìn người và 2-3 nghìn bị thương: việc ngăn chặn những thông tin địch chứng tỏ sau khi đưa quân vào chiến đấu, ông Giáp rất cần bổ sung lực lượng bộ binh và đạn dược lấy từ kho Tuần Giáo ở phía sau. Tuy nhiên, bộ đội các trung đoàn 88 và 102 của sư đoàn 308 rất phấn khởi: họ đã thực hiện đầy đủ lời thề khi sư đoàn trưởng giao cho họ lá quân kỳ mới thêu dòng chữ “Quyết chiến quyết thắng”. Họ đã thề sẽ quyết thắng quân địch ở Điện Biên Phủ và họ đã giứ đúng lời hứa. 7 giờ sáng ngày 15 tháng 3, một trung đội trưởng 29 tuổi tên là Trần Ngọc Doãn đã cắm cờ trên sở chỉ huy đồi Độc Lập. Pháo thủ Phạm Văn Tuy kéo khẩu bazôka 75mm của công binh xưởng đến cách lô cốt boong ke 150m bắn ba phát đều trúng mục tiêu. Hành động dũng cảm của anh ta đã được tặng thưởng huân chương chiến công hạng nhất.
Đại tá Phạm Đức Đại viện trưởng viện bảo tàng quân đội năm 1991 kể lại:
“Tôi sinh ở Hà Nội năm 1929 và lớn lên ở đó. Năm 1942, 13 tuổi vào học một trường Pháp gần Hồ Tây. Đến năm 1946, 17 tuổi, tôi vào du kích. Người ta đã phát cho tôi một khẩu súng còn già hơn tuổi tôi. Năm 1949 tôi đã theo một lớp đào tạo để trở thành sĩ quan. Sau 2 năm tôi tốt nghiệp sĩ quan. Lúc bấy giờ chưa có chế độ quân hàm; đến năm 1958 mới có chế độ ấy. Mọi người đều gọi nhau bằng đồng chí. Người ta biết được anh ấy là sĩ quan vì ít được tiếp xúc với họ hoặc người khác nói cho biết. Năm 1953 tôi được qua một lớp huấn luyện để trở thành cán bộ tiểu đoàn.
… Trong chiến tranh, tôi đã nhiều lần trông thấy tướng Giáp, đặc biệt năm 1954 trước khi vào chiến dịch lớn. Ông đến động viên khắp các đơn vị từ trung tiểu đội đến sư đoàn. Từ 1950 đến 1954, mỗi đơn vị quân đội đều gặp tướng Giáp. Việc gặp bộ đội là rất quan trọng đối với ông, cũng như được gặp ông là rất quan trọng đối với đơn vị.
Năm 1954, nhiều sư đoàn được thành lập. Số hiệu các sư đoàn không có ý nghĩa quyết định, những chữ số bất kỳ để đánh lạc hướng địch.
Năm 1954, tôi được điều động về công tác ở cơ quan tham mưu của bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Tôi vốn là giáo viên quân sự chính trị-ở thời kỳ đó, các đơn vị quân đội đều có chính trị viên cho đến cấp trung đội. Đến năm 1958 thì không còn chế độ này. Nhiệm vụ của tôi ở Bộ chỉ huy chiến dịch là thu nhận tin tức của các cứ điểm địch và vẽ lên bản đồ, để cho tướng Giáp có thể quyết định việc tổ chức chỉ huy các trận đánh.
Lúc ban đầu, Đại tướng định đánh nhanh giải quyết nhanh. Chúng tôi rất gần nhau. Chúng tôi được lệnh rút bộ binh và pháo binh ra khỏi vị trí chiếm lĩnh đầu tiên. Đại tướng đã thay đổi chiến thuật: chúng tôi phải đánh dần dần hết đợt này đến đợt khác không phải xung phong bằng biển người như Hồng quân Trung Quốc. Tướng Giáp nói rằng phải sử dụng bộ óc của chiến sĩ chứ không phải thân thể của họ.
Khi chúng tôi bao vây quân Pháp, chúng tôi sống trong rừng. Chúng tôi ngủ dưới đất, giường nằm là một tàu lá chuối đặt trên một tấm vải nhựa hoặc một chiếc chiếu bằng tre. Có rất ít quinine: một viên thuốc hòa vào một cốc nước để mọi người lần lượt uống chung.
Trong chiến tranh chống Pháp, tôi bị sốt rét 3 năm, thỉnh thoảng mỗi tháng 2 lần lên cơn sốt rồi tạm ngừng một thời gian dài. Cơn sốt kéo dài ít nhất một tuần lễ-dài nhất là một tháng-nhưng khi đã qua được ba bốn ngày, tôi lại làm việc bình thường. Phần lớn thời gian chúng tôi không thấy được bản thân mình. Khi bị sốt rét,tôi không muốn ăn gì hết, nhưng khi cơn sốt qua đi, tôi ăn được mọi thứ: cơm, thỉnh thoảng có muối, có thịt-bò hoặc khỉ-cuối cùng được trở về Hà Nội, bệnh sốt ré biến mất và tôi thực sự mừng rỡ.
Có cả voi và hổ trong vùng Điện Biên Phủ, chúng tôi thường ăn thịt lợn rừng. Nhân dân địa phương cung cấp cho chúng tôi những thứ cần thiết. Thường thường chúng tôi ngủ ban ngày và làm việc ban đêm.
Sĩ quan trung đoàn có đèn pin, nhưng đại đội và tiểu đoàn chỉ có đèn dầu hoặc nến. Thời kỳ đánh Điện Biên Phủ, chúng tôi không có bản đồ khu vực này, sau đó bắt được một lính Pháp có bản đồ vùng này. Chúng tôi đem in thành nhiều bản và phân phát cho các đơn vị để chuẩn bị chiến đấu.
Chúng tôi sử dụng các hình thức cổ điển trong huấn luyện bằng nhiều nguồn kỹ thuật: lấy tin tức của những người bình thường, cho bộ đội vào vùng địch, nghe tin tức của địch và trực tiếp quan sát chính xác (cả hai phía đều dùng máy vô tuyến của Mỹ khi nghe tin tức của nhau, vì thiếu phương tiện máy móc, các đơn vị Việt Minh thường sử dụng cáp điện thoại nối liền các sở chỉ huy).
Tôi làm việc ở phía trước sở chỉ huy trung tâm của Tổng tư lệnh, còn tướng Giáp thỉnh thoảng ở phía sau. Trong cuộc chiến, Đại tướng có ba sở chỉ huy khác nhau”.
Ông Giáp đánh giá toàn cục về tình hình trên chiến trường… “Tất cả lực lượng của chúng ta hơn hẳn lực lượng địch. Pháo binh của chúng ta gấp 3 hoặc hơn 3 lần mạnh hơn pháo binh địch. Cối và khinh pháo được bố trí mạnh hơn địch. Lực lượng cao xạ tổ chức phòng phảo phản kích làm hạn chế tác dụng của không quân và pháo binh địch. Hơn pháo binh của chúng ta bắn rất chính xác, hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh, pháo binh đã gây tổn thất nặng nề cho quân địch, tiêu diệt nhiều căn cứ pháo binh, kiểm soát sân bay, bắn trúng nhiều máy bay địch trên mặt đất, pháo cao xạ của chúng ta đã bắn rơi nhiều máy bay trên bầu trời Điện Biên Phủ.
Sau những trận đánh đầu tiên, quân địch đã khiếp sợ sức mạnh hỏa lực của pháo binh chúng ta. Vài ngày sau sĩ quan chỉ huy pháo binh đã phát sát.
(Đại tá kỳ cựu và cụt tay Charles Piroth đã khẳng định nếu pháo binh của ông Giáp ở phía sườn núi khống chế lòng chảo, sẽ lập tức bị phản pháo và im tiếng sau vài giờ. Cảm thấy nhục nhã, ông đã dùng răn cắn chốt lựu đạn và ôm vào ngực).
Ngày 14 và 16 tháng 3, tướng Navarre dùng 2 tiểu đoàn dù từ Hà Nội để tăng cường cho tập đoàn cứ điểm để De Castries củng cố phòng ngự sân bay chính và thay thế quân ngụy bằng quân châu Âu và Pháp.
Cuộc chiến Điện Phủ
Vào lúc này, ông Giáp chuẩn bị cho đợt hai của chiến dịch khó khăn hơn. Ông đã phát hiện được những vấn đề về tư tưởng trong cán bộ chiến sĩ: hiện nay bộ đội đang phải chiến đấu sinh hoạt ở trong hào giao thông và hầm trận địa trong một thời gian dài: “Trong cán bộ và chiến sĩ ta xuất hiện tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, biểu lộ dưới hai hình thức: một là ngại thương vong, ngại tiêu hao, mệt mỏi, ngại khó ngại khổ; hai là chủ quan khinh địch, chủ quan tự mãn…” (đì đó nói lên bộ đội rất tự tin). “Ở tất cả các cấp, Đảng phải hoạt động khắc phục tư tưởng hữu khuynh, củng cố và đề cập trách nhiệm trước nhân dân, quân đội và Đảng, hoàn thành nhiệm vụ giành toàn thắng cho chiến dịch”.
Trong đợt tiến công thứ hai, đợt quyết định của chiến dịch, ông Giáp tìm cách đánh chiếm các điểm cao của các cứ điểm phòng ngự xung quanh phân khu trung tâm. Sau đó vô hiệu hóa sân bay rồi đánh chiếm sân bay. Tiếp theo các trận đánh bao vây thắt chặt thêm, vùng trời cũng bị thu hẹp tiếp tế và tiếp viện của địch bị hạn chế.
Ngày 30 tháng 3 lúc 5 giờ sáng, đợt hại bắt đầu. Sau một giờ ba mươi phút, quân Việt Minh đã tiêu diệt một tiểu đoàn dù và đánh chiếm một điểm cao mạnh ở phía Bắc (đồi C1) sau hai giờ họ tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn phòng ngự một điểm cao khác (đồi D). “Trận chiến đấu trong đêm 30 tháng 3 là khó khăn nhất. Chúng ta đánh chiếm hai phần ba vị trí. Đến tảng sáng và suốt ngày hôm sau, địch tăng cường lực lượng có pháo binh và xe tăng yểm hộ đánh chiếm lại hai phần ba vị trí.
(Bigeard tổ chức phản kích thắng lợi trên đồi A1 với 80 quân dù, một nửa bị chết. Sau này khi làm tù binh một thời gian, ông đã tạ ơn ông Giáp một cốc cà phê thứ thiệt và ông Giáp đã tỏ ý ngạc nhiên trước sức tấn công mãnh liệt và dũng cảm của bộ đội).
… “Đêm 31 tháng 3, quân ta tiến công lần thứ hai, cuộc chiến đấu kéo dài đến sáng ngày mồng một tháng 4. Kết quả, ta chiếm lại hai phần ba vị trí; nhưng tiếp đó địch lại phản kích nhiều lần chiếm lại một phần ba trận địa đã mất. Sang đêm 1 tháng 4 ta tổ chức cuộc tiến công lần thứ 3; cuộc chiến đấu giằng co quyết liệt; cho đến ngày 4 tháng 4, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất một; địch đã lợi dụng những hầm ngầm và trận địa kiên cố để chống lại quân ta, cuối cùng mỗi bên giữ một nửa điểm cao. Trong khi quân ta chưa giải quyết được điểm cao cuối cùng, thì quân địch được tăng viện bằng một lực lượng nhảy dù. Sáng ngày 9 tháng 4, chúng tổ chức cuộc phản kích đánh chiếm lại đồi C1; cuộc chiến đấu ở đây lại tiếp diễn trong 4 ngày đêm, kết quả đồi C1 cũng chia đôi, ta chiếm một nửa, địch chiếm một nửa (các sư đoàn 312 và 316 cùng hai trung đoàn của sư đoàn 308 tấn công về phía Đông của phân khu trung tâm. Để chỉ huy trận tấn công này ông Giáp chọn trung đoàn 102, trung đoàn Thủ đô-tên gọi trong thời gian phòng ngự Hà Nội năm 1946-của sư đoàn 308 do Đại tá Vũ Yên chỉ huy làm chủ công. Sau khi tiêu diệt hết hỏa lực của lực lượng phản kích gần đồi A1, hai tiểu đoàn chỉ còn lại 9 người sống sót, trong khi quân Pháp chết 151 tên).
Càng ngày ông Giáp càng tăng thêm áp lực:
… ”Quân ta đã xây dựng trận địa ngày càng tiến sát gần địch, có nơi chỉ cách địch 10-15 m. Các ngọn đồi đã chiếm được ở phía Đông nhất là đồi D1 đã được biến thành cứ điểm phòng ngự mạnh của ta. Hỏa lực các cỡ của ta luôn luôn uy hiếp quân địch. Cuộc chiến đấu diễn ra liên tiếp không kể ngày đêm.
Quân ta phát triển mạnh chiến thuật đánh lấn. Trận địa của ta từ phía Tây, phía Đông và phía Bắc tiến vào sân bay, liên lạc với nhau, cắt ngang sân bay. Sân bay trung tâm của địch đã bị quân ta đánh chiếm.
Vòng vây của quân ta càng thắt chặt hơn nữa, cuộc chiến đấu càng trở nên gay go. Quân địch liên tiếp tổ chức nhiều cuộc phản kích dữ dội, có cơ giới và không quân yểm hộ nhằm đánh lùi trận địa của ta. Cuộc phản kích quyết định nhất đã xảy ra trong ngày 24 tháng 4 với mục đích đánh lùi quân ta ra khỏi sân bay. Kết quả là địch đã bị tiêu diệt một bộ phận, trận địa ta vẫn được giữ vững, sân bay vẫn bị quân ta kiểm soát.
Phạm vi đóng quân của địch càng bị thu hẹp, dần dần mỗi chiều chỉ còn có 2 km. Khu trung tâm của địch đã nằm vào trong tầm bắn của tất cả các cỡ súng của ta. Các trận địa pháo cao xạ của ta được chuyển vào cánh đồng. Vùng trời bị thu nhỏ của chúng không còn an toàn nữa. Lúc này tiêu diệt được thêm một hai tên địch, giành thêm một hai tấc đất cũng có ý nghĩa quan trọng.
Quân ta đẩy mạnh cuộc thi đua bắn trả quân địch: các chiến sĩ thiện xạ bắn súng trường, bắn súng máy, bắn súng cối, các chiến sĩ pháo binh ra sức bắn tỉa quân địch, làm cho địch ngày càng bị tiêu hao, thương vong chồng chất, tinh thần sút kém, luôn luôn lo sợ và căng thẳng không dám đi lại, hễ lộ ra khỏi trận địa nào là bị quân ta bắn chết. Các đội dũng sĩ của ta đột nhập sâu vào trong lòng địch, đánh phá kho tàng, tiêu hao sinh lực của chúng…”.
Bầu trời bị thu hẹp bấy giờ đặt ra vấn đề nan giải cho người lái máy bay. Việc tiếp tế thường rơi xuống đất đối phương. Quân Việt Minh không chỉ nhận được các thứ thực phẩm, quần áo và thuốc men cả đạn dược mà một số đạn dược sử dụng ngay để bắn quân Pháp. Tuy vậy, không phải chỉ có quân Pháp mới phải chịu khó khăn gian khổ.
… “Chiến dịch kéo dài, việc cung cấp tiếp tế trở thành vấn đề quan trọng cũng như các chiến dịch trước đây, quân ta chỉ cần cơm chín và có khi bỏ lỡ kế hoạch. Ở Điện Biên Phủ kho tàng cách xa hàng trăm kilômét, các con đường tiếp tế thường rất nguy hiểm vì bom đạn địch và thời tiết không thuận lợi gây nên. Lại gần đến mùa mưa. Hậu quả sẽ rất nghiêm trọng, đường sá bị phá hoại, trận địa bị ngập lụt, sức khỏe bộ đội và dân công sẽ giảm sút…”.
Cho đến ngày 5 tháng 4, tổn thất của quân Việt Minh đã đến khoảng 10 nghìn người.
Trung tá Bach Dan Hoi một sĩ quan bộ binh quê ở vùng Tây Bắc Hà Nội rời quê hương vào du kích ở Việt Bắc lúc mới 20 tuổi kể về sự nghiệp của mình:
“Tôi sinh tháng 11 năm 1924, đến Điện Biên Phủ đã tôi đã gần 30 tuổi chỉ huy trưởng một tiểu đoàn.
Lúc đầu chúng tôi được lệnh đánh nhanh giải quyết nhanh. Chúng tôi phải tiêu diệt quân địch trên đồi A1 nhưng khi đã chiếm lĩnh trận địa, mệnh lệnh hoàn toàn thay đổi. Song chúng tôi vẫn phải chiến đấu hết sức mình để giành thắng lợi. Đó là vào dịp Tết. nhân dân địa phương tặng quân đội bánh chưng, rượu vang, thịt đông và rau nhưng không phải tết. Không phải lúc.
Một hôm tôi được cử đến người chỉ huy đại đội pháo của chúng tôi để hiệp đồng chiến đấu. Đó là một người Đức họ Hồ, họ với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông vốn là quân lê dương, đào ngũ rồi đến cùng chiến đấu với chúng tôi. Ông đang chỉ huy một đại đội. Sau chiến tranh, ông sẽ trở về Đức, nhưng ông đã hy sinh ngày hôm sau.
Trận địa chiến đấu của chúng tôi cách hàng rào dây thép gai địch không xa lắm, chỉ độ 4-5 mét. Pháo binh hạng nặng bắt đầu hỏa lực chuẩn bị cho trận tấn công. Đồng thời tôi tổ chức cho chiến sĩ mang bộc phá chuẩn bị diệt địch. Khi quân địch đã bị pháo binh đánh cho tê liệt, chúng tôi rời khỏi trận địa và xung phong. Từ khi bắt đầu xung phong đến khi kết thúc trận đánh vào khoảng 1 giờ. Chúng tôi đã chiếm được vị trí và bắt được nhiều tù binh. Tù binh phần lớn là lính dù Pháp.
Sau đó, tôi được điều động đến một trận tiến công khác, để tiêu diệt sân bay chính của địch. Phải nhiều trận tấn công trong nhiều ngày và tuần lễ. Chúng tôi đánh giáp lá cà với quân địch cho đến hầm De Castries. Quân Pháp tổn thất lớn nhưng chúng tôi cũng hy sinh nhiều người…”.
Tình thế chứng tỏ không có tín hiệu tiến triển và chỉ rõ phải đợi đến một thất bại không cứu chữa được. Ở Paris chính phủ bắt đầu lo sợ nghiêm trọng. Hội nghị Genève sắp bắt đầu. Phải trả lời một câu hỏi khắc nghiệt của dư luận báo chí thế giới: Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải chăng bị hoàn toàn tiêu diệt, hoặc một điều kỳ diệu vào phút chót thoát khỏi quân đối phương?
Tất nhiên, đã từ lâu một mình người Pháp không có đủ phương tiện để tiếp tục. Họ không có tiền, không có vũ khí thiết bị và không đủ người-tệ hại hơn là nước Pháp không muốn chiến tranh. Người Mỹ ngày càng trở nên nhạy cảm: họ muốn chặn ông Giáp lại bằng mọi giá, nếu không chủ nghĩa cộng sản sẽ tràn khắp châu Á nhanh như một bệnh dịch.
Người ta soạn thảo những kế hoạch và đặt cho nó những tên theo truyền thống “Democlès” là một kế hoạch rút quân đội Pháp đến đầu cầu ở giữa đồng bằng sông Hồng đợi quân Mỹ đến để giải tỏa cho họ khỏi bị đối phương tiêu diệt. Trên biển Đông kỵ binh đã chuẩn bị gươm giáo. “Vantour” (Diều hâu) là kế hoạch đánh bom quân đội của ông Giáp ở Điện Biên Phủ bằng sử dụng hai máy bay vận tải Mỹ được tăng cường máy móc thiết bị quân lực Hoa Kỳ ở căn cứ Clark của Philippine trong biển Đông: 60B29, máy bay ném bom hạng nặng chở 9 tấn bom mỗi chiếc, hoặc 98 pháo đài bay chở 14 tấn bom mỗi chiếc nghiền nát các căn cứ của Việt Minh do một lực lượng 450 chiến sĩ chiếm giữ. Đó là cái nhìn chói sáng, một tín hiệu báo trước những gì sẽ xảy ra mười năm sau. Cũng có phương án ném 2 hoặc 3 quả bom nguyên tử xung quanh thung lũng hòng quét sạch quân ông Giáp và đe dọa ông. Đó là một phương án được tranh luận nhiều những năm sáu mươi và bị loại trừ vì sợ dư luận thế giới nghiêm khắc lên án Hoa Kỳ tái sử dụng vũ khí nguyên tử.
Buổi sáng ngày 1 tháng 5, quân Việt Minh cắm cờ đỏ trên trận địa và ca những bầc quân đội trên các loa phóng thanh để kỷ niệm ngày lễ mồng một tháng 5, ngày quốc tế lao động.
Trong toàn bộ tập đoàn cứ điểm, binh lính đồn trú mất hết hy vọng gượng dậy được nữa. Phần lớn chiến đấu rất dũng cảm nhưng bên cạnh bờ sông và trên những ngọn đồi còn cây cối không bị càn quét hết để khỏi lộ mà không hiểu điều gì đang đợi họ, tin tưởng vào một dịp may nào đó thoát khỏi nên ở lại để gặp lại bạn bè trong các hầm ngầm. Họ đã nhầm.
Đợt tiến công thứ ba và là đợt cuối cùng bắt đầu ngày 1 tháng 5. Quân Việt Minh tấn công khu trung tâm và đánh chiếm các cứ điểm dưới chân các đồi phía Tây và phía Đông. Đồng thời cũng tiến công vào các cứ điểm ở Hồng Cúm (Isabelle).
Trong đêm ngày 3, họ tấn công Huguette (cụm cứ điểm tây sân bay Mường Thanh, hữu ngạn sông Nậm Rốm). Như vậy họ chỉ còn cách khu trung tâm chỉ huy sở 300 mét. Ngày 6, họ lại tấn công một lần nữa khu vực sở chỉ huy. Các chiến sĩ công binh đã đào một cái hầm xuyên núi đến giữa đồi mang theo vào một tấn bộc phá. Họ cho nổ bộc phá. Quân Việt Minh đã chiến đấu ác liệt với quân dù và quân lê dương phòng ngự cứ điểm tiêu diệt nhiều quân địch. Cũng trong đêm đó, họ đánh chiếm một vị trí thứ hai cạnh bờ sông. De Castries và quân của ông ta đã lùi sâu vào một hẻm núi chỉ còn cách 700-1000 mét. Họ đang lâm vào một tình thế thật sự tuyệt vọng.
Lá cờ chiến thắng
Ông Giáp viết tiếp:
… ”Ngày 7 tháng 5, có những dấu hiệu đáng chú ý về tình hình địch. Những máy bay tiếp tế vũ khí đạn dược đều quay về Hà Nội không thả dù nữa. Chỉ có một số máy bay tiếp tế còn thả ít nhiều dù lương thực. Trong lúc đó, lác đác ở một số nơi trong khu địch đóng quân, ta phát hiện có nhiều tiếng nổ: quân địch đang phá hủy một số vũ khí. Một số binh lính của địch vứt súng đạn xuống sông Nậm Rốm. Chúng ta nhận định trong hàng ngũ địch đang xảy ra tình trạng hỗn loạn.
… 14 giờ ngày 7 tháng 5 một đơn vị của ta mở cuộc tiến công vào vị trí ở gần Mường Thanh. Địch đối phó yếu ớt, toàn bộ binh lính địch kéo cờ trắng ra hàng. Tiếp đó quân ta phát triển thắng lơi tiến công tiêu diệt luôn hai vị trí nằm trên tả ngạn sông. Đã có những cờ trắng xuất hiện một số nơi.
Đến 15 giờ quân ta được lệnh không chờ đến tối, nắm ngay cơ hội thuận lợi, lập tức mở cuộc tổng công kích vào tập đoàn cứ điểm. Mặc dầu quân địch còn khoảng một vạn tên, tinh thần của chúng đã hoàn toàn tan rã.
17 giờ 30 quân ta đánh chiếm sở chỉ huy của địch. Toàn bộ ban tham mưu của tập đoàn cứ điểm bị quân ta bắt sống. Toàn bộ địch còn lại lũ lượt kéo ra hàng. Chúng đều bị bắt làm tù binh và được ta đối đãi tử tế. Lá cờ quyết chiến quyết thắng của quân ta đã phất cao trên cánh đồng Điện Biên Phủ.
Ngay đêm hôm đó, quân ta tiến công quân địch ở phân khu nam. Quân địch ở đây có trên 200 tên địch tìm đường rút chạy về thượng lào. Quân ta lập tức được lệnh chặn bắt, toàn bộ quân địch bị bắt làm tù binh.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, chúng ta đã toàn thắng…”.
Một tiểu đội 5 người do Đại úy Tạ Quốc Luật chỉ huy đánh chiếm hầm chỉ huy. Thiếu úy Chu Bá Thệ trung đội trưởng cắm cờ đỏ. Tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy sư đoàn 308 đánh chiếm cụm cứ điểm tây sân bay Mường Thanh (Hugutte) ngay ngày hôm đó hoặc hôm sau tổ chức PC của mình (?).
Bộ đội của ông Giáp đã bắt sống một thiếu tướng (De Castries được phong tướng ngay trong quá trình chiến dịch), 16 đại tá và trung tá, 1.749 sĩ quan và hạ sĩ quan và rất nhiều binh lính, tổng cộng khoảng 10 nghìn người. Quân Việt Minh đã bắn 100.000 đạn pháo cỡ 75 mm trở lên, quân Pháp 93.000. Trong khoảng thời gian 6 tháng, không có một lúc yên lặng trong thung lũng. Và thời gian còn lại, thung lũng phải chịu đựng một gánh nặng sắt thép, một mùi thuốc súng nồng nặc từ các nguồn cung cấp Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ và châu Âu.
Đại tá De Castries được phong tướng trong quá trình chiến dịch và quân lính bị bắt sống
Tổng cộng có 82.926 chuyến dù được thả xuống thung lũng; khi pháo binh ngừng bắn, những chiếc dù bao bọc trắng một vùng rộng lớn.
Ở nước Pháp, khi tin thất thủ Điện Biên Phủ về đến Paris, cả nước như một ngày tang. Các rạp hát và rạp chiếu bóng đều đóng cửa. Đài phát thanh truyền đi Khúc tưởng niệm của Berlioz và những bài hát long trọng khác suốt ngày đêm.
Cùng ngày ấy ở Genève, người ta bắt đầu đấu tranh cho tương lai của Đông Dương. Thắng lợi của ông Giáp cho dù có được chương trình hóa cũng không thể rơi vào khoảnh khắc tốt nhất.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 2:27 pm
Chương 12: Phát súng kết liễu
Nava không thể nào hình dung được những nguồn lực vô tận của quân đội nhân dân, những tiến bộ lớn lao đã đạt được của nhân dân và quân đội chúng tôi. Ông ta chỉ nhìn thấy những điểm mạnh của Điện Biên Phủ mà không nhìn thấy những điểm yếu. Vả lại ông ta cũng đã phạm một sai lầm rất nghiêm trọng: ông ta tưởng rằng chúng tôi không dám đánh nên cho đến ngày 12 tháng 3 vẫn giữ nguyên cuộc tiến công chiến lược vào chiến trường miền Nam, một cuộc hành quân sai chương trình làm ông ta thêm tốn sức. Nhưng sai lầm lớn nhất của ông ta là không nắm vững tình thế.
Võ Nguyên Giáp
Vào lúc này hoặc lúc khác, có tất cả 16.544 binh sĩ chiến đấu cho người Pháp bị giữ lại ở trung tâm (con số này bao gồm 165 người của tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 mới nhảy dù ngày 5 và 6 tháng 5 đúng vào lúc tất cả đều bị bắt, một số hạ cánh trực tiếp xuống vị trí của Việt Minh). Ngày 4 tháng 5, có 1.260 người ở bệnh viện. Sáng ngày 5 tháng 5, 8.158 người khỏe mạnh ra hàng. Sáng ngày 7 tháng 5, có 1.293 người chết. Khoảng 3.000 lính đào ngũ ẩn giấu ở gần bờ sông hoặc trên các sườn đồi. Như vậy, gần 3.000 người không được tính đến. Họ chết, bị thương hoặc mất tích, người ta nghĩ rằng họ chẳng khác gì những con chuột nước.
Các chiến sĩ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ vui mừng công kênh Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp tại lễ mừng công (ngày 13.5.1954)
Trong những ngày cuối cùng, tình thế trở nên không kiểm soát được. Không ai tính số thương vong. Sau tiếng súng cuối cùng ở Hồng Cúm xác định có 5.400 người chết trong đó khoảng 2.000 chết tại trận là còn xa sự thật. Họ từ nhiều nước đến đây. Về sau ông Giáp nói có 24 quốc gia khác nhau đã bị đánh bại ở lòng chảo Điện Biên Phủ.
Theo đúng nghĩa của nguyên tắc dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ông Giáp tuyên bố rằng số thương binh địch sẽ được đối xử theo thứ tự: trước hết quân ngụy Việt Nam, sau đó là quấn Bắc Phi rồi đến các hạ sĩ quan và sĩ quan Pháp. Nhưng ông cho phép những người bị thương nặng thuộc tất cả các loại được ở lại chiến trường kèm theo một số y bác sĩ Pháp: sau đó, cùng với nữ bác sĩ Genevière de Galard họ được trở về Hà Nội trên một chiếc máy bay Pháp.
Khi quân Việt Minh rút khỏi thung lũng, ông Giáp đã cẩn thận cài số tù binh lẫn lộn với bộ đội của ông để tránh bị quân Pháp thả bom và bắn phá vào đội hình (điều đó không cần thiết, Bigeard và 14 sĩ quan trong một chiếc xe tải chạy trên chiến trường giữa đám tù binh không bao giờ dừng lại giữa ban ngày, mọi chuyện cần đều xử lý trên xe, nhưng sau vài ngày chiếc xe cũng bị bắn và họ cũng tiếp tục đi bộ mang vác như những con la).
Trên mười nghìn tù binh, rất ít người được trở về: họ chết vì những vết thương hoặc ăn uống không đầy đủ trong cả chuyến đi rất khó nhọc bằng đôi chân, hoặc sau đó trong những nhà giam dựng vội cách hàng trăm kilômét ở phía Đông Bắc gần biên giới Trung Quốc (Bigeard khẳng định họ không chết vì bị đối xử tàn nhẫn như người ta thường buộc tội cho Việt Minh: họ xỉu đi vì sức lực cạn kiệt qua những trận chiến đấu và ăn uống thiếu thốn, đồng thời cũng vì trên con đường ở chiến trường phải đi bộ quá xa mà không đủ no. Hàng ngày họ nhận được hai bát gạo lứt, thỉnh thoảng họ phải tự nấu lấy trong khi đi cũng như khi tại trại. Bigeard dũng cảm hành động: ông ta chạy trốn, bị bắt lại và bị canh giữ đánh đập. Quân ngụy Việt Nam tôn trọng kỷ luật được cử chỉ huy các tù binh chiến tranh, tuy không được ăn uống đầy đủ nhưng vẫn ra tay giữ vững đội hình).
Theo những thỏa thuận ở Genève, loạt tù binh Điện Biên Phủ đầu tiên 885 người được phép trở lại Hà Nội khoảng 5 tháng sau khi chiến tranh kết thúc, sau đó có De Castries và các sĩ quan cao cấp. Chủ yếu họ đi bộ, chỉ dùng xe một đoạn đường. Tất cả có 2.100 tù binh được trả tự do (những gái mại dâm buộc phải đi bộ về các trại. Một cô trong số cưới một người lính, vài năm sau xuất hiện ở Hà Nội với một gia đình. Còn những người khác bị quên lãng. Có thể một số sống sót. Nhưng đa số đã chết vì kiệt sức trên các nẻo đường rừng núi).
16.500 người đã chiến đấu ở “Vũ đài tuyệt hảo” trừ đi 2.000 người chết trận còn lại 14.500. Trừ số 3.000 cuối cùng trở về thì còn lại 11.500 bị chết, đó là tất cả sự mất mát của người Pháp ở Điện Biên Phủ.
Từ lúc cuộc chiến tranh bắt đầu đến lúc chiến tranh kết thúc cuối tháng 7 năm 1954, 10 tuần lễ sau khi Tạ Quốc Luật và trung úy Chu Bá Thê cắm lá cờ ngôi sao, đỏ chói trên nóc hầm De Castries-đã có tất cả 36.979 binh sĩ Pháp và quân nhân bị bắt làm tù binh Việt Minh. Chỉ có 10.754 (28%) được trả tự do khi chiến tranh kết thúc (61% trong số họ chết trong ba tháng đầu trong đó 49% bị bắt ở Điện Biên Phủ).
Những kẻ đào ngũ bỏ trốn, ngụy quân Việt Nam hoặc Bắc Phi cũng không thoát: bị bắt làm tù binh cùng những binh sĩ còn ở lại căn cứ, phần lớn đã chết trong những tuần lễ tiếp theo vì mệt mỏi, bệnh lỵ, thiếu ăn, sốt rét, tất cả đều cùng một cảnh. Nếu họ tiếp tục chiến đấu có ba nghìn tay súng còn lại sẽ làm chậm lại cuộc tiến công của ông Giáp cho đến mùa mưa. Đó là một giả thiết quá ngây thơ. Mưa lẽ sẽ biến đường thành sông ngòi ngăn cản việc tiếp tế làm cho quân Việt Minh bị bỏ đói phải bỏ trận địa và biến vào rừng để tìm kiếm thức ăn: số đông lính đào ngũ sẽ còn sống sót. Lịch sử có thể thay đổi.
Chỉ có 5% lính Pháp ở Đông Dương có mặt Điện Biên Phủ, nhưng trong số tiểu đoàn chiến đấu ở Điện Biên Phủ thì 8 tiểu đoàn là những đơn vị thiện chiến, tổn thất này là một thảm họa về lực lượng quân sự. So sánh với Quân đội nhân dân Việt Nam, ông Giáp đã huy động 50% bộ đội chủ lực và sử dụng chủ yếu viện trợ của Trung Quốc mấy tháng trước đó. Tuy vậy, so với những mất mát lớn lao về uy tín và thất bại về tâm lý mà quân Pháp phải chịu đựng thì chẳng thấm vào đâu.
Quân Pháp mất 48 máy bay trên đường bay, 168 bị trúng đạn trên bầu trời lòng chảo Điện Biên Phủ và 14 bị phá hoại trên sân bay. Máy bay đã thực hiện 20.800 chuyến bay yểm trợ cho binh sĩ chiến đấu trên mặt đất, đối với quân Pháp thì quả là nhiều, nhưng có nghĩa gì so với lực lượng không quân Hoa Kỳ sử dụng trong cuộc chiến tranh sắp tới ở Việt Nam.
Ông Giáp đã tổn thất khoảng 7.900 chiến sĩ hy sinh, trong đó có 2.000 riêng của trận đánh của sư đoàn 308 tiến công đồi Độc Lập và 1.200 khi tiến công cụm cứ điểm Đông, tả ngạn sông Nậm Rốm khu vực sở chỉ huy của De Castries (Eliane) và hơn 1.000 trong những trận tiến công cuối cùng ngày 7 tháng 5. Nòng súng nóng đỏ lên trong buổi chiều hôm đó. Phải tính thêm 12.000 thương binh. Tuy vậy về sau thì chẳng còn tính toán thống kê hêt những chiến sĩ đã ngã xuống (biên chế Quân đội nhân dân Việt Nam không phải là vấn đề tổ chức chặt chẽ như trong quân đội phương Tây. Tên họ, địa chỉ, gia đình hoặc quan hệ xã hội được ít nhiều ghi chép lại. Thiếu giấy. Liên lạc từ xa thật hiếm, thường sử dụng cho những thông báo quan trọng hơn là thông tin mang trên lưng người. Những hộp đựng các loại phiếu cá nhân thường bị bỏ lại để mang vũ khí, đạn dược và thực phẩm. Thông thường, các gia đình không được biết ngay về cái chết của người thân, mà phải hàng tháng, hàng năm thì mới nhận được tin tức ấy. Công việc có thể rất tốn kém, nhưng kế hoạch quân sự phải trả tiền.
Tù binh Pháp bị bắt tại Điện Biên Phủ năm 1954
Sau khi viên đạn cuối cùng đã bắn đi, mọi việc kết thúc, tổn thất quân Pháp lên đến 92.797 binh sĩ bị chết trận và 176.369 bị thương tổng số có 269.166 thương vong. Hơn nữa, trong 8 năm chiến tranh 48.673 binh sĩ bị thương hoặc bệnh tật được đưa về Pháp (Sau đây là những con số thương vong do tạp chí Historia thiết lập năm 1972:
- Quân Pháp, lê dương, châu Phi và Bắc Phi: +Chết trận: 11.860 +Mất tích: 9.951 +Bị thương: 45.246 - Quân ngụy Việt Nam trong đạo quân viễn chinh: +Chết trận: 14.093 +Mất tích: 12.830 +Bị thương: 12.100 - Quân các nước đồng minh (Lào, Campuchia): +Chết trận và mất tích: 17.600 +Bị thương: 12.100 Tổng hợp tất cả: +Chết trận và mất tích: 77.334 (trong đó có khoảng 15.000 Pháp)).
Marcel Bigeard (ông thích người ta gọi ông là Bruno vì cái tên chiến đấu này được người ta đặt cho trong một nhiệm vụ quân sự) trở thành tướng 4 sao năm 1975 rồi thứ trưởng Bộ Quốc phòng dưới thời thủ tướng Valery Giscard d’Estaing. Khi nhắc đến Việt Nam ông đã nói rằng những nhà chính trị Pháp không biết họ đi đến đâu và đi như thế nào. Nhưng lịch sử không dừng lại ở đó.
Chiến tranh chưa kết thúc ngày 7 tháng 5 năm 1954. Bộ đội và du kích của ông Giáp tiếp tục tấn công quân Pháp trên khắp chiến trường Việt Nam để gây sức ép (nên nhớ rằng ông Giáp không có đủ phương tiện thông tin để truyền đạt mệnh lệnh ngừng bắn đến tất cả quân khu và đơn vị ở trong rừng núi hoặc ở vùng châu thổ).
Một điều chắc chắn là quân đội không ngừng gây áp lực. Trong mùa hè trên những cao nguyên miền Trung gần thị xã An Khê, bộ đội Việt Nam đã bao vây tiểu đoàn “Nam Hàn” thuộc binh đoàn cơ động 100. Binh đoàn này đã đánh tốt bên cạnh sư đoàn 2 quân Mỹ ở Nam Triều Tiên. Tiểu đoàn này nhiều lần bị chọc thủng trên tuyến dọc theo đường quốc lộ 19, bị quân Việt Nam xung phong tiêu diệt và cuối cùng những người sống sót cũng bị tiêu diệt trên đèo Chi Dreh. Kết quả tiểu đoàn chỉ còn 54 người khỏe mạnh.
Trong khi toàn thế giới đang bị “sốc” về trận Điện Biên Phủ và hiểu rõ rằng thất bại trận này sẽ chấm dứt nhanh chóng sự đô hộ của người Pháp ở Đông Dương thì các toán quân Pháp lại để một ít thời gian để tính toán về tầm quan trọng của tình thế. Về phần mình, Cogny tập trung các đơn vị theo kế hoạch hành quân Damoclès tạo thành một vòng vây chặt hơn xung quanh Hà Nội và Hải Phòng, loại bỏ đường lối của De Lattre sử dụng bộ binh tốn kém. Tổ chức phòng ngự này không gợi lại vòng vây Maginot mà trở thành một kế hoạch quân sự kỳ quái: mấy năm sau, chỉ còn lại những khối bê tông ẩm ướt và những mẩu sắt rỉ lộn xộn dưới đám cỏ dại.
Ở Sài Gòn, Navarre cố gắng giữ thể diện, song ông là người chưa bao giờ biết giữ thể diện. Rõ ràng mọi người hoặc hầu hết mọi người đều chê trách ông ta nhưng ông ta lại đổ lỗi cho Võ Nguyên Giáp. Navarre đã kết luận, dựa trên những tin tức đáng tin cậy nhất, ông ta phải bố trí một lực lượng quan trọng trong lòng chảo Điện Biên Phủ chặt đứt dây rốn, bóp nghẹt việc vận chuyển vũ khí và tuyên truyền, chặn đứng bộ đội của ông Giáp giúp Lào trở thành một mối đe dọa nguy hiểm, hy vọng ngăn trở Lào chuyển sang phía cộng sản. Các cô vấn của ông ta đã khẳng định quân Việt Minh không thể có cách nào để vận chuyển một số lượng pháo binh có ý nghĩa vào thung lũng và cả một khối lượng đạn dược cần phải sử dụng nữa. Những đội quân thiện chiến của Navarre không chạy theo một sự mạo hiểm nhỏ nào. Cũng theo ý kiến các cố vấn ấy sự có mặt của những đội quân ấy là một đòn chí tử trong khu vực, trong khi Navarre có thể kéo Việt Minh vào những trận đánh ở miền Nam, gây cho Việt Minh những tổn thất lớn để rồi tiến ra miền Bắc nghiền nát những lực lượng mạnh nhất của ông Giáp. Navarre đã viết: “Tôi đã nhận được những tin tức tình báo. Khi tôi chiếm Điện Biên Phủ, tôi đã được chiến đấu với hai sư đoàn, rồi người ta đánh với bốn sư đoàn không phải trước ngày 20 tháng 12 năm 1953. Và nếu chúng tôi rút khỏi, chúng tôi cũng bị thua…”. Thực tế người Pháp đã bị thua. Navarre không thể thắng trong tình huống này hoặc tình huống khác. Cả khi rút quân, thì lực lượng của ông Giáp đã quyết tâm chiến đấu ngay từ đầu: búa đã sẵn sàng giáng xuống.
Cho đến lúc ấy, quyết định của Navarre hình như đã giải đáp một logic hoàn hảo, dự trên những sự kiện cụ thể. Song ông không tính đến nhiệt tình và quyết tâm cũng như sức lực của người Việt Nam. Ông cũng quên luôn cả đường lối lãnh đạo sáng suốt. Hồ Chí Minh với khả năng phân tích lớn lao đã đưa ra một kế hoạch và đồng ý để quân đội hành động (với sự ủng hộ từ xa của ông). Quân ủy Trung ương và Hội đồng quân sự đã thảo luận kế hoạch ấy đưa ra những nghị quyết, in ấn những nghị quyết ấy để phổ biến trong toàn quân. Quân đội được tuyển mộ trong toàn quốc và người dân tộc thiểu số ở miền Bắc đã làm việc quá yêu cầu đối với họ. Nhưng người đã tổ chức ra màn kịch này với ý chí cương quyết và tự tin, với phương pháp vững vàng không lay chuyển, với tinh thần bình tĩnh và mạnh mẽ là Võ Nguyên Giáp: ông đã qua nhiều đêm không ngủ, đi lại ngang dọc, tìm tòi mọi cách để chi phối tình thế mà không cảm thấy cần ngủ. Khi ông Giáp thấy De Castries và những tù binh khác lũ lượt đi qua trước mặt ông sau khi phải rời bỏ tập đoàn cứ điểm không thể đánh chiếm được của họ, ông hiểu rằng thời đại thuộc Pháp ở Đông Dương đã chấm dứt.
Ngay sau ngày sụp đổ của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ngày 8 tháng 5, hội nghị Genève khai mạc để tìm một giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh kéo dài 8 năm này: phải đi đến một thỏa hiệp của cả hai phía có tính đến những tình tiết nhạy cảm của đôi bên. Hội nghị có đủ đại biểu của Liên Xô, Liên hiệp hoàng gia, nước Pháp, chính thể Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, và chính phủ do Pháp dựng nên ở Sài Gòn (Bảo Đại làm vua từ 1925, bị quân Nhật đảo chính năm 1945 nhưng quân Pháp yêu cầu ông trở lại tái lập sự nghiệp năm 1949. Ông ở lại làm vua bù nhìn cho đến năm 1955, người Pháp tiếp tục điều hành công việc với một số người Việt Nam. Do đó Bảo Đai và “chính phủ” của ông ta đại biểu cho miền Nam ở Genève.
Người Pháp không còn lợi thế nào để trên bàn và cũng chẳng có chủ bài trong tay áo: tinh thần họ tan nát, đạo đức họ suy sụp, kinh tế họ điêu tàn và bực mình sâu sắc. Trong khi miền Bắc, nhờ có quân đội của ông Giáp, toàn bộ quyền lực đang trong tay Cụ Hồ Chí Minh. Năm 1949, người Pháp dùng Sài Gòn làm thủ đô của Việt Nam và loại bỏ những quan chức hành chính ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. Miền Bắc đã mất: nhưng không ai biết dừng lại chính xác ở đâu. Quân Pháp đang nắm giữ tạm thời quyền lực ở phía Nam, song ngày ra đi hình như đã định đoạt vì họ chẳng còn ý chí và phương tiện để ở lại. Hơn nữa, thủ tướng mới của chính phủ Pháp, Pierre Mendès-France đã công khai đánh cuộc rằng cuộc việc sẽ được giải quyết trong 3 tuần lễ. Đối phương đã hiểu được nước Pháp sẵn sàng có những nhượng bộ lớn.
Ở Genève, người ta thảo luận nhiều về giới tuyến phân chia hai miền. Muốn chiếm thêm nhiều lãnh thổ, Nam Kỳ yêu cầu lấy vĩ tuyến 18. Cũng như vậy, miền Bắc muốn vĩ tuyến 16. Cuối cùng Molotov quyết định giới quyến ở vĩ tuyến 17. Điều đó quyết định cuộc sống của nhân dân và lịch sử Việt Nam.
Sau khi biểu quyết dứt khoát về hiện trạng quân sự, và chỉ biểu quyết giơ tay về những vấn đề chính trị, thỏa thuận Genève yêu cầu những điểm sau:
- Giới tuyến phân chia ở vĩ tuyến 17. - Khu vực phi quân sự bên này, bên kia là 8 km. - Quân Pháp rút khỏi Việt Nam. -T rao đổi người bị bắt trong 300 ngày giữa miền Bắc và miền Nam. -T ổng tuyển cử tự do ở miền Bắc và miền Nam vào năm 1956. - Độc Lập cho Lào và Campuchia.
Nhờ có thắng lợi của ông Giáp, những người cộng sản trở thành chủ nhân và người ta có thể nghĩ rằng họ sẽ đóng vai trò điều chỉnh lớn: họ có thể yêu cầu bồi thường, từ chối tổng tuyển cử chia cắt đất nước, và đòi hỏi giải phóng toàn bộ Đông Dương. Song bao giờ cũng vậy, họ không vội vàng. Theo tính toán của Eisenhower dĩ nhiên cũng đồng ý với ý kiến này. Phải tiến từng bước, củng cố vững chắc thế và lực của miền Bắc, trước khi giải quyết những vấn đề của miền Nam.
Hoa Kỳ không còn sự lựa chọn nào, từ chối ký hiệp định Genève-một năm sau, Hoa Kỳ lại tuyên bố mọi sự vi phạm hiệp định đề “đe dọa nghiêm trọng hòa bình thế giới”. Vài tháng sau, ngày 8 tháng 9 năm 1955, tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (IOTASE) ra đời. Qua tổ chức này, người Mỹ nhận trách nhiệm bảo đảm an ninh cho miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia.
Người Pháp đang lâm vào một cuộc chiến tranh chống thuộc địa khác ở Algérie, càng ngày càng bị phụ thuộc vào viện trợ Mỹ. Ngày 1 tháng Giêng năm 1955, chịu áp lực của Washington, họ phải hủy bỏ chế độ đặt Đông Dương vào khối Liên hiệp Pháp. Chính quyền miền Nam trông thấy gió đổi chiều, sợ người Pháp buông tha họ và không để cho họ xử lý với miền Bắc cộng sản, quyết định không chờ tổng tuyển cử lập pháp, định chơi trò được ăn cả, ngã về không bằng một cuộc trưng cầu dân ý: nhân dân phải phát biểu đồng ý hay không thống nhất tổ quốc. Như người ta vẫn chờ đợi, chịu ảnh hưởng của những người công giáo đối với chính quyền và sự đói nghèo sẽ kéo theo việc mất toàn bộ quyền lực vào tay cộng sản miền Bắc-miền Bắc luôn luôn ở trong tình trạng không thuận lợi về thời tiết và khí hậu và nguồn lợi tự nhiên-đa số người Việt Nam ở miền Nam đồng ý giữ nguyên tình trạng chia cắt vào tháng 10 năm 1954. Do đó tồn tại một nước Cộng hòa do Ngô Đình Diệm đứng đầu.
Diệm là một người công giáo cuồng nhiệt mà lòng tự tin, tính thản nhiên và sự quyến rũ kín đáo đã gây ấn tượng mạnh trong giới chính khách cao cấp Mỹ trong chuyến thăm Washington một năm trước đây. Vì lẽ đó, thượng nghị sĩ Lyndon B.Johnson rất khôn ngoan, và khong tiếc lời khen ngợi, cho rằng Diệm “là Churchill của thế kỷ, người tiên phong trong các nhà lãnh đạo bảo vệ tự do”. Bao nhiêu nước chảy qua dưới cầu trước khi người ta nhìn được một điểm nào ở con người thiển cận, mê đạo và lao vào những hành động dại dột này mà không gặp một sự phản đối nào. Vì vậy, sau khi trúng cử tổng thống, ông ta tuyên bố không bị ràng buộc bởi những quyết định của hiệp nghị Genève. Vì chính phủ của ông ta không có mặt ở đó. Cái thiện hướng hành động bốc đồng hoàn toàn tự do đó đã khuyến khích Hoa Kỳ đi vào con đường can thiệp. Trong khi đó, vì một sự đảo lộn hoàn toàn về chính trị hy vọng tránh khỏi những cuộc chiến tranh khác, nước Pháp đặt quan hệ với miền Bắc, các cố vấn Mỹ bắt đầu vào miền Nam để huấn luyện và phát triển một lực lượng bản xứ để nhanh chóng trở thành quân đội Cộng hòa Việt Nam (ARV).
Tuyên bố cuối cùng của hiệp định Genève đã khẳng định rõ ràng, không thể coi giới tuyến 17 là biên giới chia cắt lâu dài giữa hai quốc gia Việt Nam: nó chỉ là giới tuyến tạm thời giữa hai “miền quân sự” phải được xóa bỏ sau tổng tuyển cử. Nhưng một số lớn người không muốn hiểu như vậy và một cuộc di cư khổng lồ của người miền Bắc vào miền Nam được bắt đầu tổ chức, phần lớn là người công giáo. Một lần nữa không có ai thống kê, và con số người di cứ nêu trên không chính xác: một số ước tính 500.000 người, còn số khác nói phải hơn một triệu.
Trước khi phân chia, có ít hơn một triệu người công giáo ở miền Bắc. Một nửa triệu khác kéo đến miền Trung những miền đất hẹp có thể trông thấy biển, để bắt đầu một cuộc sống mới và chạy trốn một chế độ thiếu dân chủ và vô thần. Diệm dành cho họ những điều kiện đặc biệt về đất đai và trợ cấp: những vùng hoàn toàn công giáo lọt vào giữa các vùng khác. Ông Diệm cũng dành cho họ những chức vị tuyệt vời trong chính quyền, trong khi chinh sách gia đình trị, một chính sách rất quan trọng ở Việt Nam, cho phép ông ta tăng thêm quyền lực. Điều đó làm tăng gay gắt tình trạng căng thẳng trong giới Phật giáo đang bị tổn thương nghiêm trọng và tăng thêm nhiều lý do bất bình làm rung chuyển cái đất nước mới mẻ trong thế kỷ tới.
Có khoảng hai trăm nghìn quân ngụy Việt Nam đã chiến đấu cho người Pháp cũng chuyển vào miền Nam cùng với gia đình họ. Cùng đi vào Nam, có 5 hoặc 6 nghìn bộ đội và cán bộ du kích, cả những đảng viên cộng sản lẫn lộn trong nhân dân để theo dõi từ cơ sở. Hàng chục nghìn người từ Nam ra Bắc, đó là dịp tốt để những người Việt Minh quê ở miền Bắc được trở về nhà và những người quê hương ở miền Nam đã chiến đấu cho ông Giáp tìm chỗ nương tựa ở miền Bắc. Họ cũng để lại hàng chục nghìn cán bộ, nhiều hơn số cán bộ đi ra Bắc, ở lại miền Nam: ông Giáp đã hình dung được những chiến sĩ tin tưởng này là chỗ “cứng” của chính quyền; vì lịch sử không dừng lại ở đó, mà đã bắt đầu một trang khác: họ sẽ là nòng cốt của một đội quân hoạt động trong phong trào sắp tới (có khoảng từ 10 đến 100 nghìn người dân tộc miền núi cũng di chuyển vào Nam, không ai biết con số chính xác là bao nhiêu mà cũng chẳng ai quan tâm đến họ).
Ở miền Nam, không hề có đổi mới chính trị và xã hội làm cơ sở cho việc ủng hộ nhân dân đối với Diệm. Do vậy thời gian qua đi, nhiều người xa lánh Diệm, làm tăng thêm lực lượng chống đối: nghĩa là những cán bộ cộng sản ở lại đã động viên nhân dân nổi dậy khắp nơi-trong các thành phố, làng mạc, xóm thôn. Những cải cách có thể thu hút tầng lớp trí thức cũng không được thực hiện, khiến cho trí thức trở thành một yếu tố quan trọng gây nên sự mất lòng tin trong toàn thể nhân dân bằng ảnh hưởng của họ chứ không phải bằng sức vóc của họ. Trong lúc này, ở miền Bắc quyền lực ở trong tay 5 nhân vật có trách nhiệm cao nhất, đã không thay đổi trong một phần tư thế kỷ, giữ vững sự kế tục và bền vững của chính quyền, còn miền Nam liên tiếp thay đổi lãnh đạo kèm theo những lời hứa không bao giờ được tôn trọng.
Một năm sau khi Diệm đã chối tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956 như quy định của hiệp định Genève, chính sách của ông Diệm không đạt được mảy may tiến bộ xã hội và kinh tế là thời cơ thuận lợi cho những cán bộ của Cụ Hồ Chí Minh phát động phong trào nổi dậy rộng khắp. Số cán bộ này chỉ đại diện cho 2% dân số, thực tế có khoảng 350.000 đàn ông và đàn bà đã thường xuyên chiếm những vị trí then chốt trong khắp đất nước: thầy giáo, hội viên hội nông dân và cả công chức cao cấp. Sau năm 1960, cuộc khởi nghĩa được Hà Nội ủng hộ và lãnh đạo càng tăng thêm lực lượng và ảnh hưởng cho đến khi trở thành một cuộc nội chiến-chống lại cuộc nổi dậy, Hoa Kỳ chuệnh choạng xoay xở bao nhiêu mưu mô tính toán vô vọng để đạt đến một mục đích mơ hồ không thể nào giải thích quanh co được.
Ở Hà Nội cho đến cuối những năm năm mươi, Võ Nguyên Giáp không chịu bó tay. Ông tăng thêm quân số, hiện đại hóa quân đội, trang bị vũ khí Liên Xô và Trung Quốc thế hệ thứ hai và thứ ba cho quân đội; loại vũ khí này đã quá thời hạn đối với đất nước họ nhưng đã cải thiện trang bị đáng kể so với các loại vũ khí trước đây của quân đội. Ông thành lập những sư đoàn mới, những trung đoàn mới, những trung tâm huấn luyện mới. Ông thành lập ở Vinh ngay gần giới tuyến chia cắt một trại huấn luyện đặc công, học viên học tập cách sử dụng thuốc nổ và đánh mìn, thành thạo bắt cóc, ám sát, phá hoại; giỏi ngụy trang, đóng giả, thám thính và chiến đấu tay không.
Ngày 7 tháng 5 năm 1955, lực lượng hải quân Việt Nam đầu tiên ra đời. Ban đầu lực lượng này trực thuộc bộ đội mặt đất, đến ngày 12 tháng 10 năm 1959 trở thành một thực thể riêng biệt lấy tên là lực lượng bảo vệ bờ biển. Sau đó ngày 1 tháng 5 năm 1959, không quân nhân dân ra đời, ban đầu chỉ là một phi đoàn vận tải hàng không quân sự để 6 năm sau trở thành một lực lượng không quân thực thụ. Ngày 3 tháng 4 năm 1965, các phi công Việt Nam lần đầu tiên đánh máy bay Mỹ.
Về phương diện cá nhân, sau 8 năm vắng mặt, ông Giáp cùng vợ, cưới năm 1946, trở về ở trong một ngôi nhà cạnh trụ sở cũ của người đại diện cao nhất của Pháp ở miền Bắc. Đó là ngôi nhà màu vàng mà người dân Hà Nội thường gọi là “Lồng Vàng”. Vợ ông là giáo sư sử học và sinh vật học, vốn là con gái một ủy viên xã hội miền Nam (năm 1990 bà vẫn làm việc ở Hà Nội trong hội đồng nhân dân văn xã).
Những nhà lân cận tòa công sứ Pháp đã trở thành một vùng được bảo vệ là những nơi ở của các vị ủy viên quan trọng của Chính phủ, đó vốn là những biệt thự của các viên chức cao cấp người Pháp. Ông Giáp ở đó, nuôi một gia đình 4 con, 2 trai và 2 gái. Thỉnh thoảng ông chơi đàn dương cầm, chỉ thỉnh thoảng thôi vì ông làm việc hết giờ này đến giờ khác ở văn phòng, trong các công sở hoặc doanh trại quân đội, và ông đọc rất nhiều-những sách về quân sự Trung Quốc, Nga, Pháp, Anh và Mỹ và cả những tác phẩm khác; ông thích đọc tác giả Pháp, ông cũng ưa chuộng Goeth, Shakespeare và Tolstoi. Nhưng ông ca ngợi nhất những tác phẩm của thi sĩ Việt Nam cổ điển và hiện đại.
Cuối những năm năm mươi ông Giáp nhận nhiều trách nhiệm. Ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân, Phó Thủ tướng và Phó Chủ tịch Hội đồng quốc phòng, nơi ông có nhiệm vụ quan trọng trong quá trình quyết định tập thể.
Tất nhiên vấn đề quan trọng nhất là tham gia vào công việc của quân đội nhân dân và Việt Cộng vào cuộc chiến tranh chống miền Nam Việt Nam được Mỹ ủng hộ. Trong bối cảnh ấy những vấn đề lớn về hành động quân sự du kích chiến và chiến tranh thông thường thành lập và sử dụng đường mòn Hồ Chí Minh, tổ chức phòng ngự chống không lực Hoa Kỳ ở miền Bắc. Mọi điểm sẽ đề cập đến trong những chương tới.
Song nhiều nhất là ông Giáp nổi tiếng với cái tên “Núi Lửa” là một con người làm chủ bản thân, băng giá, ẩn dấu một nghị lực như sóng địa chấn. Cái biệt danh ấy là do người Pháp đặt cho ông nhân dịp ông gặp Leclerc. Nhiều cán bộ chiến sĩ của ông đã đặt tên riêng cho ông ta, những giả thiết đầu tiên là khả dĩ hơn.
Cách nhà ở của ông vài trăm mét, rất gần nhà ông, trường Albert Sarraut, trường học cũ của ông đã được đổi mới và đặt một máy phát điện cho ông. Đó là địa điểm đại sứ quán Liên Xô.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 3:10 pm
Chương 13: Cuộc chiến tranh của Washington
Tôi đoán trước các ngài sẽ dần dần ngày một ngày hai bị chìm ngập trong một vũng bùn không đáy về quân sự và chính trị
Tổng thống Charles de Gaulle gửi tổng thống Kennedy, 1962
Lý do chính mà Hoa Kỳ can thiệp vào nền độc lập của miền Nam Việt Nam là khoản cho vay theo thỏa thuận của “lý thuyết domino”. Ở một cuộc họp báo ngày 1 tháng 4 năm 1954, tổng thống Hoa Kỳ đã so sánh tình thế chính trị ở Đông Nam châu Á như một hàng domino. Nếu một trong những domino ở cuối hàng bị thất sủng, nó sẽ kéo theo tất cả các domino khác sẽ đổ theo: nếu chủ nghĩa cộng sản thắng lợi ở miền Nam Việt Nam, nó sẽ tràn về phía Nam và phía Tây, thắng Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Malaisia, Indonesia, Philippin, toàn bộ bờ biển phía Đông của Thái Bình Dương sẽ bị cộng sản kiểm soát kể cả ba eo biển là lối vào Ấn Độ Dương và vùng Trung Đông-Lợi ích trọng yếu của Hoa Kỳ sẽ bị đe dọa kể cả hòa bình thế giới.
Tiếc rằng khái niệm này làm người ta nhớ lại trò chơi trẻ con đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ đến hàng triệu người đàn ông cũng như đàn bà thông cảm dễ dàng chấp nhận một cách mù quáng. Đúng là lấy làm tiếc vì khái niệm này không tính đến những khác nhau về chủng tộc và văn hóa, về điều kiện địa hình, tôn giáo và kinh tế giữa các quốc gia khác nhau khi ở các quốc gia này dân cư thuần nhất và dễ bảo, không có khát vọng khác hoặc những chuyện đáng phàn nàn trong lịch sử. Càng đáng tiếc hơn khi khái niệm ấy đã cảm hóa nguời trở thành tổng thống Hoa Kỳ John F.Kennedy (sự thật, trước tháng 4 năm 1954, lý thuyết ấy đã được trình bày trong cuộc họp của hội đồng an ninh quốc gia ở Washington không phải chính của Einsenhower). Những rung động hão huyền và ngây thơ ấy đã phải chịu một trách nhiệm nặng nề trong những năm tiếp theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp tiếp ông Kliment Voroshilov, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô ngày 20-5-1957
Năm năm sau, năm 1959, tổng thống Einsenhower tuyên bố công khai rằng Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ nền độc lập của miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm, 750 cố vấn quân sự Mỹ có mặt ở miền Nam, trong khi quân đội miền Nam đã có 243.000 người.
Tháng 11 năm 1960, Kennedy trở thành tổng thống. Trong bài diễn văn nhậm chức, tổng thống đã có một tuyên bố nổi tiếng, rằng nhân dân Mỹ đã sẵn sàng chịu bất cứ gánh nặng nào, trả bất cứ giá nào để bảo vệ tự do. Tháng 5 năm 1961, sử dụng những công thức hấp dẫn, ông tuyên bố trước quốc hội Mỹ rằng họ đang sống trong một thời kỳ lạ lùng và phải vượt qua những thách thức khác thường: “Hôm nay, chiến trường để bảo vệ và truyền bá tự do đang bao trùm toàn bộ miền Nam địa cầu, đất đai của các dân tộc đang nổi dậy. Cuộc khởi nghĩa của họ lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Họ muốn chấm dứt bất công, chuyên chế và bóc lột. Hơn cả kết thúc, họ khao khát bắt đầu! Chúng ta ủng hộ cuộc cách mạng của họ, bất chấp cả chiến tranh lạnh”.
Thật dễ hiểu khi Kennedy phát triển khái niệm rằng cả bán cầu Nam bỗng nhiên nổi dậy chống bất công, nhưng đồng thời với lý thuyết domino dựa trên những lý lẽ không công bằng. Ai là những kẻ chuyên chế bạo ngược, bóc lột, là tác giả của những chuyện không công bằng ấy? Những kẻ mà Kennedy cho là phải chịu trách nhiệm về những cuộc khởi nghĩa nổ ra ở châu Á, châu Phi và một số vùng ở châu Mỹ latinh chỉ có thể là người Pháp, người Anh và người Hà Lan-những tên đế quốc ở thời tàn. Song rõ ràng họ không tương ứng với những mô tả ấy: những vương quốc ngắn ngủi của họ đã một thời xây dựng nền giáo dục và phát triển khiến cho các dân tộc “hoang dã” được nhiều hơn là mất. Không nên quên rằng các nước châu Âu này đã là đồng minh trung thành của Hoa Kỳ trong chiến tranh lạnh. Đối với chính sách ngoại giao Mỹ, người ta không dùng khái niệm trên đối với bạn bề, lý luận lừa dối ấy gây nên không ít lẫn lộn và cả ác ý trong những năm sắp tới-như năm 1956 “sự kiện kênh Suez” lúc bấy giờ. Lại thêm chuyện nhiều người Mỹ cho rằng miền Nam Việt Nam là một trong những quốc gia cần giúp đỡ để giải phóng những bất công cũ, do đó vấn đề lúc bấy giờ mang một tính chất hoàn toàn khác.
Trong dịp ấy Kennedy đã tuyên bố thêm: “Các đối thủ của tự do không phải là khởi thủy của cuộc nổi dậy… mà họ xúi giục nổi dậy. Phần lớn thời gian, tấn công của họ không rõ ràng. Họ không bắn tên lửa, và quân đội của họ ít khi xuất hiện. Họ gửi súng đạn, kẻ gây rối, kỹ thuật viên và làm công tác tuyên truyền trong tất cả các vùng lộn xộn. Khi cần đến những hành động bạo lực, thì những hành động thường tiến hành ban đêm của những kẻ khủng bố, những kẻ gây rối, những kẻ phá hoại, những người khởi nghĩa”.
Năm 1961 Chính phủ Liên Xô tuyên bố rằng đất nước họ ủng hộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Như vậy có nghĩa là họ đánh phương Tây tư bản chủ nghĩa một cách gián tiếp bằng những lực lượng trung gian. Sau đó người Xô Viết đã cố gắng khai thác các cuộc bạo động gây ra do gió đổi chiều trên khắp nam bán cầu. Tuy nhiên khối thống nhất của hệ thống cộng sản chủ nghĩ do Mátxcơva kiểm soát đã tan vỡ khi Tiệp Khắc, rồi Albanie và tiếp sau là Trung Quốc tách ra. Liên Xô không còn độc quyền thế giới về chủ nghĩa cộng sản và không quên rằng chủ nghĩa dân tộc mới là guồng máy khởi động phong trào chống chủ nghĩa đế quốc vào những năm bốn mươi và năm mươi.
Phải chăng luôn luôn bị các cố vấn thuyết phục rằng sự lan tràn chủ nghĩa cộng sản là có thật, tổng thống Kennedy ngày càng đưa nhiều quân sang Sài Gòn. Đến mùa xuân năm 1962 gần 4.000, cuối năm ấy đã lên đến 11.300. Rồi tháng 10 năm 1963, tổng thống Mỹ cho phép sư đoàn không vận số 7 hoạt động ở miền Nam Việt Nam, đây là một đơn vị của lực lượng không quân thứ 17 mà người chỉ huy có trách nhiệm về mọi kế hoạch tác chiến ở Đông Nam Á. Kennedy đã tăng cường mạnh mẽ những canh bạc được thua.
Được Hoa Kỳ viện trợ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã phải thịnh vương lên. Nhưng điều đó không thực hiện được vì đó là một chế độ không dân chủ, lãnh đạo kém, tổ chức kém và quá ưu ái đối với thiểu số công giáo. Những cải cách cấp thiết chỉ nằm trên giấy tờ, không có gì để lấp lỗ hổng do quân Pháp ra đi để lại. Trong khi ông Diệm độc thân sống như một thầy tu trong dinh thự Sài Gòn của ông, thì chú em Nhu rất thích cùng bà vợ đẹp nhưng ngạo nghễ lợi dụng triệt để tình thế để lượn khắp các phố Sài Gòn với vẻ long trọng như một đôi vợ chồng nhà vua. Còn Việt Cộng (quân miền Nam Việt Nam, quân Mỹ và quân đồng minh thường gọi: Vi Ci) ra sức vận động quần chúng vùng nông thôn để tiễu trừ những lực lượng chống đối cộng sản, cảnh sát mật của Nhu cần lao tìm cách quét sạch các đối thủ của chế độ Diệm ra khỏi các làng mạc; theo tin Mỹ, khoảng 75.000 người bị giết và 50.000 người bị giam. Dân làng một mặt bị Việt Cộng tuyên truyền vận động, mặt khác bị chính quyền của họ uy hiếp chẳng biết nên theo bên nào và đành cúi đầu chịu đựng. Lo sợ biến động nhiều hơn nhiền thấy tiến bộ. Diệm lặp lại những sai lầm của quân Pháp: đàn áp (chống những người Phật giáo và giáo phái Cao Đài), từ chối nói chuyện tay đôi, thiếu biện pháp chống nghèo đói như dịch bệnh ở địa phương. Kết quả của chính sách ấy chẳng phải đợi lâu.
Sáng kiến chính của Ngô Đình Diệm là chống lại hành động và ảnh hưởng của Việt Cộng bằng chương trình “ấp chiến lược”, nói cách khác đưa dân làng vào trong những hàng rào bảo vệ, để họ khỏi bị hăm dọa theo lý thuyết. Phương án này rập khuôn những cách người Anh đã làm ở Malaysia trong cuộc khủng hoảng những năm bốn mươi và đầu những năm mươi: dân chúng được gom vào những vùng có giới hạn, họ sống an toàn ở trong đó trong khi chờ đợi tiêu diệt bọn khủng bố; ai vượt ra khỏi vùng ấy thì coi như kẻ địch có thể bị lực lượng an ninh tiêu diệt mà không cần xét xử. Khốn nỗi, tình thế Việt Nam không phải hợp với giải pháp tương tự. Thứ nhất ở Malaysia, những người nổi dậy là người Trung Quốc rất dễ nhận dạng so với người Malaysia có màu da sẫm hơn. Thứ hai, người Malaysia là người hồi giáo không tôn thờ mồ mả cha ông như phong tục người Việt Nam; họ dễ dàng chấp nhận bỏ làng mà không hề vì lý do tín ngưỡng mà chống lại, trong khi người Việt Nam có tình cảm gắn bó với tổ tiên, bỏ làng ra đi là phạm đến tinh thần của tổ tiên.
Muốn cách ly có hiệu quả hai nghìn năm trăm làng ở miền Nam và bảo vệ họ chống tác động vào kế hoạch khởi nghĩa của 45 nhóm Việt Cộng đã biết, phải dùng đến hàng triệu lính. Không thể được, cách giải quyết là gom dân vào trong những hàng rào kiên cố (từ “ấp” đã lựa chọn sai. Các hàng rào có hệ thống dây thép gai bao quanh một khu vực khoảng 60 km có thể gom được hàng chục nghìn người).
Chương trình ấp chiến lược được đưa ra ngày 3 tháng 2 năm 1962. Tên ấp chiến lược được đổi thành “ấp sống mới”, rồi “Chương trình phát triển cách mạng”. Ở Sài Gòn, một người tên là ông Rebert Thompson, chuyên gia chống nổi dậy Malaysia-lúc bấy giờ là cảnh sát trưởng-và thành viên của BAM, một nhà lão luyện trong công tác ấp chiến lược, giúp CIA đưa chương trình vào thực hiện.
Miền Nam được chia ra nhiều “Khu thịnh vượng”: Những khu vàng do chính quyền miền Nam kiểm soát (khoảng 32% dân số); những khu đỏ do Việt Cộng kiểm soát (43%) và những vùng xung xuanh không có chính quyền mà cũng chẳng có Việt Cộng. Mục tiêu thiết lập các cấp-của những vùng vàng-cả vào trong những vùng đỏ và dần dần giành lấy quyền kiểm soát của khu này. Chương trình phải mờ rộng trong một thời gian 18 tháng.
Đầu tiên, phải thiết lập một khu được bảo vệ, tập trung đầy đủ nhiều điều kiện cho cuộc sống. Thiết lập xong, phải tiễu trừ được những người cộng sản (vấn đề: ai là cộng sản, ai không phải) sau đó các biệt đội lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ được thành lập trong các ấp phải giúp đỡ một hội đồng được bầu ra kiểm soát dân chúng và tổ chức những đội tự vệ. Nhưng thường thường những dân quân tự vệ này để cho Việt Cộng vào ấp ban đêm và đi ra khỏi ấp vào buổi sáng sớm-cũng không phải không có khả năng một số thành viên của dân quân tự vệ lại thuộc về Việt Cộng. Đúng là một cơn ác mộng ngột ngạt đang diễn ra hầu hết các vùng lãnh thổ của miền Nam Việt Nam.
Mặc dù hàng triệu đôla và những cố gắng khổng lồ giành cho các ấp chiến lược, nhưng dự án đã bị giết chết ngay từ lúc bắt đầu. Nhiều dân làng bị dồn vào những nơi thiếu tiện nghi tối thiểu vì tiền bạc đã vào trong túi các nhà thầu không chút ngại ngùng. Ngay cả khi họ không phải nguồn gốc cảm tình cộng sản, một thái độ đối xử như vậy chắc chắn không cải thiện được dư luận đối với chế độ Diệm. Dân làng phải có giấy căn cước, nhưng họ sẵn sàng đổ ra nhiều vại bia để đổi lấy giấy đó. Họ phải làm việc vất vả trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, họ bị những người không quen biết đối xử thô bạo, tất cả những điều đó không ngăn cản họ bận rộn vì những dịch vụ bí mật hoặc vì Việt Cộng vốn đã xem các ấp chiến lược là mục tiêu lựa chọn. Năm 1962, hơn 2.000 ấp bị tấn công nhiều hơn một lần (có một ấp bị tấn công 36 lần!). Ở một tỉnh, trong tổng số 117 ấp thì có 110 ấp bị tấn công. Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, Việt Cộng đã phá hủy hơn 500 ấp chiến lược.
Về phương diện chính quyền thì cái được của chương trình ấp chiến lược là gom dân làng lại để chặt chân mạng lưới gián điệp, đưa tin và trộm cắp mà Việt Cộng kiên nhẫn cài vào theo thời gian. Trong các thành phố điều kiện cuộc sống còn tương đối dễ chịu, nhưng ở nông thôn, những đảo lộn ấy chỉ làm trầm trọng thêm tình trạng đói nghèo và oán hận. Phản ứng lại đồng thời để tăng cường thêm quyền lực, Diệm quyết định loại bỏ hết tổ chức truyền thống của các hội đồng làng xã và đưa vào những đại biểu là người của Diệm vào thay thế họ. Một hệ thống hành chính hoàn toàn hiệu quả từ đời này sang đời khác đã bị loại bỏ trong phút chốc. Tất nhiên Việt Cộng sẽ sẵn sàng lấp lỗ hổng ấy.
Từ mùa hè năm 1963, miền Nam Việt Nam xảy ra nhiều vụ lộn xộn và nhiều nhóm khởi nghĩa bắt nguồn từ chế độ bất công của Diệm. CUối cùng, ung nhọt cũng vỡ tung, ngày 1 tháng 11 Ngô Đình Diệm và em bị giết do một âm mưu đảo chính quân sự do Mỹ tổ chức hy vọng thay thế Diệm bằng một người lãnh đạo có khả năng hơn nhưng không hiểu biết nhiều về nhân cách của ông ta (cần biết chắc rằng CIA và các nhà chứ trách chính trị Mỹ đã bí mật ủng hộ những người lãnh đạo chính đã tính đến việc Diệm nhất định sẽ bị đánh đổ và không từ một phương pháp nào để giúp họ giết chết Diệm, một cái chết làm đau lòng tổng thống Kennedy). Nhưng ông Diệm chết không cải thiện được tình thế: trong 12 năm, lần lượt những nhà lãnh đạo quân sự và dân sự bất tài và hiếu chiến lãnh đạo miền Nam Việt Nam, nhiều lần đảo chính kế tiếp nhau thường do quân đội tổ chức, đánh đổ các chính phủ ngắn ngủi của Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Xuân Oanh, Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Lâm Phan Phát, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1964, người kế tiếp ông Diệm quyết định rằng chương trình ấp chiến lược không thể thực hiện được. Tiền của Mỹ đã tiêu pha hoang phí (về dự án này và những dự án khác như sau: sau chiến tranh, người ta thừa nhận rằng 60% tiền viện trợ Mỹ cho miền Nam Việt Nam không được sử dụng vào mục đích ban đầu hoặc vào túi bọn trung gian).
Ngày 23 tháng 11 năm 1963, chỉ 3 tuần lễ sau khi ông Diệm chết thì tổng thống Kennedy bị giết chết.
Nhưng chính sách của Mỹ đối với Nam Việt Nam vẫn không thay đổi. Phó tổng thống Lyndon Baines Johnson kế tục Kennedy, không kém gì người tiền nhiệm vẫn xác định phải ngăn chặn lan tràn chủ nghĩa cộng sản, vì cũng như bao nhiều người Mỹ khác, ông ta có một nỗi lo sợ vừa thực tế vừa phi lý. Cho đến lúc này, chính phủ vẫn kiên nhẫn và hy vọng tình thế sẽ được cải thiện. Bây giờ Johnson cầm lái chắc sẽ có thay đổi. Theo bài viết tiểu sử Doris Kearns, ông là con người “hung hăng và dung tục, xuất sắc và nhạy cảm, độ lượng và ý tưởng nhưng bè phái hay trả thù, toàn bộ tính cách ấy cùng một lúc”. Theo bà, ông ta cho rằng người Việt Nam cũng như một loại người hóa kiếp của người Đức trong hai cuộc chiến tranh thế giới; họ đã thất bại trước sức mạnh của Mỹ, “bây giờ, ông sẽ tránh một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba”. Ông muốn lãnh đạo đất nước một cách tích cực và hiệu quả, ông muốn để lại dấu ấn trong các sự kiện; ông muốn chặn đứng sự đe dọa của cộng sản đang không ngừng phát triển ở bên kia đại dương. Dù sao ban đầu, đa số nhiều dân Mỹ theo dõi ông.
Cuối năm 1963 Việt Cộng đã tập trung các tiểu đoàn thành trung đoàn và bắt đầu thành lập các sư đoàn. Để ủng hộ Việt Cộng, theo lệnh ông Giáp, các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam từ đầu năm 1964 bắt đầu thâm nhập vào các cao nguyên miền Trung và tiêu chuẩn hóa vũ khí của họ cho tương hợp với quân giải phóng. Từ nay, phải có mặt ở miền Nam Việt Nam hai tổ chức quân sự cộng sản: quân VC (quân giải phóng) và những đơn vị chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam do ông Giáp đưa vào để ủng hộ quân giải phóng và đôi khi để trực tiếp tham gia các kế hoạch tác chiến.
Tổng thống Johnson phản ứng với sự xâm nhập này và tuyên bố rằng Hoa Kỳ “vẫn tiếp tục can thiệp mạnh mẽ vào việc duy trì một miền Nam Việt Nam độc lập”. Đay là bắt đầu của một cuộc leo thang không lay chuyển được; một số lượng tàu thủy, máy bay, vũ khí và vật chất kỹ thuật các loại cùng với người và đôla không ngừng được tăng cường vượt qua Thái Bình Dương. Song song với quân Mỹ, quân Việt Cộng cũng không ngừng tăng cường lực lượng của họ.
Một sai lầm cực kỳ tai hại của Mỹ là tưởng rằng quân Việt Nam do quân Trung Quốc điều khiển, điều đó chắc chắn không xảy ra, một sự nghiên cứu rất sơ lược về lịch sử cũng đủ chứng minh. Khái niệm này xuất phát từ cơ sở lý thuyết domini vẫn còn tồn tại năm 1964. Vào năm ấy, Adlai Stevenson đã công bố trong một cuộc họp báo: “quan tâm đến số mệnh của Việt Nam, Hoa Kỳ ngăn chặn một cuộc xâm lược của Trung Quốc ở châu Á”. Nhà bình luận báo New York Times viết: “… một trăm mười lăm triệu người sẽ ngã xuống dưới tay cộng sản, nếu Campuchia, Thái Lan và Miến Điện, có thể cả Malasia ngã xuống”. Thật phi lý khi tưởng tượng rằng người Việt Nam chết đến hàng ngàn người chỉ để dâng đất nước họ cho người Trung Quốc (lúc chiến sự ác liệt xảy ra ở miền Nam, thương vòn hàng tháng của người Việt Nam có đến hai nghìn người, hai mươi lần lớn hơn con số thương vong của người nước ngoài).
Tháng 3 năm 1964, tổng thống Johnson quyết định gây “một áp lực quân sự leo thang và trực tiếp vào miền Bắc Việt Nam”. Tháng 8 năm ấy, “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” khiến Hoa Kỳ thực hiện “một và chỉ một” cuộc đột kích bằng máy bay ném bom vào miền Bắc Việt Nam để trả đũa. Vụ rắc rối ấy, bản thân nó chẳng quan trọng lắm, nhưng đánh dấu một bước ngoặt có tính chất quyết định vừa tầm cỡ quốc gia, vừa tầm cỡ quốc tế, đã tạo nên một ví dụ cổ điển về những phản ứng vừa vội vàng vừa cực đoan của Mỹ.
Ngày 3 tháng 8 năm 1964, một tàu khu trực Mỹ, tau Maddox, tuần tiễu trong vùng biển quốc tế của Vịnh Bắc Bộ chuyển trạng thái báo động vì bị tàu tuần tiễu Việt Nam tấn công bằng ngư lôi. Đêm hôm sau, các đài phát thanh tàu Maddox đưa tin như thể một cuộc tấn công mới sắp xảy ra đến nơi (sau này người ta hiểu rằng sự thật có một lệnh báo trước cho tàu Việt Nam sẵn sàng bảo vệ chống tàu Mỹ đang có mặt trong vùng). Một tàu sân bay ở gần cho máy bay cất cánh, các phi công bay lượn 40 phút không phát hiện được đối phương vì mưa bão mây mù dày đặc. Trên tàu Maddox và chiếc tàu sóng đôi đi theo Turner Joy các máy định vị bằng sóng âm hoạt động thất thường phát hiện hình như có 21 quả ngư lôi đang rẽ sóng. Suốt bốn tiếng đồng hồ, các tàu bắn trong đêm, tuy không một thành viên kíp trực trông thấy hoặc nghe thấy đối phương, sau đó ngay lập tức, hai vị chỉ huy khẳng định đã có 2 tàu tuần tiễu đối phương, có thể ba-nhưng ngày hôm sau, nhận thấy nhiều nghi ngờ, trưởng tàu Maddox báo tin chẳng có “một sự dò tìm nào hiệu quả” và những tín hiệu mà các bộ phận định vị nhận được là vì “hiện tượng thời tiết quá tồi tệ”. Ông ta còn thêm: đây là một sai lầm của những hiệu thính viên trẻ tuổi muốn “quá tốt”.
Khốn nỗi, sáng ngày 4 tháng 8, tổng thống Johnson đang ở cương vị tổng thống muốn tỏ ra là một con người quyết đoán-căn cứ vào những tin tức đầu tiên nhận được, không biết được những nghi ngờ đang diễn ra tại chỗ, tuyên bố trước Quốc hội Mỹ rằng những tàu khu trục rõ ràng đã tổ chức tấn công không còn nghi ngờ gì nữa, và lần này ông ra lệnh trả đũa miền Bắc Việt Nam. Việc xảy ra trên một phạm vi không kiểm soát được. Chỉ có tổng thống mới có thể phản đối, nhưng ông không làm gì cả. Trong khi trưởng tàu Maddox vì sức ép của cấp trên, định vô vọng tìm kiếm một dấu hiệu nào đó chứng tỏ súng đạn trên tàu đã bắn vào mục tiêu có thật, thì tổng thống Johnson tuyên bố trên đài truyền hình với nhân dân có phản ứng cụ thể. Chẳng có đợi lâu. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, Hoa Kỳ đi vào cuộc chiến tranh không tuyến bố (và họ càng dấn sâu vào sau đó). Từ 11 giờ sáng, 64 chuyến bay xuất kích: cảng và kho dầu của thành phố Vinh, thành phố ở phía Bắc vĩ tuyến 17 bị trúng bom. Theo tin tức của Lầu Năm Góc, 10% dự trữ chất đốt của Bắc Việt Nam bị phá hoại trong 10 phút.
Hai ngày sau, tổng thống Johnson điều trần trước Quốc hội về giải pháp sự kiện Vịnh Bắc Bộ cho phép “sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết” để đẩy lùi những trận tấn công vào quân lực của Hoa Kỳ, ”ngăn chặn những trận tấn công sắp tới” và xác định thời gian “lập lại hòa bình và an ninh trong khu vực”. Cách dùng từ không chính xác để bình luận của ông đã cho phép ông cũng như người kế nhiệm Richard Nixon tiếp tục chiến sự cho đến năm 1970 khi thượng viện loại bỏ những giải pháp ấy (nghĩa là quân Mỹ rút khỏi Việt Nam như đã được thông báo).
Năm 1964 tổng thống Johnson đã tránh tuyên bố chiến tranh, có rất nhiều lý do: dưới con mắt dư luận thế giới, thật kỳ cục khi một nước mạnh nhất thế giới tuyên bố chiến tranh với một nước nhỏ không phát triển như Việt Nam; điều đó có thể kéo Trung Quốc vào cuộc chiến; điều xoay hướng chú ý cũng như nguồn lợi về dự án xã hội vĩ đại của ông ta. Nhưng không tuyên bố chiến tranh có một điều bất lợi lớn: như thế có nghĩa là nhân dân Mỹ không tham gia vào cuộc chiến tranh này; và trong trường hợp như vậy điều động quân đội là khó khăn và nguy hiểm, mà việc điều quân thì ngày càng xuất hiện rõ ràng. Năm 1964, có thể đã tuyên bố chiến tranh. Sau 1965 khi những kháng nghị bắt đầu, điều đó không còn nữa, Johnson và người kế vị đã điều hành cuộc chiến tranh hoàn toàn dựa trên quyền lực của người chỉ huy tối cao các lực lượng quân sự Hoa Kỳ.
Vậy nước Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh không tuyên bố. Ngoài ra, trái với trường hợp chiến tranh Triều Tiên, Mỹ tiến hành chiến tranh không được sự ủy nhiệm của Liên hiệp quốc. Cảm thấy cô độc, và muốn chứng tỏ họ không phải chỉ chiến đấu để bảo vệ lợi ích riêng của họ. Hoa Kỳ đưa ra MFI (thêm cờ) để lôi kéo các chính phủ khác tham gia vào việc giữ gìn độc lập cho miền Nam Việt Nam. Lúc ban đầu, lực lượng liên minh có 7.500 binh sĩ nhưng con số này tăng nhanh.
Từ 1965 đến 1970 Hoa Kỳ đã đổ vào Nam Triều Tiên gần 1 tỷ đôla để nuôi 22 tiểu đoàn lính Mỹ đưa vào đó; đội quân Nam Triều Tiên cuối cùng lên đến 50.000 người. Lo sợ Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng xuống phía Nam ủng hộ Indonesia trong cuộc chiến tranh với Malaysia, năm 1966 Australia gửi sang một tiểu đoàn bộ binh và sau đó thêm hai tiểu đoàn kèm theo pháo binh và các đơn vị hậu cần công binh, thêm một phân đội không quân; đến lúc cao điểm, quân số của Australia lên đến hơn 8.000 người. Về phần mình Nouvelle Zélande gửi đến một đơn vị pháo binh và hai đại đội bộ binh (tất cả hơn 1.000 người) và Philippin cung cấp một “toán hoạt động xã hội” bao gồm những lực lượng an ninh được trang bị vũ khí. Các nước khác tham gia vào lĩnh vực xã hội. Tất cả 34 nước cung cấp viện trợ và vật chất (lương thực thực phẩm, thuốc men, vật chất huấn luyện) cùng với chuyên gia huấn luyện viên. Khoảng 600 người đến kết hợp với 500 huấn luyện viên và bác sĩ Pháp ở lại tại chỗ để giúp đỡ miền Nam Việt Nam sau khi quân Pháp ra đi. Nhiều nước khác hứa gửi viện trợ đến nhưng họ không làm gì hết.
Còn các lực lượng lớn mạnh của châu Âu từ chối bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tranh ở châu Á.
Tháng Giêng năm 1965, sư đoàn 9 của Quân giải phóng miền Nam (FAPL tên của Việt Cộng) gồm 3 trung đoàn được trung đoàn 101 của Quân đội nhân dân Việt Nam yểm hộ tiêu diệt 2 trung đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Bình Giã. Đây là lần đầu tiên VC tấn công trực tiếp một tổ chức quân sự quan trọng của miền Nam Việt Nam. Một tháng sau, ngày 7 tháng 2 năm 1965, sau cuộc tấn công lớn của Việt Cộng vào căn cứ không quân Mỹ ở Pleiku, tổng thống Johnson hạ lệnh tấn công bằng máy bay lấy tên là Flaming Dart. Vài ngày sau, Johnson được tin 4 sư đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam của ông Giáp đã vượt qua đường giới tuyến vào miền Nam. Ngày 13, ông cho phép thực hiện “một chương trình các cuộc tấn công hạn chế của không quân vào những mục tiêu đã được chọn ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Mục đích của kế hoạch này là chặn đứng sự xâm nhập của quân đội ông Giáp vào miền Nam Việt Nam.
Các người chỉ huy không lực Hoa Kỳ được tăng cường tổ chức tấn công, nhưng các cố vấn dân sự của tổng thống tin rằng một hành động như vậy có thể bị Trung Quốc và Liên Xô coi như một sự đe dọa trực tiếp và tác động đến một phần của một trong hai nước ấy hoặc cả hai, mọt sự trả đũa sẽ dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba. Johnson cũng muốn tránh dư luận thế giới đánh giá Hoa Kỳ như một “con voi mạnh” đè bẹp một con châu chấu nhỏ. Vì những lý do ấy, ông đồng ý với kế hoạch Rolling Thunder ở mức độ chỉ gây áp lực thường xuyên khiến cho Cụ Hồ Chí Minh thôi không còn ý định lật đổ chế độ miền Nam. Lại một hy vọng nữa không thể thực hiện được.
Còn về chiến tranh thế giới có thể xảy ra, nếu Liên Xô hoặc Trung Quốc muốn kiếm cớ để tấn công Hoa Kỳ, họ dễ dàng tìm ra hoặc tạo ra một lý do. Thực tế, những người Liên Xô rất thích thú nhìn thấy người Mỹ tiêu hao lực lượng trong cuộc phiêu lưu xa xôi này; còn chính họ đang lo tăng cường lực lượng hải quân và kho tên lửa chiến lược; về phương diện quân sự do không thể tấn công Hoa Kỳ. Về phần mình, người Trung Quốc cũng không thiên về trực tiếp tham dự, vì Mao Trạch Đông đã sẵn sàng phát động “cách mạng văn hóa”. Vả lại Mao sợ rằng ông ta bị coi là một liên minh chặt chẽ với Nga đối với phương Tây và sẵn sàng làm xấu đi mối quan hệ Trung Quốc-Liên Xô vì những cải cách dị giáo của chủ nghĩa cộng sản. Nhìn về quá khứ, tất nhiên những sự kiện ở Việt Nam không phải là mối quan tâm hàng đầu của họ.
Trong giai đoạn của kế hoạch Rolling Thunder, một số điều hạn chế đã được thực hiện. Đầu tiên, chỉ những mục tiêu ở phía Nam Vĩ tuyến 19 (đúng phía Bắc Vinh) là được phép đánh phá, theo quyết định của bộ tư lệnh liên quân chủng, hoặc theo quyết định của các thành viên phủ tổng thống hoặc bản thân tổng thống, (thực tế, ông quyết định phần lớn các mục tiêu thông thường một tuần một lần, ngày thứ năm, trong bữa ăn sáng ở Nhà Trắng, nơi mà tiếng bát đũa và tiếng thì thầm thỉnh thoảng điểm thêm tiếng máy xay tiêu chạy pin). Thứ hai nữa, ngay cả khi các mục tiêu đã được quyết định cũng không được đánh phá trước khi tư lệnh liên quân chủng phát tín hiệu xanh. Cái thủ tục dài dòng và cần mẫn này bắt buộc các nhà chức trách đang bận rộn nhất của đất nước cũng phải giành thời gian quí báu vào những chi tiết phi lý, thiệt cho những vấn đề quan trọng khác.
Ngày 2 tháng 3, những phi vụ đầu tiên bắt đầu. Ngày 8, các thủy thủ đổ bộ lên bãi biển vùng Đà Nẵng. Ban Đầu, người ta cho rằng đây là một lực lượng tượng trưng để bảo vệ căn cứ không quân thiết lập ở đó, nhưng kế hoạch hành quân nhanh chóng có tầm cỡ một cuộc xâm lược thực sự. Sau đó Lầu Năm Góc thành lập 4 khu vực của một lữ đoàn do 82.000 lính Mỹ phòng ngự lọt vào giữa. Ngoài thành phố Đà Nẵng là thành phố thứ hai, nhiều căn cứ bộ binh quan trọng được xây dựng ở Chu Lai Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Biên Hòa và Vũng Tàu. Lực lượng hải quân Mỹ cũng thiết lập một căn cứ hải quân lớn trên cát xanh của vịnh Cam Ranh. Các kế hoạch tăng cường can thiệp của Mỹ được kèm theo sự bảo vệ của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert Mc Namara trước tổng thống Johnson. Theo đó 600 nghìn người sẽ cần thiết để bảo vệ miền Nam Việt Nam chống miền Bắc, với dịp may thắng lợi không quá 50%.
Vì tính chất riêng biệt của cuộc chiến tranh Việt Nam, quyết định gọi một số lượng lớn lính vào lực lượng quân sự đặc biệt: “mũ nồi xanh”. Vào miền Nam, số lớn những con người này được đưa vào rừng núi để thiết lập những rào chắn trên đường biên giới với Lào và Campuchia ngăn chặn sự xâm nhập của đối phương. Vì mục đích này, họ phải chấp nhận chung sống với người dân tọc miền núi-mà phần lớn họ chống lại người dân ở đồng bằng nói chung và Việt Cộng nói riêng và sống với một thiểu số quan trọng người Campuchia ở phía Tây Nam Việt Nam huấn luyện họ. (Cũng như lính OSS, lính mũ nồi xanh được thành lập theo mẫu lực lượng đặc biệt trong chiến tranh thế giới thứ hai như lính Marandens de Merrill của Chinditr và Special Air Service Anh).
Ngày 17 tháng 4 năm 1965, tướng Maxwell D.Taylor, cựu tham mưu trưởng lực lượng quân sự mặt đất, sau đó chỉ huy trưởng Joint Chiefs of Staff, trở thành cố vấn của tổng thống Kennedy về những vấn đề an ninh và cuối cùng được cử giữ chức đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã gửi cho Bộ quốc gia ở Washington một yêu cầu: “Khẩn cấp làm sáng rõ mục đích và mục tiêu” của chúng tôi ở Việt Nam. Ông ta không được đáp ứng, nhưng từ ngày đó, tổng thống đã quyết định những mục tiêu ở phía Bắc vĩ tuyến 19 đều có thể đánh phá từ một vùng bán kính chung quanh Hà Nội 30.000 hải lý và 10.000 hải lý xung quanh Hải Phòng, gọi là “vùng cấm”. Và cả những cảng Bắc Việt Nam cũng không được thả mìn.
Quyết định thành lập những vùng này thật ngạc nhiên: người Việt Nam có thể tập trung cao mật độ quân sự về người cũng như vật chất kỹ thuật ở đó và rõ ràng quyết định không thả mìn ở càng cho phép đưa 67% viện trợ vật chất từ các nước xã hội chủ nghĩa vào miền Nam Việt Nam theo đường thủy.
Tháng 3 năm 1965, ông Giáp bắt đầu đặt các trận địa tên lửa đất đối không ở miền Bắc. Phản ứng trước hành động này và trước sự tăng cường lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam, đội ngũ lính Mỹ được tăng thêm; tháng 9 năm 1965, hơn 100.000 lính Mỹ đã có mặt ở miền Nam Việt Nam. Cũng tháng ấy, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng nước ông không can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. Lưỡi gươm Damochis không còn nữa. Tổng thống Johnson cảm thấy rảnh tay để theo đuổi một cuộc chiến đã ám ảnh ông lâu nay mà tiền của chi tiêu và phạm vi mở rộng thì quốc hội và nhân dân Mỹ vẫn chưa hay biết gì-những chi tiêu quân sự đã đến mức ông thấy cần phải giảm bớt chương trình xã hội của ông Johnson đang đứng trước trường hợp phải chọn giữa hai con đường nguy hiểm: từ khi trúng cử tổng thống, ông mơ ước trở thành người cải cách xã hội vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông ham muốn bảo đảm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người nghèo, người da đen và những người thất học khác. Và bây giờ phần lớn thời gian của ông và nguồn lực của đất nước đang giành cho vấn đề không lời giải đáp: một cuộc chiến tranh không thể kết thúc thắng lợi dù đã tốn nhiều tiền của và công sức con người.
Cuối năm 1965, khoảng 64.000 binh sĩ quân đội nhân dân của ông Giáp đã xâm nhập vào miền Nam.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 3:23 pm
Chương 14: Cuộc chiến tranh của Hà Nội
Người phương Tây không thể hiểu được sức mạnh biểu thị ý chí kháng chiến và tiếp tục kháng chiến của nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân vượt quá sức tưởng tượng. Ngay cả bản thân chúng tôi cũng phải kinh ngạc.
Phạm Văn Đồng
Trong năm 1964, hơn một triệu dân công đã được điều động để làm việc trên các con đường, xây dựng các con đường khác hoặc trong các bệnh viện. Từ giữa năm, Liên Xô đã cung cấp đầy đủ phương tiện vật chất kỹ thuật để cho ông Giáp thành lập một sư đoàn mới. Ông không bao giờ phải giải quyết vấn đề quân số, và quân đội nhân dân không ngừng được tăng cường.
Tháng 4 năm 1965, Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn đến Matxcơva để ký kết một thoả ước mới, trong đó Matxcơva phải tăng thêm viện trợ quân sự. (Vài tháng sau, đến tháng 12 Liên Xô đã quyết định tăng thêm viện trợ). Trong thời gian này, Cụ Hồ Chí Minh động viên lực lượng thanh niên của đất nước.
Tháng 4, Cụ Hồ ra sắc lệnh động viên thanh niên phục vụ chiến tranh vào những nhiệm vụ dân sự cũng như quân sự. Trong năm 1965, gần 30.000 tân binh trong đó 70% từ 18 đến 25 tuổi, đã nhập ngũ (riêng tháng 5 đã có 160.000). Đồng thời, nhiều chiến sĩ đã xuất ngũ được gọi tái ngũ trở thành những cựu binh có kinh nghiệm. Các sư đoàn 308, 304, 320 vfa 325 đều được quá trình thành lập trở lại. Cuối năm, hai triệu dân công khác được điều động phục vụ. Sinh viên các trường đại học ở Hà Nội được gửi sang Liên Xô để hoàn thành chương trình học tập và nâng cao trình độ khoa học đất nước. Với ba trung đoàn không còn là một nửa lực lượng không quân không phải chỉ là 2% quân số như trước mà đã đạt tới 16%. Một bộ giao thông vận tải mới được thành lập để bảo đảm việc vận chuyển không ngừng vật chất kỹ thuật vào miền Nam, phần lớn được chuyển theo đường bộ cả đường biển và đường sông.
Đã có thời gian, cán bộ và chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam được đi huấn luyện ở Liên Xô. Họ thường hành quân theo đường sắt, quá cảnh qua Trung Quốc, và học tập lái máy bay, đánh máy bay địch trên không và xuất phát từ dưới mặt đất. Dọc đường hành quân, họ thường gặp cố vấn Liên Xô sang Việt Nam.
Việc chuyên trở vũ khí và đạn dược trở nên không chắc chắn từ tháng 8 năm 1964 khi vì khác biệt ý tưởng, người Trung Quốc cấm người Liên Xô quá cảnh qua Trung Quốc bằng đường bộ sang Việt Nam. Vladivstok đến Hải Phòng, cũng đủ tăng cường cho Việt Nam không lo Trung Quốc cản trở.
Đã nhiều năm, Liên Xô chơi trò chiến tranh lạnh và thách thức Hoa Kỳ qua các nước trung gian. Họ giúp Việt Nam để nguồn lực Mỹ bị tiêu hao dần dần ở châu Á, và nhất là để đánh lạc hướng sự chú ý của châu Âu nơi đang diễn ra những kế hoạch tác chiến chính. Với ý định giành chiến thắng ở Việt Nam, quân Mỹ rút khỏi lực lượng tác chiến và chỉ huy liên quân NATO của châu Âu. Người Trung Quốc cùng có lợi khi người Mỹ bận việc khai thác trong khi học hiện đại hoá công nghiệp và phát triển kho vũ khí hạt nhân. Phần lớn người Việt Nam không quan tâm đến chuyện của các nước anh em. Chỉ có những kẻ vô sĩ mới để cho Liên Xô chiến đấu đến giọt máu cuối cùng ở đất nước của người Việt Nam.
Ngày 27 tháng 12 năm 1965 trong một cuộc hội nghị Đảng ở Hà Nội Cụ Hồ Chí Minh chuyển qua tình hình phát triển của chiến tranh và công bố một chiến lược mới dựa trên những điều tối thiểu sau đây:
1. Chính phủ và quân đôi phải đảm bảo bảo vệ miền Bắc đồng thời ủng hộ những kế hoạch quân sự ở miền Nam.
2. Ở miền Nam, chiến tranh du kích phải được ưu tiên hơn chiến tranh thông thường của các đơn vị trọng yếu.
3. Nhân vật lực đạt được phải giành cho việc giáo dục chính trị rộng rãi trong nhân dân miền Bắc cũng như miền Nam để đạt được thắng lợi cuối cùng.
Cụ Hồ Chí Minh đã tuyên bố với những đảng viên trung thành: “Quân Mỹ có thể tăng thêm, tăng thêm nữa và tăng thêm mãi số binh lính Mỹ, có thể 300.000, 400.000, 500.000 lính Mỹ vào miền Nam, nhưng chúng ta sẽ thắng, đó là điều chắc chắn. Chúng ta, Đảng và toàn thể nhân dân miền Bắc và miền Nam phải đấu tranh cho độc lập, cho tự do và thống nhất của đất nước.
Một năm sau, cuối 1966, 430.000 lính Mỹ đã chiến đấu ở miền Nam Việt Nam. Tư lệnh trưởng của họ có thể tuyên bố họ có thể giết chiến sĩ Việt Nam nhanh như ông Giáp tuyển mộ chiến sĩ, nhưng vấn đề không phải ở đó: miền Bắc đã quyết định và có thể giữ quân số của các đơn vị trong thời gian bao nhiêu lâu cũng được, trong khi Hoa Kỳ không thể can dự vào cuộc chiến tranh kéo dài vô hạn.
Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Cụ Hồ Chí Minh nhắc lại một lần nữa, yếu tố thời gian không quan trọng. Cụ giải thích tiếp trong một cuộc hội nghị khác của Đảng: “Chiến tranh có thể kéo dài năm hay mười năm, Hà Nội và Hải Phòng có thể bị đánh phá, nhưng nhân dân không bao giờ sợ Mỹ, không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, chúng ta sẽ xây dựng một đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Muốn động viên nhân dân cố gắng gấp đôi, các nhà chức trách khuyến khích các tỉnh và các thành phố thi đua gửi nhiều quân ra mặt trận.
Bị dày vò vì oán hận và mất hết lòng tin, bị tàn phá vì bom đạn, miền Nam Việt Nam đầy rẫy những vụ lộn xộn về vật chất và tinh thần rối rắm vì mánh khoé và hận thù. Phong trào cách mạng trong lòng miền Nam được miền Bắc trang bị vũ khí và cung cấp lương thực đang dẫn miền Nam đến tình thế khốn quẫn, đồng thời hoạt động hiệp đồng với lực lượng từ miền Bắc vào theo kế hoạch do ông Giáp và Bộ Tổng tham mưu vạch ra trong hầm ngầm trên đường Hùng Vương, Hà Nội.
Người Mỹ ở miền Nam phải đối mặt với một vấn đề chính là cái cơ sở hạ tầng cộng sản ẩn giấu cẩn thận, thường không nhìn thấy, tổ chức khéo léo và hiệu quả, hoàn toàn sáp nhập vào cộng đồng và xâm nhập vào đến cấp cao nhất của chính quyền hợp pháp. Phần lớn các sĩ quan Mỹ và đồng minh đến chiến đấu ở Việt Nam không nhìn thấy và nghe thấy những điều người ta muốn cho họ biết, họ nghe: ở các thành phố, một sự ồn ào náo nhiệt bình thường, xe cộ ầm ĩ, hàng nghìn xe đạp lượn giữa ô tô, những người nông dân chân trần làm việc vất vả; những đứa trẻ con mắt to ngây ngô, xoong chảo trên ngọn lửa phân bò bốc khói mù mịt, những con trâu và túp lều tre. Nhưng những thứ họ nhìn thấy chỉ là cái bóng mà không phải thực thể.
Nghiên cứu những tập sách nhỏ viết về những bài học của chiến tranh Đông Dương, những cán bộ miền Nam khoảng 320.000 đàn ông và đàn bà độ 2% dân số-được học tập rằng việc giành lấy đất nước phải thực hiện dần dần theo những điều sau đây:
- Tuyên truyền và tuyên truyền nữa: tuyển lựa, hành động.
- Thành lập chính quyền cách mạng khắp nơi nào có khả năng.
- Tổ chức những trận đánh nhỏ tại chỗ trong khắp đất nước.
- Mở rộng tác chiến đến vùng đô thị để:
Tạo điều kiện thuận lợi cho tổng khởi nghĩa quét sạch quân ngụy.
Vùng đất nơi họ làm việc là một vùng dân cư khoảng 16 triệu người gồm nhiều thiểu số quan trọng: một triệu người Trung Quốc phần lớn ở Chợ Lớn; ít năng động, thường họ không biết hoặc từ chối mọi hoạt động chính trị.
(Với hơn hai triệu dân dồn vào khu vực vài kilômét vuông, Sài Gòn là nơi mật độ dân cư đông đúc nhất hành tinh. Chợ Lớn dần Singapo thành phố có nhiều người Trung Quốc sinh sống ngoài đất nước Trung Quốc nhất, tất cả các nhãn hiệu và quảng cáo đều dùng 2 thứ tiếng). Ở phía Tây Bắc của đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 350.000 người gốc Campuchia sinh sống. Cuối cùng ở trên các cao nguyên có hơn một nửa triệu người dân tộc miền núi sinh sống.
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (FNL) tổ chức bí mật năm 1960 về lý thuyết là một tập hợp những tổ chức chống Diệm-tổ chức thanh niên, công đoàn của công nhân, hội nông dân, tổ chức tôn giáo chống chế độ như Cao Đài, Hòa Hảo-nhưng thực quyền ở trong tay Đảng nhân dân cách mạng (PRP) do ông Nguyễn Văn Linh lãnh đạo. Hơn một năm sau ngày 1 tháng giêng năm 1962, Hà Nội công bố sự thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và lực lượng quân sự. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam-một ủy ban kiểm soát do Lê Đức Thọ lãnh đạo chịu trách nhiệm giúp đỡ và giữ vững liên lạc với Bộ chính trị ở miền Nam, Trần Nam Trung giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Lê Can Chan, Tổng tham mưu trưởng.
Để dễ dàng kiểm soát đất nước, miền Nam được chia ra 5 khu liên tỉnh và khu Sài Gòn Chợ Lớn dần dần Đảng nhân dân cách mạng tập hợp các lực lượng chống đối chính phủ không cộng sản và có mặt trong tất cả các lĩnh vực sinh hoạt xã hội.
Tổ chức này đặt cơ sở trên vô số chi bộ gồm trên ba người đàn ông hoặc đàn bà, hoặc cả đàn ông lẫn đàn bà hoàn toàn tự nguyện tham gia chiến đấu: thể lực, trí lực, tinh thần và tâm lý. Các thành viên phụ trách rất nhiều nhiệm vụ, do đó có khi quên cả kết quả cảm giác thiếu an ninh và lo sợ làm cho họ phải cố gắng gấp đôi. Trái lại các bí thư được lựa chọn cẩn thận (trong số cán bộ trung thành) không phải đại diện cho các thành viên trước cấp trên mà ngược lại đại diện cho cấp trên trước các thành viên. (Thái độ của họ luôn tỏ ra gia trưởng trong khi Big Bigther ẩn trong bóng tối sẵn sàng dùng gậy) không phải chỉ có các chi bộ trong các làng xã, mà trong tất cả các cơ quan. Văn phòng, nhà máy, các cuộc họp. Các thành viên thường rất trẻ (độ 17 tuổi) giúp đỡ nhau thường xuyên khi đau ốm hoặc giữ vững tinh thần. Dần dần các thành viên được nhận vũ khí vận chuyển theo đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng đưa vào.
Các chi bộ hợp lại thành ủy ban nhân dân giải phóng đại diện cho các tổ chức xã hội, các tộc người, tôn giáo và kinh tế, ở các cấp làng xã, huyện, tỉnh, khu và miền (toàn bộ miền Nam Việt Nam). Trong khung tổ chức các ủy ban có ba loại tổ chức quần chúng: nhân dân, dựa trên lợi ích riêng (hoạt động theo sở thích như âm nhạc, thơ ca, chọi gà đấu tranh...) và dân quân du kích. Tất cả đều có các chiến sĩ trung thành, sẵn sàng chiến đấu và thực hiện chiến tranh tâm lý.
Những tổ chức gọi là quần chúng bao gồm một phần lớn dân cư có đại biểu ở tất cả các cấp từ làng đến miền. Các tổ chức thanh niên là đối tượng được đặc biệt chú ý được học tập dần dần và được lãnh đạo chặt chẽ, chuyên quyền. Ba loại tổ chức quan trọng khác là công nhân, phụ nữ, nông dân.
Khi một vùng được giải phóng, tất cả các tổ chức quần chúng đều đặt dưới sự lãnh đạo của các ủy ban nhân dân giải phóng gồm có vài chục người không cộng sản do dân bầu ra, nhưng luôn được cán bộ Đảng kiểm tra chặt chẽ. Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ giới hạn ở các vấn đề chính trị mà mở rộng trong toàn bộ cuộc sống hàng ngày trong lĩnh vực khác: ví dụ như thông tin văn hóa tỉnh Vĩnh Long bố trí một nhân viên in ấn, một nhân viên chụp ảnh và 3 biên tập viên (trong đó có một nhà thơ). Ngoài ra vài trợ lý đạo diễn, 11 diễn viên và 7 diễn viên múa, chưa tính hai dàn nhạc và 6 ca sĩ, chịu trách nhiệm thực hiện các chương trình biểu diễn phục vụ các chiến sĩ Việt Cộng đóng trong rừng. Ở tỉnh Bình Định, Đảng bảo đảm tài chính bằng các hoạt động thương mại; chăn nuôi, đánh cá, thợ rèn... Vừa đảm bảo cho lợi ích cá nhân vừa đảm bảo một số phần trăm lãi suất hoặc mua bán sản phẩm cho tài chính của tập thể. Muốn bảo đảm giúp đỡ cụ thể, Đảng phải bố trí ở tỉnh Gia Lai xe cộ, thợ máy, súc vật thồ, và cả một xưởng chế biến mì sợi.
Xin kể một ví dụ thành công của cuộc xâm nhập và tổ chức: năm 1963 ở tỉnh Kiến Phong (?) trong một làng chưa đầy 2000 dân có đến 543 đảng viên trong đó có 56 cán bộ phong trào thanh niên; tất cả hơn một nửa số dân thuộc sự lãnh đạo của một chi bộ. Trừ các cụ già và con trẻ còn bú, tất cả đều tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động cách mạng. Gần như trong toàn miền Nam Việt Nam, nhân dân mang tin tức, giúp đỡ chế tạo và tiêu thụ rượu Cocktail Molotor và "những tấm ván đinh" (bàn chông), xây dựng hầm trú ẩn, kho cất giấu vũ khí, đào hệ thống địa đạo. Ông Giáp kể: "Một làng nhỏ nhất, một xã nhỏ nhất là một pháo đài; mỗi đường phố là một mặt trận. Hàng triệu người yêu nước của chúng tôi là bấy nhiêu triệu chiến sĩ dũng cảm".
Để kiểm tra và phát động nhân dân, Đảng cách mạng của nhân dân đưa ra những giấy chứng minh thư và giấy thông hành; đồng thời bố trí mạng lưới thông tin viên với một hệ thống thông tin liên lạc có hiệu quả. Các hoạt động và tổ chức khác nhau cho phép Đảng nắm bắt được tin tức của bất kỳ sự kiện nhỏ nào. Theo sơ đồ tổ chức cổ điển này, mỗi khi một người đàn ông hoặc đàn bà được giao nhiệm vụ gì đó phục vụ cho Đảng, họ rất khó từ chối. Vì chịu áp lực của tập thể, của những tình cảm chống chính quyền miền Nam và chống Mỹ của đại đa số nhân dân, chỉ có khi họ ở ngoài vòng pháp luật mới có khả năng né tránh những áp lực ấy.
Đứng đầu là Trung ương cục miền Nam (COSVN) có thời kỳ đặt gần biên giới Campuchia mà người ta gọi là tam giác sắt. Lúc khởi đầu các ủy viên gồm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Ung Văn Khiêm. Quân đội có 1 đại biểu tướng Nguyễn Đôn.
Trong toàn bộ đất nước (miền Nam), tổ chức quân sự phụ thuộc chặt chẽ vào tổ chức dân sự này. Ban đầu ông Nguyễn Văn Linh đứng đầu. Đến năm 1964, vì chiến tranh mở rộng ông Nguyễn Chí Thanh thay thế và Nguyễn Văn Linh là nhân vật số 2. Dù sao, những nhà quân sự cũng không quyết định, họ chấp hành mệnh lệnh. Việc lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là tuyệt đối và cơ bản. Một quyết định về quân sự được xác định qua các uỷ viên của Đảng, khi có bất đồng, Đảng là ý kiến quyết định cuối cùng khi cần thiết có thể xoay chuyển cả con đường truyền thống của quân đội.
Bộ Chính trị và văn phòng Quân ủy Trung ương (nói cách khác, ông Giáp) ra chỉ thị cho Trung ương cục miền Nam để chuyển đến các ủy ban liên tỉnh, các uỷ ban này chuyển đến các tỉnh, tỉnh chuyển đến huyện. Cuối cùng được chuyển đến các chi bộ xã, khu phố và những người có trách nhiệm hoạt động du kích. Ở tất cả các cấp, trong tất cả các vùng miền, đều có những nghị quyết về những vấn đề quân sự, vấn đề tuyên truyền và tuyển mộ, vấn đề an ninh và những vấn đề kinh tế cũng như công tác địa phương.
Ông Giáp tóm tắt sự tiến triển của chiến tranh: vào năm 1960 đến năm 1965, chiến tranh ở miền Nam đã chuyển từ đấu tranh chính trị qua đấu tranh vũ trang, rồi từ khởi nghĩa vũ trang đến chiến tranh giải phóng-và cuối cùng đến kết hợp giữa khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh giải phóng, từ những hoạt động du kích đến những kế hoạch tác chiến chính quy, những trận đánh có chuẩn bị, rồi đến hỗn hợp chiến tranh, các đơn vị tự vệ chia thành 2 loại: lực lượng chủ lực và lực lượng địa phương đều tập trung trong quân đội giải phóng miền Nam đó là lực lượng cơ động, còn dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang của quần chúng, lực lượng tĩnh tại chỗ.
"Chiến tranh nhân dân tiếp tục phát triển với việc thành lập những lực lượng chủ lực cơ động của quân đội giải phóng. Ở Bình Giã-Đồng Xoài và Ba Gia, các trận đánh đã tập trung lực lượng quan trọng đã có thể tiêu diệt gọn những đơn vị chủ lực quân địch, chiến tranh cách mạng đã đạt đến khả năng phòng ngự mới.
Đó là cấu trúc của phong trào hoạt động cách mạng và trạng thái trí tuệ của nhân dân vào thời kỳ quân Mỹ ồ ạt vào miền Nam Việt Nam. Cấu trúc ấy không ngừng mở rộng trong khi đất nước chìm ngập trong tình trạng lộn xộn ấy, nhưng chính sự quản lý đất nước kém đã gây thêm rối rắm. Bộ máy chiến tranh Mỹ ngự trị trên tình trạng lộn xộn không tưởng tượng nổi ấy nhưng hoàn toàn cách biệt qua hệ thống hàng rào dây thép gai và thái độ thờ ơ của họ. Thỉnh thoảng hình như họ theo đuổi mục tiêu như hoạt động trong chỗ trống; họ chắc chiến thắng đã đến gần khi tính đến các lực lượng, các người tị nạn và dân cư ấp chiến lược, và khi họ tính toán giá trị của hàng tấn đạn dược, cũng như tổn tất người và của-cái giá quân sự của năm thứ nhất mà Mỹ hoàn toàn can dự lên đến 214 triệu đô la, cộng với một số tương đương để viện trợ kinh tế cho miền Nam (theo lý thuyết chỉ được sử dụng vào cải cách xã hội). Những chỉ tiêu lớn lao ấy, mỗi ngày hơn hẳn một triệu đô la không được Quốc hội bỏ phiếu tán thành. Nhưng đó mới chỉ là món tiêu nhỏ so với những chi tiêu những năm sau này.
Ở Hà Nội, việc thống nhất đất nước được chuẩn bị từ năm 1955. Trước tiên được sự giúp đỡ của nước Pháp, vấn đề được giải quyết bằng một hành động ngoại giao.
Không có gì đáng ngạc nhiên sau chấn thương của 8 năm chiến tranh và thất bại nhục nhã của quân đội, những người Pháp không quan tâm bao nhiêu đến việc thống nhất Việt Nam-lý thuyết domino không cho phép người Việt Nam tự quyết định vận mệnh của đất nước mình-Mặc dù sự thờ ơ của người Pháp và thái độ không ký hiệp định của người Mỹ, chuyện ngoại giao cũng chẳng đi đến đâu. Cái thế đôi ngã của nhân dân và tất nhiên của cả Hà Nội, tổ chức tác chiến du kích được miền Bắc ủng hộ vật chất và tinh thần, để đánh đổ chính quyền Ngô Đình Diệm và tạo nên những điều kiện cần thiết cho "đồng khởi" của lý luận cộng sản.
Từ năm 1964, kế hoạch này hoàn toàn có hiệu lực: quân Việt Cộng đánh các tiểu đoàn đồn trú (không cơ động) của quân ngụy cộng hòa miền Nam tiêu diệt một số tiểu đoàn để có thể tiếp tục đánh các tiểu đoàn khác. Dù sao, những thắng lợi này đã buộc Hoa Kỳ phải tăng cường ủng hộ miền Nam để giữ lấy một quốc gia "dân chủ”. Trong những trường hợp này, phản ứng có khả năng nhất là đưa các đơn vị mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam vào Nam tham gia chiến đấu. Quyết định đã gây tranh cãi về phương án tốt nhất để điều hành cuộc chiến tranh. Nên chăng tấn công trực diện vào quân đội Mỹ, hoặc ưu tiên cho chiến thuật du kích? Ông Giáp muốn thực hiện giải pháp thứ hai: vừa tránh được tổn thất nặng nề, vừa tránh quân Mỹ đột nhập và đóng quân ở vùng mới giải phóng. Hơn nữa, như thế sẽ có thời gian huấn luyện những lực lượng quan trọng để đưa vào miền Nam. Điều đó có vẻ hợp lý, nhưng tướng Nguyễn Chí Thanh người đã vượt giới tuyến năm 1964 để nhận nhiệm vụ tổng chỉ huy ở miền Nam lại muốn quân giải phóng miền Nam được sự trợ lực của những đơn vị chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam phải tổ chức tấn công nếu không sẽ mất đà vươn lên.
Ông Giáp xiêu lòng và đồng ý thực hiện chiến thuật ấy trong suốt chiến dịch mùa khô 1965-1966.
Tháng 2 năm 1966, ông Thanh trở ra Hà Nội dự hội nghị và trình bày bản báo cáo của ông. Trong cuộc hội nghị này, Trung ương Đảng đồng ý một giải pháp lãnh đạo như sau:
Tăng cường hoạt động của quân đội nhân dân và chiến tranh du kích ở miền Nam.
Tấn công vào hệ thống chính quyền và đường giao thông của miền Nam.
Tăng cường các lực lượng để buộc nhân dân miền Nam tham gia vào cuộc chiến tranh.
Cuối cùng (thái độ chính trị) tăng cường đoàn kết giữa Đảng và quân đội.
Ông Giáp viết một bài phân tích về tình thế trong đó điều quan trọng là các đơn vị chủ lực về ý định-Theo ông quân giải phóng miền Nam phải ưu tiên cho việc tiêu hao lực lượng địch, tấn công các căn cứ và làm suy yếu quân cộng hòa miền Nam. Cách tốt nhất tăng thêm số lần và hiệu quả của những hoạt động du kích trước khi tấn công trực diện với lực lượng mạnh quân Mỹ liên minh với các quân đội FAPL và quân cộng hòa miền Nam, điều đó sẽ gây nên những tổn thất nặng nề cho cả hai phía-trong một bài viết tháng 10 năm 1966, ông nêu lên: "Việc sử dụng ở quy mô lớn tác chiến du kích buộc địch phải phân tán lực lượng”. Sự thật, những trận tấn công của du kích đã ngăn chặn Mỹ thiết lập những căn cứ mới, buộc lực lượng Mỹ phải giành nhiều thời gian cho nhiệm vụ an ninh hơn các hoạt động khác, cản trở chương trình bình định nông thôn, do đó phải bám đuổi theo họ. Ông Giáp đã có lý: tướng Westmoreland đã nói với tác giả: "quân Việt Cộng về mặt nào đó đã đặt ra một bài toán khó khăn hơn cả quân chủ lực miền Bắc, bởi vì khi đánh vào chỗ ở của quân Mỹ và quân chính phủ, họ sử dụng lực lượng ngày càng quan trọng buộc chúng tôi phải lâm vào thế phòng ngự”.
Dưới con mắt ông Giáp, người Mỹ sử dụng có hệ thống một lực lượng mạnh để tác chiến là tự hủy hoại mình vì như vậy sẽ có nhiều thương vong dân sự và bị chỉ trích nhiều ở Hoa Kỳ cũng như ở nước ngoài khiến họ dù có yêu mến miền Nam cũng không muốn nói đến miền Nam Việt Nam. Hơn nữa, những hoạt động tác chiến quan trọng của họ không có độ mềm dẻo. Rất nên tấn công vào những trung tâm hậu cần và những căn cứ không quân, đó là những điểm yếu trong hệ thống bố trí của Mỹ (trong một cuộc trao đổi riêng, ông nói thêm Hoa Kỳ càng can thiệp vào miền Nam, càng làm cho chính phủ và quân đội cộng hòa miền Nam thêm mất phương hướng). Tầm nhìn của ông bao quát: những trận tấn công quy mô lớn đều nhằm vào những căn cứ lớn của quân Mỹ. Các căn cứ không quân Đà Nẵng và Tân Sơn Nhất bị pháo cối tấn công; nhiều trận gây ấn tượng mạnh vào căn cứ khác đã làm Mỹ tiêu phí hàng triệu đô la.
Ông Thanh chết ở tuổi 53 vì đau tim ở một bệnh viện Hà Nội, sau khi được chuyển theo đường mòn từ Nam ra Bắc. (Đã lâu người ta tưởng rằng ông Thanh chết ở miền Nam, vì bị máy bay Mỹ oanh tạc, nhưng có hai vị tướng có mặt ở Hà Nội lúc bấy giờ đã kể cho tác giả những sự thật về cái chết của ông Thanh).
Ông Phạm Hùng thay thế ông Thanh làm Tư lệnh chính trị các lực lượng võ trang ở miền Nam Việt Nam, tướng Trần Văn Trà là Phó tư lệnh. Họ dùng vô tuyến điện để giữ liên lạc với Hà Nội, còn Nguyễn Thị Định lãnh đạo các hoạt động tác chiến tại chỗ. Bà Định sinh năm 1920 ở tỉnh Bến Tre. Bố bà là Phan Chu Trinh người đã tổ chức các cuộc biểu tình chống Pháp trong những năm trước chiến tranh.
Tôi ghi ra đây vài dòng tóm tắt tiểu sử bà Nguyễn Thị Định: vào hàng ngũ cách mạng năm 1936, đưa tin tức giữa các khu, phục vụ canh gác cho các cuộc hội nghị. Cùng năm ấy, cưới một người chiến sĩ kháng chiến. Năm 1936, họ có một con trai. Năm 1940 bị bắt giam ở một nhà tù gần biên giới Campuchia "một địa điểm tồi tệ, nước độc, điều kiện sinh hoạt kinh khủng, tra tấn". Được tự do năm 1943, bà vào Việt Minh. Tham gia khởi nghĩa vũ trang ở tỉnh Kiến Hòa cho đến năm 1954 và ở lại đó trong thời gian đất nước bị chia cắt. Khi tổng thống Diệm để đất nước miền Nam phụ thuộc Hoa Kỳ, ông đã tiến hành một "năm đẫm máu” những ai có liên hệ với cách mạng đều bị bắt, giết, hoặc bị cảnh sát Nha tra tấn. Tham gia cuộc khởi nghĩa Bến Tre và những cuộc nổi dậy tiếp theo trong các tỉnh vùng đồng bằng, sự kiện mà Diệm gọi là "chiến tranh không tuyên bố". Bỏ quê nhà ra đi, bà đã qua nhiều năm ở rừng, ngày này qua ngày khác đi không nghỉ với một lon gạo và vài hớp nước mỗi ngày, ngủ võng hoặc ngủ ở nhà cơ sở. Năm 1961, bà được cử giữ chức tư lệnh quân khu các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, rồi đến năm 1965 phó tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam, với cấp quân hàm thiếu tướng.
Cho đến lúc bấy giờ chưa có một vị tướng nữ nào ở miền Bắc Việt Nam, trừ bà Nguyễn Thị Định là một phụ nữ.
Thời kỳ đầu ở chiến khu, bà lãnh đạo các đơn vị tóc dài, các đơn vị phụ nữ tóc dài tham gia đấu tranh tích cực, nón che mặt, giấu vũ khí dưới váy hoặc trong thúng gánh hai đầu đòn gánh. Bà rất tự hào ở Bến Tre có 6 phụ nữ được phong tặng anh hùng. Bà nói "đội quân tóc dài" không bao giờ thua. Chúng tôi luôn luôn thắng lợi-Về phụ nữ chúng tôi cũng bình đẳng với nam giới, người Mỹ rất sợ phụ nữ chúng tôi, vì họ gọi là "những con ong”. Họ sợ bom của chúng tôi, mìn của chúng tôi, những bàn chông của chúng tôi-Họ sợ cả tên của chứng tôi! Đừng quên rằng chúng tôi là những nữ trinh sát giỏi".
Sau khi đất nước thống nhất, bà ra Hà Nội, được cử làm Chủ tịch Hội Phụ nữ và Phó Chủ tịch Quốc hội cho đến những năm 1990 (chồng bị bắt trước bà 6 tháng và mất ở Côn Đảo năm 1942).
Ông Giáp có người phó của ông, Văn Tiến Dũng đã tiếp tục tỏ ra là người cộng sự đắc lực, hoàn thành đúng phương pháp và có hiệu quả những nhiệm vụ được giao. Ông tin vào lòng dũng cảm và trung thành của nhà nước hơn sử dụng thường xuyên vũ khí nước ngoài; về mặt này, ông đã nhầm: không có vũ khí, nhân dân cũng bất lực. Song ông tổ chức rất có hiệu quả việc yểm hộ các chiến sĩ miền Nam. Ví dụ ông đã thành công trong việc điều động gần một nửa triệu đàn ông và đàn bà xây dựng và sửa chữa các con đường bị bom Mỹ đánh phá.
Ít lâu sau cái chết của ông Thanh, ông Giáp viết: những trận tấn công quy mô lớn có thể làm cho một số lớn quân địch không hoạt động được, đồng thời với tấn công du kích vào những kho tàng vật chất kỹ thuật lớn ở những địa điểm lựa chọn ở những địa hình khác nhau. Quân Mỹ không thể đánh đuổi quân giải phóng miền Nam khỏi các cao nguyên và rừng núi ở phía Bắc Sài Gòn buộc ông phải tăng cường lực lượng các đơn vị và tổ chức một chiến dịch dài ngày. Sự thật ông Giáp đang chỉ huy thực hiện một chính sách thách thức kết hợp với một cuộc chiến tranh tiêu hao.
Ông Giáp đã tuyên bố với công chúng một cách tự hào rằng Hoa Kỳ phải gửi sang miền Nam mười triệu quân mới chiến thắng được: nhưng họ không thể sử dụng một lực lượng quan trọng như vậy vì dư luận của nhân dân Mỹ và những sự can thiệp của Mỹ ở những nơi khác chúng ta nhất định giành được thắng lợi cuối cùng. Ông Giáp bình luận thêm một cách mỉa mai: "Năm chục nghìn lính Mỹ hoặc hơn nửa. Cũng chỉ như muối bỏ xuống biển!". Riêng ông, ông đợi phải đối mặt với khoảng một triệu quân Mỹ nhưng tính đến gánh nặng của công việc phục vụ hành chính cho quân đội Hoa Kỳ. Quân số thực sự trên trận địa không được bao nhiêu. Nói chuyện với các người chỉ huy quân sự trong một cuộc hội nghị ở Hà Nội ông không nói gì hơn là đang có nguy cơ xâm lược.
Song ngay bây giờ, nhiệm vụ chính của ông Giáp là tăng cường hơn nữa lực lượng quân đội nhân dân vừa tăng quân số vừa tăng sức chiến đấu.
Cũng như ngày xưa trong hàng ngũ Việt Minh, ông cần khắc sâu vào trí não những con người của ông những nguyên tắc chặt chẽ về tinh thần phục vụ cũng như phương pháp hoạt động. Mỗi tân binh phải học tập và tôn trọng 6 điều trong luật sau đây: không bao giờ để lộ bí mật; giữ gìn trật tự; giữ gìn vũ khí và giữ gìn nhà cửa của người khác như của chính mình.
Những điều kỷ luật vừa nêu lên cộng với 8 điều cơ bản tương đương với những điều kỷ luật thịnh hành của Việt Minh nửa thế kỷ trước đây:
Động viên nhân dân tăng gia sản xuất.
Không bao giờ được đánh đập ai.
Nói năng lễ phép; không bao giờ nổi nóng và chửi thề.
Công bằng và thật thà.
Yêu mến nhân dân và giáo dục chính trị cho nhân dân.
Trả đúng giá
Không làm tổn hại đến văn hóa.
Không tự do tiếp xúc với phụ nữ.
Còn một điều kỷ luật cuối cùng áp dụng tác chiến: không ngược đãi tù bình, điều kỷ luật thường được các chiến sĩ tôn trọng.
Vấn đề đối xử với tù binh chiến tranh và những lời chỉ trích vì thái độ ấy có những điểm chung giữa Việt Nam những năm năm mươi và sáu mươi với Nhật Bản những năm bốn mươi và năm mươi. Trong cả hai trường hợp những người có trách nhiệm không có ý định hành động sai trái: những con người tham gia chiến tranh, họ mong đợi gì? Những binh sĩ Nhật Bản khinh thường những tù binh chiến tranh, vì theo luật danh dự Bushido là mất danh dự khi bị bắt làm tù binh; người Bắc Việt Nam đối xử với tù binh như các tội phạm hình sự, vì dưới con mắt họ về phương diện đạo đức tù binh chính là những người ném bom và binh lính địch. Nhưng suất ăn chia cho tù binh trong quá trình hành quân về phía Đông Bắc sau Điện Biên Phủ tháng 6 năm 1954 cũng không kém gì suất ăn của chiến sĩ Việt Nam; nhưng vì chiến sĩ Việt Nam quen sống gian khổ thiếu thốn, còn những người châu Âu kể cả quân Bắc Phi cần nhiều thứ hơn. Những kẻ bất hạnh Hoa Kỳ bị bắt làm tù binh cuối năm sáu mươi tin rằng những người Bắc Việt Nam ngược đãi họ (có một số trường hợp tàn nhẫn, đối xử khắc nghiệt và có lúc tra tấn cũng là lẽ thường của con người nhưng đó là những vấn đề chuẩn bị tâm lý và nhận thức chủ quan. Những điều kiện vệ sinh tồi tệ và những suất ăn đói ở nhà tù Trung ương ở Hà Nội phải để cho tù binh chiến tranh: đó chỉ đơn giản là những điều kiện giam giữ thông thường của một đất nước đang thiếu thốn).
Cuộc sống đạm bạc và những hy sinh đối với đội viên của quân đội nhân dân có những sự bù trừ như tình đồng chí và những cố gắng nói chung. Ví dụ quan hệ giữa sĩ quan và người dưới quyền hình như rất bình đẳng, ngoài giờ làm việc tình bạn có thể gắn bó giữa nam hoặc nữ trong lĩnh vực phục vụ, bao giờ những người thanh niên cũng vâng theo mệnh lệnh và thực hiện đầy đủ và chính xác.
Trong toàn quốc, các sĩ quan tạo thành "người hành pháp" của các lực lượng vũ trang: các hạ sĩ quan chỉ là chiến sĩ, mọi trách nhiệm đều do sĩ quan giao phó. Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, các hạ sĩ quan hầu hết là nông dân, trình độ học vấn thấp. Không một thành viên nào của "tầng lớp trên" do Hà Nội lên án trong cải cách ruộng đất-những kẻ bóc lột dân nghèo-có thể vào làm hư hỏng đội ngũ hạ sĩ quan, nhưng ngược đời họ lại có thể trở thành sĩ quan.
Những người từ 18 tuổi đến 25 tuổi nói chung được vào huấn luyện trong các trường sĩ quan. Họ phải học tập theo chế độ "5 cấp, có sức khỏe tốt và nhất là trung thành với Đảng. Thi tốt nghiệp gồm những câu hỏi về chính trị, được chấm điểm về khả năng hoạt động, khả năng tổ chức, hiểu biết về chiến thuật quân sự và sự chuyên cần; kết quả đào tạo được chia làm 3 loại với quân hàm tương ứng loại 1 nhận quân hàm thiếu úy, loại 2 hàm chuẩn úy, loại 3 thượng sĩ không phải là sĩ quan nhưng đứng đầu trong hàng ngũ hạ sĩ quan.
Trong cuộc chiến, Vỹ Kỳ Lân là một sĩ quan chính trị của một đơn vị đóng ở Bến Hải mà tiến trình các sự kiện đi theo đường giới vĩ tuyến 17, tính chất những nhiệm vụ của anh cho phép anh tiếp xúc với tin tức hiếm khi đến được với những người lính "bình thường”, không một trận tấn công mà anh không tham gia năm 1967-Bài viết trở thành một hình ảnh đẹp về những điều kiện sinh hoạt của một đơn vị pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tôi quê ở Vĩnh Linh-Tôi đã được đào tạo ở trường quân chính quân khu 4 ở chợ Rạng của tỉnh Nghệ An. Đơn vị tôi thuộc quân khu 4 của mặt trận B5, dưới sự chỉ huy của đại tá Đàm Quang Trung. Trung đoàn 164 còn gọi là trung đoàn Bến Hải gồm 2 tiểu đoàn 100 mm và 105 mm.
Bên bờ khu phi quân sự, mọi cuộc tác chiến không trực thuộc ban chấp hành đảng bộ địa phương; mọi quyết định đều từ Bộ tổng tư lệnh tối cao ở Hà Nội; tháng 11 năm 1966, các cơ quan chính trị quân đội và bộ tư lệnh quân khu 4 được lệnh mở một mặt trận trên đường 9 nối liền Đông Hà với Lào. Một hàng rào pháo binh dày đặc phải chuẩn bị trận địa sao cho có thể thu hút hỏa lực Mỹ vào những trận đánh phía Bắc tỉnh Quảng Trị.
Tôi được đi nhận nhiệm vụ. Đứng trước một mô hình thu nhỏ của chiến trường, tôi có cảm tưởng được nghiên cứu một bài học đến từng chi tiết nhỏ. Tôi trở về đơn vị vừa lên đường đến vị trì quy định. Ngày cuối tháng 11 năm 1966, lần đầu tiên tôi ngủ đêm trong hầm trú ẩn, và tiếp theo có đến hàng ngàn đêm như thế.
Công việc chuẩn bị cho trận tấn công được tiến hành tuyệt đối bí mật. Một số công việc gần như quái gở. Mọi mệnh lệnh quan hệ đến tấn công đều truyền đạt bằng miệng. Thỉnh thoảng những thông tin viên được cải trang thành nông dân cày ruộng, hoặc chuyển phân bón hoặc thành người đốn củi đi rừng. Một đường điện thoại nối trận địa chúng tôi với mặt trận Vĩnh Thủy. Việc liên lạc qua điện thoại hết sức hạn chế còn liên lạc vô tuyến điện thì cấm hẳn.
Hàng trăm dân quân tự vệ các xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Thủy và Vĩnh Long đã đào những trận địa cho pháo chúng tôi trên sườn đồi. Họ làm việc ban đêm, đào bới sờ soạng trong đêm tối. Khi mặt trời mọc, họ ngụy trang hết công việc bằng lá cây và xóa mọi dấu vết. Trước khi nòng súng quay các vị trí, mỗi gia đình lân cận đã đem hết hai thúng rơm rạ trùm lên con đường để cho các nòng súng không để lại dấu vết gì khi súng quay qua.
Hai tiểu đoàn pháo binh chúng tôi phải đương đầu với sáu tiểu đoàn pháo binh Mỹ và hàng chục máy bay, chưa kể pháo binh của các tàu chiến đang đậu ngoài khơi nếu chúng phát hiện được chúng tôi thì hỏa lực đó nhất định sẽ gây cho chúng tôi những thiệt hại lớn lao. Tất cả các hỏa lực phòng không của khu vực (một tiểu đoàn 37, một khẩu đội 12,7mm và một đại đội bố trí 5 khẩu súng máy 14,5mm hai nòng được cử đến Vĩnh Thủy để bảo vệ vị trí pháo binh của chúng tôi).
Những trận địa giả giữ một nhiệm vụ quyết định trong kết cục trận đánh trong lúc các khẩu pháo của chúng tôi nổ súng, hàng trăm pháo sáng được bắn lên từ các trận địa giả làm cho kẻ địch không chú ý đến những trận địa thật. Rõ ràng, những trận địa giả đã phải chịu nhiều đạn hơn.
Ngày tấn công đã đến. Theo kế hoạch, hai tiểu đoàn chúng tôi phải bắn 1 nghìn 2 trăm quả đạn trong nửa giờ, nhưng mới được 10 phút, chúng tôi đã bắn đến một nghìn quả đạn; ông Lê Ngọc Hiền ra lệnh tạm ngưng nổ súng một thời gian.
Pháo địch ở Gio Linh đã đáp lại. Hỏa lực của họ có thể kiềm chế được một đường dài 10 kilômét từ bờ biển đến chân núi và từ Hiền Lương đến Ha Cô trong phạm vi 35 km, pháo 175 của họ có thể vươn tới Sơn Thủy của tỉnh Quảng Bình. Họ bắn qua trận địa chúng tôi, nhưng không biết chính xác chúng tôi ở chỗ nào. Về quân sự mà nói thì kết quả thật tồi, nhưng chúng bắn bừa bãi suốt ngày đêm gây nên một mối đe dọa thường xuyên. Chúng tôi nghe những quả đạn phân tán lẻ tẻ, khi liên tục nhanh chóng, từ phía Đông tới, từ phía Tây tới, nhất là tiếng sấm của những khẩu 175mm.
Trận chiến đấu vẫn tiếp tục, hai bên thay nhau bắn pháo hàng ngày. Rồi ngày 2 tháng giêng năm 1967, sư đoàn 3 hải quân Mỹ vào đóng quân ở phía bên kia bờ sông thay cho sư đoàn quân ngụy miền Nam, được điều động về phía Nam để làm nhiệm vụ "bình định". Đến ngày hôm sau, các cảng nhỏ Đông Hà, cuối đường 9 giáp với đường 1 ở phía Bắc Quảng Trị trở thành một căn cứ hậu cần của mặt trận đường 9.
Ngày 9 tháng 2, phần miền Nam khu phi quân sự ở phía Nam sông Bến Hải bị rụng lá vì chất độc hóa học-gió mang chất độc hóa học đến tận Hồ Xá và Vĩnh Hiền, những ai hít thở hoặc ăn thức ăn nhiều chất độc trước hết cám thấy khát khô cổ rồi ốm nhiều ngày.
Ngày 17 tháng 5 năm 1967, quân địch tập trung những lực lượng quan trọng gồm cả lục quân, hải quân và không quân dưới sự chỉ huy của tư lệnh sư đoàn 3 hải quân Mỹ. Họ tiến hành kế hoạch Hiskory với mục đích nhốt dân cư vào những vùng đất rào kín và phá hoại các làng xã ở khu vực Gio Linh và Cam Lộ để xây dựng "trường điện tử" của Mac Namara. Đó là những ngày hết sức xúc động ở Vĩnh Linh, vì máy bay ném bom liên tục, đó chẳng là điều gì mới lạ. Sau chiến tranh, tôi được biết rằng mỗi người dân Vĩnh Linh trung bình phải chịu bảy tấn bom và tám mươi quả đạn.
Sợ nguy hiểm, những người dân ở đây có thói quen phân tán các con trong các hầm khác nhau để bảo toàn được gia đình khỏi một trong những người con bị trúng đạn bom. Luôn luôn có người thương vong. Trẻ con, người già. Một trong những trường hợp lạ lùng là trường hợp anh Ai Danh, một chiến sĩ phục vụ ở mặt trận phía Nam được phép về thăm gia đình ở Vĩnh Tranh. Mẹ anh, đang đứng trong hầm trú ẩn thấy anh về, quay lại gọi vợ và con anh, đúng lúc ấy một quả bom giết chết anh. Anh đã chết đúng chỗ bốn năm trước anh đã chia tay gia đình đi vào mặt trận".
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 3:44 pm
Chương 15: Chiến tranh của “Westy”
Các nhà chính khách ở Washington tuyệt đối không tính đến tình thế phức tạp ở miền Nam Việt Nam.
Tướng Westmoreland nói với tác giả, 1991
Sĩ quan Mỹ được cử sang Việt Nam với tư cách tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ gọi là William Child Westmoreland sinh ngày 26 tháng 3 năm 1914, ông trẻ hơn ông Giáp 2 tuổi rưỡi. Tốt nghiệp học viện quân sự West Point, ông được phong quân hàm đại úy của khóa học (cũng như các học viên xuất sắc các khóa trước Pershing và Mac Arthunr) và được giữ kiếm Pershing. Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã chỉ huy một tiểu đoàn pháo binh và phục vụ như một sĩ quan tham mưu ở Bắc Phi, ở Ý và ở Đức.
Năm 1950, Westmoreland là giảng viên ở trường quân sự cao cấp Fort Leawenworth ở bang Kansas. ít lâu sau, ông giảng dạy ở trường Trung học chiến tranh của quân đội Carlisle Carlisle Barraks ở bang Pennoylvanic, một trường liên quân chủng của những sĩ quan đã được huấn luyện. Ông tiếp tục đi học ở trường Haward Business. Sau một khóa đào tạo lính dù năm 1952-1953, ông chỉ huy một đội máy bay vận tải ở Triều Tiên. Sau đó ông làm ở Lầu Năm Góc với cấp bậc thiếu tướng lữ đoàn trước hết ở phòng quân lực của lục quân, rồi thư ký bộ tổng tham mưu "một dạng tư lệnh trưởng của bộ tổng tham mưu quân đội" (Westmoreland đã gặp tổng tham mưu Maxweth D.Taylor ở Italia trước khi phục vụ dước quyền ông ta ở Triều Tiên). Khi được cử đi giữ quân hàm này ở tuổi 42 để chỉ huy sư đoàn không vận số 10, Westmoreland là vị tổng tư lệnh quân đội Mỹ trẻ tuổi nhất. Sau đó, ông được cử làm hiệu trưởng học viện quân sự West Point.
Sau đó Westmoreland được cử làm tư lệnh binh đoàn không vận số 18 và tháng 6 năm 1964 làm phó tổng chỉ huy rồi ít lâu sau làm tổng chỉ huy lực lượng quân đội tham gia chiến đấu ở Việt Nam. (MACV) Westmoreland thích hợp với vị trí: ông đã tham gia chiến đấu ở 4 chiến trường khác nhau, đã giảng dạy lý thuyết quân sự ở hai trường quân sự nổi tiếng nhất Hoa Kỳ, đã có kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu ở bậc cao, đã đổi mới trong lĩnh vực chiến thuật (trong thời kỳ chỉ huy sư đoàn không vận, ông là người tiên phong trong việc sử dụng số lớn máy bay lên thẳng), cuối cùng ông là người số một điều hành Lầu Năm Góc.
Cũng như ông Giáp, Westmoreland đã nghiên cứu các tác phẩm của Sun Tju, của Clausewitj và những nhà lý luận quân sự vĩ đại khác. Và cũng như Giáp, ông đứng đầu một đội quân khổng lồ, mạnh trong chiến tranh về quân số cũng như tập hợp liên quân các quốc gia ở Triều Tiên. Cao lớn, mập mạp, đầy tự tin, năng động và dũng cảm, ông đứng đầu những lực lượng hiện đại nhất được trang bị kỹ thuật cao chưa bao giờ giao chiến. Để bảo đảm hậu cần, trong ba năm đầu chỉ huy chiến đấu ở Việt Nam, ông đã lệnh xây dựng 7 cảng nước sâu và 8 sân bay lớn-và đó là một quyết định trong hàng nghìn quyết định khác. (Muốn thực hiện những công việc đó, phải cần đến 51.000 công chức dân sự dưới quyền Mỹ cùng làm việc ở miền Nam Việt Nam tốn một nửa tỷ đô la một năm). Đến năm tài chính 1968, khi Westmoreland rời Việt Nam, ngân sách chi đến 30 tỷ đô la.
Sự cực kỳ giả tạo của bộ máy chiến tranh Mỹ là tạo dựng lên một trong những trở lực chính đáng cho một thắng lợi ở Việt Nam. Các nhà quân sự cũng như chính khách Mỹ quá tin vào ưu thế lý thuyết của vũ khí hiện đại trong mọi trường hợp, không tính đến tính chất của đối phương: chỉ cần "bỏ nhiều công sức là quân thù biến đi rất kỳ diệu. Yếu tố con người, yếu tố quyết định thắng lợi bị che kín dưới cái màn tồi napalm, laje, những bộ tách sóng và chất độc làm rụng lá.
Hơn nữa quân đội Mỹ theo đuổi quá cứng nhắc học thuyết của họ, phát triển chiến đấu sắt thép ở châu Âu. Khốn nỗi, mặc dù Westmoreland đã "xác định cái gì đến với quân Pháp năm 1954 không bao giờ lại đến với quân Mỹ". Ông tin rằng chiến tranh Đông Dương "không thật sự có nghĩa: Người Pháp ở vào một tình thế quá bất lợi, họ không có được nguồn lực như chúng tôi". Hẳn là dưới con mắt ông ta, chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến có tính chất khác mà những bài học của quá khứ không áp dụng được. Đây là một hoạt động cách mạng quy mô lớn, một loại mà quân đội Mỹ chưa bao giờ vượt qua được. Westmoreland đã có thể tuyên bố rằng: "những người cộng sản lãnh đạo một cuộc chiến tranh cách mạng cổ điển Việt Nam". Trong khi sự thật không đúng như vậy: một cuộc chiến tranh cách mạng nhằm tới thắng lợi quyết định không có sự giúp đỡ của nước ngoài. Vậy mà ở miền Nam Việt Nam, quân Việt Cộng không thể một mình thắng lợi mà không có yểm hộ của quân chủ lực của ông Giáp.
Westmoreland đã biết tên ông Giáp trước khi xông đến Việt Nam, nhưng ông nói: "Tôi không hề biết tí gì về ông ta trước khi tôi đến đất nước này, nhưng tôi hoàn toàn biết rõ ông ta là ai, vì tôi đã được tin về chiến thắng của ông ta đã giành được ở Điện Biên Phủ. "Những chiến dịch của ông Giáp không được nghiên cứu ở Fort Leavenworth, cũng không có ở War Collège, ở G.Q.G, ở Sài Gòn, cơ quan tham mưu không phải phân tích những chiến dịch ấy, người ta cũng chẳng nghiên cứu về những người chỉ huy đối phương. "Về chiều sâu, điều đó cũng chỉ là chuyện phân tích qua loa". Tuy nhiên "tất cả các sĩ quan (ở Việt Nam) đều biết lịch sử Việt Nam, nhất là thời kỳ Pháp thuộc".
Nhưng vấn đề nghiêm trọng nhất của Westmoreland là từ đầu đến cuối ở Việt Nam, Hoa Kỳ không xác định mục tiêu chính trị rõ ràng do đó không có đường lối chiến lược quân sự. Từ ngày một nhóm cố vấn được cử sang Sài Gòn những sự kiện hỗn loạn nối tiếp nhau diễn ra. (Và điều đó vẫn không đổi sau này; khi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ quốc phòng năm 1968, Clark Chifford phải tuyên bố : "Tôi rất ngạc nhiên thấy rằng chúng ta không có một kế hoạch nào để giành thắng lợi trong chiến tranh").
Tất cả các bộ não của chính phủ và Lầu Năm Góc cũng như nhóm chuyên viên giúp việc cho bộ trưởng các trường đại học-ví dụ Jason group gồm 49 viện sĩ chuyên tìm ra những ý kiến mới cho việc phân tích quân sự-không bao giờ cung cấp cụ thể một chiến lược gắn bó chặt chẽ hoặc một kế hoạch dài hơn khả dĩ dẫn đến chiến thắng. Phần lớn các con người thông minh và trí tuệ thấy rằng các thông số xuất phát là sai lầm-lúc ban đầu, Hoa Kỳ chưa bao giờ phải can thiệp quân sự vào cuộc chiến này-nhưng Hoa Kỳ đã đi quá xa để có thể đưa bộ máy quay lại đằng sau: trong nước Mỹ cũng như ở ngoài, điều đó coi như một thế yếu, một chỗ thiếu trong những lời cam kết. Do đó, các sự kiện càng phát triển, các nhà chức trách chính trị và quân sự hành động bằng cách bịt các lỗ hổng mà họ phát hiện được. Cứ tiếp tục đến x lần, đỉnh cao của sự giàu có của Mỹ quay xuống, đổ vào đây hàng đống đô la, người và vũ khí.
Những người tiền nhiệm của Westmoreland, những thành viên của đoàn cố vấn quân sự Mỹ gửi đến Sài Gòn, đã yêu cầu có những biện pháp "bịt biên giới" với Lào và Campuchia bằng một hàng rào bao vây. Năm 1961 CIA đưa vào một đơn vị đặc biệt do tổng thống Kennedy thành lập vì không thể đóng cửa biên giới. Cùng năm ấy tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (OTASE) giới thiệu phương án 5/61 đưa một lực lượng quốc tế vào nhưng Lầu Năm Góc quyết định chương trình không thực hiện được. Một đề nghị khác của tướng Maxwell D.Taylor, đại diện đặc biệt của tổng thống về những vấn đề quân sự, nên đưa một lực lượng tác chiến gần 3300 quân săn lùng của quân ngụy miền Nam (ARV) vào 5 tỉnh biên giới. Phương án ấy cũng chết dí trong bàn giấy, mãi đến năm 1962, CIA bắt đầu tổ chức tuyển mộ những người dân tộc miền núi để thành lập những dân quân tự vệ. Theo năm tháng, những dân quân tự vệ do quân Mũ nồi xanh thành lập và làm cố vấn do quân ngụy miền Nam chỉ huy được đưa vào dọc đường biên giới.
Khi tướng Westmoreland đến Sài Gòn, chiến lược đã được xa xa; những đơn vị thuộc lực lượng đặc biệt phụ trách việc "tập hợp những tin tức, triệu chứng về hoạt động của đối phương và đánh dấu mọi sự đột nhập của những đơn vị quan trọng của tiểu đoàn hoặc trung đoàn", phải theo dõi trên sườn trống; phía sau, binh sĩ và quân đồng minh phải tổ chúc hành quân "tìm và diệt" (Hureter/Killer operation): những trận đột nhập vào rừng núi để tìm kiếm những tin tức dấu vết, để bao vây các đơn vị Việt Cộng hoặc Quân đội nhân dân Việt Nam và nếu có thể tiêu diệt họ. Có thể nêu lên: "Nếu tôi có đủ quân số được tăng cường vô hạn định, tôi có thể cho các đội quân thường xuyên đồn trú trên khắp các huyện và các tỉnh và thực hiện một chiến lược khác hẳn. Nhưng một dự án như vậy phải có đến hàng triệu người"-đúng như ông Giáp đã đoán trước đây ít lâu. Kiên nhẫn theo kế hoạch, Westmoreland dần dân tăng thêm quân số và khi có điều kiện chuyển qua những trận tấn công quy mô lớn hơn: những cuộc hành quân "tìm, diệt" được thực hiện với những lực lượng quan trọng, được pháo binh và không quân yểm trợ mạnh (chiến lược này người Pháp đã thực hiện không thành công).
Hàng chục cuộc hành quân loại này được thực hiện. Kèm theo tiếng gầm rú của máy bay ném bom, tiếng ì ầm điếc tai của máy bay lên thẳng, rồi những đội quân nhỏ gồm Mỹ và liên quân lùng sục rừng rậm và đồng ruộng hy vọng quân đội Việt Cộng cắn mồi: nếu họ xuất hiện, họ sẽ bị một hỏa lực lớn hơn đánh bại, hoặc giả rất nhiều đội quân bao vây và kẹp chặt những đơn vị đối phương trước khi tiêu diệt. Sự thật đối phương không xuất hiện hoặc luồn vào giữa hàng ngũ của lực lượng đồng minh, như định bắt con cá hồi bằng tay trên một thác nước ở vách núi cao. Các phi công máy bay lên thẳng đã cung cấp cho chúng tôi một dẫn chứng về một chuyện sử dụng đậm đặc kỹ thuật hiện đại để đạt được những kết quả tồi tệ ấy trên chiến trường của quân Mỹ. Quá trình xảy ra chiến sự, gần 5.000 phương tiện ấy, giá mỗi chiếc khoảng một phần tư triệu đô la bị lực lượng mặt đất của quân đối phương bắn rơi. Ròng rã hàng mấy năm trời, họ bảo đảm yểm trợ tác chiến và hậu cần cho những đơn vị chiến đấu trên trận địa, bắn đạn lỗ chỗ xuống rừng rậm và ruộng đồng, chuyên chở vật liệu và đạn dược, chuyên chở thương binh rời trận địa. Rồi cuối cùng, họ cũng có một lần chạm trán lớn trong cuộc chiến: nhờ có khả năng xuất hiện bất ngờ và rút đi nhanh chóng, như ky binh ngày xưa, họ tạo thành một phương tiện chắc chắn để rút bộ binh ra khỏi chiến trường và cuối cùng thành một "lối thoát cấp cứu” mỗi khi tình thế thật sự không-còn giữ vững nữa. Điều đó cho phép quân đội Mỹ tuyên bố họ chẳng bao giờ thất trận-nhưng cũng chẳng thu được thắng lợi quyết định nào.
Mục đích cuộc chiến tranh này không phải để chiếm đất đai và chiếm đóng ở đó, và không nói đến việc vạch đội hình trên bản đồ, phải tìm những cách khác để xây dựng thắng lợi của các cuộc hành quân. Một trong những cách đó là đếm xác chết. Trong những bán báo cáo theo nếp cũ, các sĩ quan chỉ huy Mỹ phải nêu rõ đã giết được bao nhiêu quân đối phương. Vì nhiều lợi ích-thăng cấp thăng chức, thưởng huân chương, nghỉ phép (với những ngày ở Bangkok, Singapo, Hong Hong, Manila, Honolulu...) đều phụ thuộc vào những con số tính xác chết, giải pháp thật đơn giản: chỉ cần có xác chết, địch hay không phải địch, hoặc giả "bịa" ra. Khi bắt được một tù binh, rất hiếm trường hợp được sống sót: Không chỉ vì khó khăn lắm mới đưa được về căn cứ, nhưng để làm gì? Vì cấp trên chỉ cần những xác chết? Theo những chỉ số đáng ngờ ấy, việc xác định tổn thất của đối phương rất ít chính xác. Theo một số tin tức, con số thương vong ấy lên đến 350 nghìn-chết, bị thương và đào ngũ-vào năm 1965 đến 1967. Dầu con số thật như thế nào, bao giờ cũng có những số liệu tương đương kẻ địch trên trận địa.
Một phương pháp khác chính xác hơn-và tất nhiên khắc nghiệt hơn để đánh giá thắng lợi của các cuộc hành quân chống Việt Cộng là thống kê số người lánh nạn. Hàng chục và hàng nghìn người di chuyển chạy khắp đất nước. Năm 1967, người lánh nạn là 1,2 triệu: bị đuổi ra khỏi nhà vì bom đạn máy bay và pháo binh hoặc vì việc "quét sạch" những vùng rộng lớn (nói khác đi việc buộc một Việt Cộng hoặc cảm tình của Việt Cộng), đồng thời với việc áp dụng chương trình ấp chiến lược. Tóm lại là một sự lộn xộn không tả xiết. Vào năm 1968, không ít hơn một phần ba dân cư bị buộc rời khỏi quê hương đất tổ và "định cư" nơi khác (Westmoreland đã đích thân đến Malaysia để nghiên cứu những điều kiện địa phương và so sánh với những điều kiện ở Việt Nam, hy vọng có thể thổi thêm một ít sức sống cho một chương trình đang hấp hối).
Sau khi Diệm chết, quân Việt Cộng tăng gấp đôi lực lượng để thanh toán những khu "vàng” cuối cùng (do chính phủ kiểm soát). Năm 1962 có khoảng 9.000 vụ tranh chấp ác liệt Sau đó con số tăng lên không ngừng: 1963: 19.000; 1964 hơn 25.000; 1965 gần 27.000. Từ năm 1962 đến năm 1965 không ít hơn 4.500 bị giết chết. Khắp nơi dao và đạn chờ đợi những ai không ủng hộ Việt Cộng. Phó mặc cho tất cả mất hết phương hướng và hy vọng, luôn luôn lo lắng và sợ hãi, những người lánh nạn chạy từ đầu đến cuối đất nước hy vọng tìm kiếm được một chỗ ẩn thân kín đáo.
Nguyễn Văn Tích là một ví dụ điển hình về những người Việt Nam nhập ngũ từ rất trẻ và đã chiến đấu trong đội ngũ quân đội nhân dân nhiều năm. Nghe theo tài hùng biện của Cụ Hồ Chí Minh, sau khi chỉnh quân chính trị, Tích trở thành một chiến sĩ dũng cảm và trung thành; chiến đấu từ trận này đến trận khác, cuối cùng ông cũng được phong trung tá. Những hiểu biết trong những năm phục vụ quân đội đã cho phép ông trở thành một nhà sử học của quân đội.
Trong dịp tiếp xúc với tác giả, ông đã viết được những điều kiện sinh hoạt của một quân dân trong quân đội nhân dân và câu chuyện đầy hình ảnh về một cuộc đụng độ ở chiến trường.
"Tôi đã phục vụ 12 năm trong vùng giới tuyến quân sự và tất cả 24 năm trong quân đội. Sau giải phóng miền Nam, tôi trở lại miền Bắc và chiến đấu. Tôi đã trở về Hà Nội sau hai năm (1988). Tôi hiểu biết rất sâu về quân đội.
Khi tôi vào bộ đội, trước hết qua 6 tháng huấn luyện tân binh, sau đó là một đợt huấn luyện đặc biệt giành cho những chiến sĩ đi miền Nam. Người ta đã chuẩn bị cho chúng tôi một chặng đường bộ qua vùng rừng núi hiểm trở với trên lưng cái ba lô nặng 30-40kg. Phải làm việc trong bất cứ điều kiện nào. Chúng tôi phải trèo trên những sườn núi dốc đứng bằng đôi vai của các đồng chí. Chúng tôi phải làm việc ngày đêm, tất cả các ngày trong tuần lễ không nghỉ. Chúng tôi ngủ trên võng và tập xây dựng hầm trú ẩn. Chúng tôi sử dụng những chiếc võng bằng sợi hóa học của Mỹ do nhân dân cung cấp. Mỗi người được một tấm ni lông để che mưa. Rất thuận lợi, mọi thứ đều trong túi của tôi.
Chúng tôi tập ăn gạo và rau khô mà chúng tôi nấu lấy trước khi nhận nhiệm vụ. Chúng tôi dùng bếp đặc biệt, bếp Hoàng Cầm-tên của người sáng chế bếp không khói để quân địch không phát hiện được chúng tôi. (Khói được đi theo một đường hầm dài đào phía sau bếp, thành đất hầm hấp thụ dần những phân tử các cacbon sao cho cuối cùng không còn gì để thoát ra ngoài). Hoàng Cầm đã được tuyên dương anh hùng quân đội.
Tôi có cái may mắn được chiến đấu 24 năm trong một đơn vị: sư đoàn 325, một trong những sư đoàn được thành lập đầu tiên. Tên thường gọi là "sư đoàn Sao Vàng”; quân Mỹ rất hiểu sư đoàn đó, là một trong những mục tiêu ưu tiên.
Trận đánh đầu tiên của tôi là trận đánh sư đoàn 1 ky binh không vận do Mc.Namara thành lập ở tỉnh Bình Định. Sư đoàn tôi đóng ở trung tâm tỉnh, là một trong những mục tiêu chính của lực lượng không vận Hoa Kỳ.
Quân Mỹ đưa 3 trung đoàn chống lại chúng tôi. Mục đích của cuộc hành quân là càn quét và tiêu diệt như họ vẫn gọi là "tìm và diệt".
Vì không có xe, chúng tôi phải chia ra nhiều nhóm vận động bằng đôi chân. Lực lượng không vận đã bao vây chúng tôi thành gọng kìm và chúng tôi chưa biết đánh chúng như thế nào. Chúng tôi không ai biết chiến thuật của họ-cũng như không biết chiến thuật của quân Mỹ nói chung. Sau đó, các đồng chí đã đánh Mỹ đến sư đoàn và chúng tôi học kinh nghiệm của các đồng chí ấy. Chúng tôi bắt đầu học tập nhưng chúng tôi đã quyết định một thỏa thuận chung là điều đầu tiên phải xác định đầy đủ học để đánh Mỹ, sau đó chúng tôi mới đi vào chi tiết.
Đã có quyết định, những ai giết được ít nhất 5 lính Mỹ được phong tặng danh hiệu dũng sĩ loại ba, giết được 10 lính Mỹ được phong tặng danh hiệu dũng sĩ loại hai, giết được hơn 10 lính Mỹ được loại một.
Tôi nhớ nhất buổi sáng ngày 28 tháng giêng năm 1966. Chúng tôi đang ở trong một vùng gọi là Cat Market cách bờ biển 10km. Bình thường chúng tôi có thói quen ra vị trí trận địa sau bữa ăn sáng, nhưng hôm ấy trời vẫn còn sớrn, bỗng nhiên chúng tôi nghe tiếng pháo bắn từ các giàn pháo mặt đất và tàu thủy đậu ngoài khơi. Mới chỉ có vài người trong chúng tôi kịp đến vì trí chiến đấu. Đạn pháo như mưa xuống làng ở gần đó.
Rõ ràng đây là một cuộc hành quân lớn của quân địch; chúng tôi vội vàng xuống hầm trú ẩn trong làng. Tôi được biết quân Mỹ đặt tên cho cuộc hành quân này là máy xát gạo. Họ tưởng rằng quân giải phóng chúng tôi là những hạt gạo, và chúng đến để chà xát chúng tôi!
Sau đó máy bay đánh phá. Chúng nhiều đến nỗi chúng tôi không đếm xuể. Quân Mỹ dùng cả máy bay lên thẳng, tất nhiên họ có chương trình đã chuẩn bị sẵn, vì các lục lượng chủ yếu đều lập tức vây hãm tất cả các làng trong vùng. Không có liên lạc vô tuyến điện giữa các đơn vị chúng tôi rất khó bảo đảm liên lạc. Sau đợt pháo bắn, chúng tôi đã có vài người bị thương. Họ được giao cho dân làng.
Sau đó, một làn sóng máy bay lên thẳng thứ hai đến đổ quân trước trận địa của chúng tôi trong vườn dừa cát trắng. Cánh quạt máy bay tung bụi cát mù mịt. Có tất cả khoảng 250-300 quân Mỹ tản ra các hướng. Một trăm tên đi về hướng chúng tôi.
Đó là một buổi sáng đẹp trời; tôi còn nhớ chúng mặc áo cộc tay, quần bó chặt, mũ sắt và giày cao cổ. Chúng được trang bị súng AR15 và M79. Tôi chú ý quan sát chúng, vì lần đầu tiên tôi trông thấy địch. Tất cả họ hình như còn rất trẻ. Có cả quân châu Phi: cũng là lần đầu tiên tôi trông thấy họ.
Nằm dài trên trận địa, địch không phát hiện được, chúng tôi sẵn sàng hành động ngay lập tức. Chúng tôi không đủ kiên nhẫn theo dõi quân Mỹ đánh như thế nào. Chúng tiến về hướng chúng tôi. Vừa gọi cho máy bay lên thẳng, không bắn vào chúng tôi nhưng làm náo động cả không gian. Những tên linh Mỹ đã đến rất gần, cách làng chừng 50 mét. Khi tôi nghe một tên hô một mệnh lệnh, tất cả bọn chúng đều nằm bụng sát đất. Ngay sau đó, những quả đạn cối róc vào làng rồi tiếng súng bắn không ngừng. Chúng tôi vẫn không hành động.
Sau đó, tôi nghe những tiếng kêu, và bọn lính Mỹ từng tốp nhỏ, tiến vào làng. Chúng tôi chạy từ cây này sang cây khác, bên phải vị trí tôi. Khi chúng đến rất gần, chúng tôi bắt đầu nổ súng. Chúng đã thật gần. Một số đổ xuống. Sau đó bạn chúng chạy đến cứu chúng, chúng tôi bắn tất cả. Thông thường, chúng tôi có thể bắn chết những tên Mỹ đến cứu bạn. Ngày hôm đó, tôi đã giết khoảng 12 tên.
Chúng chia cuộc hành quân "xát gạo" thành nhiều đợt. Đợt một bao gồm một vùng 3 làng kéo dài trọn một ngày. Chúng đã chiếm được vị trí của chúng tôi, nhưng chúng tôi đã tiêu diệt một số lớn. Mục đích của chúng tôi là không phải giữ đất, nhưng sao cho tổn thất ít nhất mà giết được nhiều lính Mỹ nhất. Trận chiến đấu kết thúc, chúng tôi rút về vị trí an toàn.
Đợt hai lấy tên là "cánh trắng”, diễn ra sau một tuần trong thung lũng An Lão, cách đợt đầu một khoảng cách. Chúng biết rằng những người sống sót trong đợt một đã lùi về thung lũng này. Đợt hai kéo dài cả tuần lễ. Chúng không trực diện với đơn vị tôi, chỉ có lực lượng du kích hiện có trong khu vực tác chiến. Đợt tiếp theo chỉ rất ngắn, rồi hầu như chúng đã rút hết.
Sau cuộc hành quân này, quân Mỹ kiểm soát được vùng này, nhưng nhân dân rất căm ghét chúng; chúng cũng rút đi luôn. Để thoát khỏi tay chúng, chúng tôi cũng di chuyển, ngày một sâu vào rừng.
Đến cuối năm, chúng tôi lâm vào tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng. Đạn pháo rơi ngày đêm; thật là một tình trạng bi đát vì mọi người đều trốn khỏi vùng này. Không còn ai giúp đỡ chúng tôi. Chúng tôi chỉ còn ăn gạo với sắn. Thứ lúa chét còn lại sau khi gặt mà chúng tôi tìm kiếm được trên các thửa ruộng.
Vì liên tục ẩm ướt, chúng tôi mắc vô số bệnh ngoài da. Phần lớn chân chúng tôi bị viêm loét vì côn trùng chích và nước bùn, hòa với xác chết chôn dưới đất. Do đó đi rất khó khăn; thỉnh thoảng viêm tận xương chân. 100% quân số mắc bệnh sốt rét. Ở đây có rất nhiều vắt, gây nên viêm loét khiến chúng tôi đau đớn.
Thỉnh thoảng chúng tôi có thuốc lá, nhưng rất hiếm. Sau những trận đánh giáp lá cà với quân địch, chúng tôi kiếm được thuốc lá Mỹ, và cả sô cô la. Thường trước một trận đánh chúng tôi chẳng có gì ăn nhưng khi trận đánh kết thúc, chúng tôi kiếm được thức ăn, sô cô la và bia trong những địa điểm quân Mỹ đã ở lại đó.
Quân đội chúng tôi chiến đấu hiệu quả vì chúng tôi đánh trong rừng. Chúng tôi muốn đánh quân Mỹ mỗi lần chúng tôi muốn đánh và lui khi chúng tôi muốn rút. Vì vậy nên chúng tôi giành được bao nhiêu thắng lợi.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 3:49 pm
Chương 16: Chiến tranh của lính Mỹ
Trong một tình trạng nổi dậy, nếu anh không thắng lợi, anh sẽ tổn thất, vì kẻ địch luôn luôn có thể giữ nguyên trạng mà không chịu một chút nhượng bộ nào.
Sir Robert Thompson
Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1965 các đơn vị tinh nhuệ của quân đội Mỹ đến Việt Nam: sư đoàn cơ động không vận số 101, sư đoàn bộ binh 1 và sư đoàn ky binh không vận số 1, sư đoàn này là một sư đoàn bộ binh được tăng cường sức cơ động nhờ sử dụng số lớn máy bay lên thẳng. Các sư đoàn này tiếp sau sư đoàn 25 một thời gian ngắn. Những sư đoàn khác còn tiếp tục vào miền Nam Việt Nam cho đến 10 sư đoàn Mỹ và hai phần ba sư đoàn nữa kéo vào Việt Nam.
Các sư đoàn 1 và 25 tạo thành một vành đai cứ điểm phòng ngự xung quanh Sài Gòn còn 2 lữ đoàn Nam Triều Tiên (con Hổ và Ngựa trắng) chịu trách nhiệm phòng ngự bờ biển ở phía Nam vĩ tuyến 17.
Các đơn vị khác của Mỹ và quân ANZAC-các lực lượng Úc và Tân Tây Lan hoạt động trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Song song với sự bố trí này, các đơn vị miền Nam Việt Nam hoạt động trong khắp đất nước thực hiện nhiệm vụ "bình định": sự hiện diện của quân ngụy coi như có tác dụng răn đe quân Việt Cộng đồng thời khuyến khích dân chúng ủng hộ chính quyền Sài Gòn.
Cho đến cuối năm 1965, quân ngụy miền Nam Việt Nam đã mất trung bình mỗi tuần lễ một tiểu đoàn bộ binh và một huyện ly. Trong rừng cây cao su Michelin mênh mông, trung đoàn 272 của sư đoàn 9 Việt Cộng gây nên những tổn thất nặng nề cho trung đoàn 7 quân ngụy ARV (hàng trăm lính chết và bị thương). Năm sau tháng 2 ông Giáp gửi vào miền Nam trung đoàn 32 của Quân đội nhân dân Việt Nam (APV) đến tháng 8 thêm trung đoàn 33. Cả hai trung đoàn đều dưới quyền chỉ huy của Tướng Chu Huy Mân. Sau một trận đụng độ ác liệt, một bộ phận của trung đoàn 33 bị sư đoàn ky binh không vận số 1 loại khỏi vòng chiến đấu và chịu thất bại nặng, nhưng so với những tổn thất toàn bộ của lực lượng Mỹ và miền Nam Việt Nam thì chẳng thấm vào đâu chỉ như một mũi kim châm. Phải tiếp tục hành động.
Ở Việt Nam, quân Mỹ bố trí ba loại văn phòng quân tình báo: dịch vụ tình báo quân sự; hoạt động cùng với các đơn vị và binh đoàn Mỹ; dịch vụ tình báo dân sự phụ thuộc CIA và kết hợp với quân đội và cảnh sát miền Nam Việt Nam; và những dịch vụ tình báo chiến lược tập trung những tin tức do không quân và vệ tinh cung cấp. Khai thác những tin tức tình báo do các cơ quan dịch vụ tình báo cung cấp. Các vị chỉ huy quân đội Mỹ xác định vị trì các đơn vị của đối phương. Khi một mục tiêu quan trọng được xây dựng, họ tấn công một lực lượng hỏa lực mạnh. Chủ trương của họ là tìm kiếm địch, rút về dùng hỏa lực mạnh để tiêu diệt mục tiêu.
Một số lượng ngày càng tăng lính bộ binh và thủy quân Mỹ triển khai ở vùng rừng núi và đồng bằng để tấn công quân Việt Cộng mà họ vẫn gọi là "Charlie Cong” như trong vô tuyến điện thường dùng “Victor Charlie" để chỉ Việt Cộng. Thất vọng vì những cố gắng không hiệu quả của họ, những người lính trẻ hoàn toàn bình thường trở thành những tên lính đánh thuê bạo tàn. Những hành động tàn bạo ghê gớm của sư đoàn Nam Triều Tiên "Rồng xanh" ở Binh Hoa và của sư đoàn 23 bộ binh Mỹ lại là những triệu chứng của một sự điên dại không tha thứ được do tình trạng vô cảm và bế tắc gây nên; (trong cả hai trường hợp hơn 500 người bị giết). Ở Binh Hoa, lính Nam Hàn đã giết nhân dân-đàn ông, đàn bà và trẻ con-của một làng từ chối kiên quyết việc không giúp đỡ Việt Cộng. Ở Mỹ Lai một đại đội bộ binh Mỹ trở thành điên dại chẳng có lý do gì họ đến đây để căm thù tất cả những người Việt Nam.
Nói chung và trong suốt cuộc chiến tranh, quân Mỹ và quân đồng minh đã tiến hành các cuộc hành quân có chỉ huy và kỹ thuật.
Từ tháng giêng đến tháng 3 năm 1966 cuộc hành quân Masker càn quét trong tỉnh Bình Định làm cho đối phương chết khoảng 1.000 người và 1.700 người bị bắt làm tù binh. Tiếp theo là cuộc hành quân Doulle Eagle càn quét tỉnh Quảng Ngãi. Trong các cuộc hành quân Thayer và Irving, napalm được sử dụng rộng rãi. Rồi các cuộc hành quân tiếp nối nhau: Five Ariow, Highway 9, Jeb Stuanrt, Byrt, Pershing, Saratoga, yellow stone... Hàng chục cuộc hành quân gây tổn thấy nghiêm trọng cho đối phương. Những đàn máy bay lên thẳng xuất phát từ các căn cứ phía trước và bay vào rừng rậm đến điểm được tin có địch. Được pháo binh và không quân yểm hộ mạnh mẽ, thỉnh thoảng có sự giúp sức của quân ngụy miền Nam ARV, các đội quân Mỹ và đồng minh tấn công vào các mục tiêu với hỏa lực dày đặc rồi rút lui thường vào lúc xế chiều.
Hàng nghìn lính, máy bay, máy bay lên thăng và vũ khí các loại thuộc về bao nhiêu căn cứ lớn, không ngừng phát triển xung quanh Đà Nẵng, Chu Lai, Long Bình, Biên Hòa. Nhưng bân thân các căn cứ này cũng không vững chắc. ở Đà Nẵng, toàn bộ vùng dân cư cho đến tận hàng rào xung quanh sân bay là do Việt Cộng kiểm soát: màn đêm buông xuống, các con đường vào căn cứ và cảng đều bị cấm.
Thỉnh thoảng, quân đồng minh cũng gây thương vong nhiều cho đối phương. Và thỉnh thoảng như ở Ban Nang, Nha Do, Cam Xe, Bâng Trang, Pleime, Bình Định, họ cũng bị tổn thất nặng. Đối với hàng chục nghìn lính Mỹ và quân đồng minh, tên gọi của các địa điểm ấy cũng như tên của hàng chục cuộc hành quân-Double Eagle, Dragon Fine, Shenandoah, Starlight, Silver Bayonet... thỉnh thoảng gợi lại kỷ niệm khát, mồ hôi, sợ hãi, bồi hồi và đôi lúc vui vẻ như điên. Họ không bao giờ quên những thân hình đẫm máu, những chiếc xương gãy nát, những tiếng kêu của người sắp chết, thất vọng vô cùng, đau thương cho đất nước, nỗi kinh hoàng triền miên.
Những trận tấn công khác được triển khai năm 1966: tháng 4 Abiline và Birmingham, tháng 6: El Pa so. Cuối cùng từ 14 tháng 9 đến 24 tháng 11 một cuộc hành quân lớn Attleboro đề ra không bao giờ thực hiện đúng ngày. Trong cuộc hành quân đó 22.000 lính sử dụng 1.200 tấn đạn dược và chiếm 2.000 tấn gạo và 19.000 quả lựu đạn, 500 mìn và một xưởng chế tạo mìn. Đối phương chết 2.000người, trong đó một nửa do máy bay oanh tạc; thương vong của Mỹ là 155 người.
Cuối 1966 những dịch vụ tình báo cho biết có khoảng 280.000 lính Việt Cộng và Quân đội nhân dân Việt Nam do 8.000 cán bộ chỉ huy đang hành quân vào Nam. Một phản ứng lớn lại tiếp tục.
Các cuộc hành quân nối tiếp nhau Cedar Falls và Junction City những cuộc hành quân quan trọng nhất của toàn bộ cuộc chiến tranh đã đạt một đỉnh cao mới. Gần 300.000 người được điều động vào Tam giác sắt. Theo phân tích của dịch vụ tình báo, có rất nhiều lực lượng đối phương ở đó: trung đoàn 272 của Quân đội nhân dân Việt Nam, hai tiểu đoàn của trung đoàn 165 chủ lực Việt Cộng, tiểu đoàn Phú Lợi, hai tiểu đoàn tự trị của Việt Cộng và có thể cả tổng hành dinh của Trung ương Cục miền Nam Việt Nam.
Tam giác sắc có tên gọi như vậy do hình dáng của khu vực phòng ngự của Việt Cộng bao gồm giữa hai dòng sông, cách Sài Gòn về phía Tây Bắc hơn 30km:-một cự ly không đáng lo ngại trong lòng tam giác sắt là một hệ thống địa đạo, mọi con đường cái, đường mòn đến đó đều có chông bẫy.
Mục đích của cuộc hành quản là đánh vào các đơn vị và tổng hành dinh trong tam giác để đuổi đối phương ra xa thủ đô. Họ phải thực hiện một hoạt động càn quét vê hướng Đông Nam (búa) buộc đối phương phải chống lại một lực lượng phong tỏa triển khai chặn phía Nam (đe).
Cuộc hành quân Cedar Falls bắt đầu ngày 8 tháng giêng năm 1967 bằng việc càn quét 6.000 dân làng rời khỏi chung quanh tam giác trong đó có một số đã bị Việt Cộng kiểm soát 2 năm nay. Sau đó làng Bến Súc ở góc Tây bắc bị tiến công và xóa sách. Lính phải mất 3 ngày dùng axêtylen và thuốc nổ để phá hỏng những đường hầm của làng xây dựng trên 3 mức (vì khí làm cháy nước mắt sử dụng để đuổi đối phương ra khỏi đường hầm trước khi quân Mỹ xuống hầm, lính bộ binh và công binh-được gọi là "chuột cống"-bắt buộc phải mang mặt nạ phòng hơi độc. Được trang bị đuốc điện, súng lục và mặc áo chống đạn, họ phải thực hiện nhiệm vụ độc hại và nguy hiểm trong toàn bộ các làng mạc mà quân Mỹ chiếm được).
Trong lúc này cái "đe" của sư 25 Mỹ có lữ đoàn Mỹ tự do và đoàn 25 ngụy ARV yểm hộ thiết lập 13 vị trí tại chỗ. Quân liên minh đã giết 835 địch và phát hiện được khu vực văn phòng Trung ương Cục miền Nam, khốn nỗi, chim đã bay đi mất.
Tiếp theo cuộc hành quân Cedar Falls là cuộc hành quân Junction City. Cuộc hành quân này bắt đầu nửa tháng hai, lúc lữ đoàn không vận 173 Took Foice Deane (tên của người chỉ huy tướng John R.Deane Jr) dùng 16 máy bay C130 nhảy dù xuống các vị trí của họ. Cùng với lữ đoàn 3 của sư đoàn Mỹ 11, lữ đoàn không vận này trở thành cái búa. Từ 18 tháng 3 đến 15 tháng 4, hai đội hình tiến về hướng "cái đe". Trong đợt này 1.900 lính địch bị giết.
Sư đoàn 9 quân giải phóng miền Nam, tấn công chiếm lại làng mạc bị quân Mỹ chiếm đóng: ấp Bàu Bàng, Suối Tre và Ap gu; sư đoàn bị thiệt hại lớn vì máy bay ném bom thả hàng tràng bom sát thương trên một vùng rộng lớn, cùng với máy bay B52 ở độ cao và mật độ hỏa lực pháo binh dày đặc đúng vào đội hình của sư đoàn.
Trong các cuộc hành quân của Cedar Falls và Junction City, máy bay Mỹ đã thả xuống gần một chục triệu truyền đơn và những máy bay lên thẳng dùng loa phát thanh đưa ra vô số lời kêu gọi để thuyết phục quân đối phương đào ngũ theo những cán bộ chiêu hồi thì sẽ được tha thứ. Rõ ràng mục đích làm yếu Việt Cộng có đạt được nhưng lẻ tẻ vài người lính đối phương nghe theo lời kêu gọi của họ. Ngoài ra khoảng 6.000 cán bộ dân sự Việt Nam được bác sĩ Mỹ săn sóc theo chương trình viện trợ dân sự gọi là Medcapi Assistance. Ba căn cứ không quân Việt Nam bị giết được thiết lập. Tất cả có 2728 Việt Cộng và quân đội nhân dân trong 2 cuộc hành quân hỗn hợp này. Về phía Mỹ có 282 lính chết và hơn 1.500 bị thương.
Ở Hà Nội, ông Võ Nguyên Giáp khẳng định Junction City là một thắng lợi lớn của Việt Cộng và hơn 13.000 quân đồng minh bị tiêu diệt.
Chắc chắn rằng cuộc hành quân này cũng như các cuộc hành quân cùng loại khác đã làm nhụt chí quân Việt Cộng ở mức độ nhất định. Đồng thời làm đảo lộn kế hoạch của Trung ương Cục miền Nam vì bắt buộc phải di chuyển tổng hành dinh, đem các đơn vị và căn cứ của Quân đội nhân dân Việt Nam sang Campuchia, đồng thời phải sử dụng các nguồn cung cấp do đường mòn Hồ Chí Minh chuyển vào trên vùng biên giới mà không còn sứ dụng được những nguồn cung cấp tại chỗ của nhân dân; hơn nữa, các đơn vị quân giải phóng miền Nam đóng căn cứ trong các làng mạc và trong rừng có thể ít trông chờ vào sự yểm trợ tức thời của bộ đội chủ lực của quân đội nhân dân. Hiển nhiên quân Mỹ đã được đầu tư vào các cuộc hành quân một nỗ lực lớn với một nguồn vật chất và tài chính quan trọng. Về số lượng cuộc hành quân dựa trên cơ sở sửdụng một lực lượng hùng hậu phô trương như vậy, song kết quả chẳng được bao nhiêu nếu tính theo số tổn thất của đối phương và vũ khí bị phá hoại-phải chăng vì một tỉ lệ lớn bom đạn nổ trong rừng không có dân cư. Hai ngày sau khi quân Mỹ rút khỏi tam giác sắt, Việt Cộng lại trở về vị trí của họ.
Bản thân tướng Westmoreland cũng đã ca ngợi lòng dũng cảm và trí khôn của đối phương Việt Nam, đúng như ông Giáp đã nhấn mạnh về họ. Ông kể rằng nhiều nạn nhân đối phương đã săm mình: "Sinh ra ở miền Bắc để chết ở miền Nam" và họ làm điều đó rất tự nguyện. Tướng Bernard Rogess người đã tham gia Junction City sau đó được bổ nhiệm làm tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh ở châu Âu nói rằng các chiến sĩ Việt Cộng thật "trung thành với sự nghiệp, kỷ luật, kiên nhẫn và dũng cảm".
Đó đúng là vấn đề.
Thất bại và thất vọng, những người lính Mỹ không còn hiểu gì nữa. Không còn giải pháp nào trông thấy khả dĩ. Họ có cảm giác như có một cánh tay què, vì họ không thể mang chiến tranh lên miền Bắc, nhưng làm sao người ta có thé cho phép họ, trong khi lý do có mặt ở đây là để ngăn chặn miền Bắc Việt Nam xâm nhập vào miền Nam? Làm sao chính phủ Hoa Kỳ có thể bảo lãnh một loại xâm lược như vậy để lấy cớ cho Mỹ can thiệp được?
Vì các cuộc hành quân tác chiến với bất kỳ quy mô nào cũng không làm thay đổi được tình thế, tháng 5 năm 1965 họ đã có dự kiến sử dụng vũ khí nguyên tử, nhưng ý tưởng này bị loại bỏ vì người ta sợ dư luận thế giới, trong cuộc chiến tranh lạnh Hoa Kỳ không thể để mất tín nhiệm của một phần ba thế giới. Tất cả mọi nỗ lực không thể ngăn chặn làn sóng người về phương tiện vật chất theo đường mòn Hồ Chí Minh vào miền Nam. Ném bom oanh tạc chẳng có ý nghĩa gì. Lập tức hàng đàn dân công đến lấp hố bom, sửa chữa cầu đường, hoặc tạo dựng một lối rẽ. Cuối nguồn lực, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Robert Mc Namara cho thiết lập một đường dây gồm các máy dò tìm từ bờ biển cho đến biên giới Lào. Kế hoạch này được đặt tên là Die Marker yêu cầu xây dựng 250 km hàng rào điện tử bằng những dụng cụ điện tử mới lạ: Công việc đã bắt đầu tháng 4 năm 1967, nhưng phương án quá phức tạp chưa tinh đến tốn kém nên bị bỏ dở.
Robert Strange Mc Namara sinh ngày 9 tháng 6 năm 1916 ở San Francisco. Tốt nghiệp trường đại học California ở Berrkeley và Harvard Business School, chàng trai kỳ diệu này nhanh chóng được phong hàm trung tá trong chiến tranh thế giới thứ hai và trở thành chủ tịch của hội Ford. Tháng chạp năm ấy, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ quốc phòng của Chính phủ Kennedy và vẫn giữ nguyên vị trí khi Johnson trở thành tổng thống.
Tổng thống Kennedy rất đề cao Mc Namara cho nên sau khi bắt đầu can thiệp vào miền Nam Việt Nam được ít lâu Bộ quốc phòng bắt đầu được đưa lên hàng đầu trong chính sách chính trị, đồng thời đảm nhận một chức trách theo truyền thống giành cho Bộ quốc gia. Trong những năm tháng chiến tranh, Mc Namara có một ảnh hưởng rất to lớn: không những ông là người chịu trách nhiệm thực hiện các quyết sách chính trị mà ông còn là một trong những người đề ra các quyết sách đó.
Tháng 5 năm 1967 con người có trách nhiệm then chốt trong việc lãnh đạo chiến tranh mấy năm qua đã viết cho tổng thống Johnson: hình ảnh của siêu cường thứ nhất thế giới giết và làm bị thương nặng cho một nghìn người không có vũ khí trong một tuần lễ, chỉ để đè bẹp một quốc gia nhỏ bé lạc hậu, vì một lý do còn phải tranh cãi, thật chẳng thú vị gì "một nghìn dân thương vong trong một tuần". Ông Mc Namara đã nói với tổng thống như vậy. Như người ta có thể trông đợi, rất nhiều thành viên của trung tâm chính trị và quân sự cho rằng tuyên bố này đưa ra một đánh giá sai lầm về tình thế và coi đó là một tín hiệu Mc Namara suy sụp.
Mùa hè năm 1967 Mc Namara tham dự hội thảo về "Công thức hòa bình ở San Antonio", định đàm phán với miến Bắc Việt Nam về việc ngừng ném bom. Tháng mười, Hà Nội bác bỏ dự định này. Tháng 11, Mc Namara cuối cùng đã kết luận rằng việc can thiệp quân sự kéo dài bảy năm qua là "phù phiếm và vô đạo đức" Mc Namara đã báo cáo tổng thống rằng việc "bình định" không đạt được tiến bộ nào, và chiến dịch ném bom Rolling Thunder cũng không làm giảm được sự xâm nhập và không lung lay tinh thần của Hà Nội. Những đề nghị của ông ta là: giữ nguyên quân số của Mỹ ở Việt Nam như hiện nay, chấm dứt các cuộc ném bom; chuẩn bị bí mật để đàm phán hòa bình với Hà Nội.
Thật quá sức đối với Johnson khi ông đang bị ám ảnh hoàn toàn vì ý tưởng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh, gây thiệt hại cho bao nhiêu vấn đề nội bộ và quốc tế mà chính phủ của ông đang phải đối mặt. Làm sao ông có thể nhận ra rằng tất cả những con người chết và những cố gắng lớn lao ấy lại chỉ mất thời gian? Mc Namara ra đi. Tháng 2 năm 1991 sau 24 năm im lặng lần đầu tiên nói về Việt Nam,ông đã gần cho một nhà báo rằng ông vẫn chưa bao giờ biết rằng ông được phép từ chức hay ông bị mất chức.
Rõ ràng không phải chỉ có chiến tranh trên mặt đất. Trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, các thuyền con chạy lùng sục để ngăn chặn hoặc giám bớt hoạt động của Việt Cộng dùng dòng sông Rừng Sạt để đến gần Sài Gòn. Ngoài biển các tàu thủy của hạm đội 7 lùng sục không ngớt trong Vịnh Bắc Bộ bất chấp chẳng có tàu thuyền đối phương. Bọn chúng đã yểm trợ hỏa lực pháo binh cho lực lượng trên bộ đến khoảng cách gần nhất. Trong khi các hàng không mẫu hạm từ các căn cứ phía Nam Việt Nam, Thái Lan hoặc trong Thái Bình Dương tăng cường lực lượng cho không lực Hoa Kỳ. Máy bay của hải quân Mỹ cất cánh được sáp nhập vào kế hoạch tác chiến của không quân. Mấy năm ròng, rất nhiều tàu thủy và thủy thủ thực hiện một vòng cung từ California đến bờ biển châu Á để tham gia không chiến. Lúc ban đầu mọi trường hợp đều ưu tiên cho các cuộc ném bom chiến lược.
Kế hoạch Rolling Thunder được thực hiện ngày 2 tháng 3 năm 1965. Vào thời kỳ, bộ tư lệnh các lực lượng Thái Bình Dương ở Honolulu đã quyết định 12 ngày ném bom dày đặc bằng không quân kết hợp với hỏa lực pháo binh mật độ cao của hạm đội 7 đủ sức vô hiệu hóa khả năng ủng hộ của miền Bắc Việt Nam cho miền Nam. Họ đã nhầm có đến 120 ngày và đến cả hàng năm trời ném bom vẫn không chấm dứt được việc cung cấp theo đường Hồ Chí Minh.
Tháng 7 năm 1966 được tin Rolling Thunder chỉ có tác động yếu ớt, tổng thống Johnson nâng giới hạn cho phép đánh phá các kho xăng dầu và đạn dược trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Mùa xuân năm 1967 thấy không giảm bớt làn sóng người và phương tiện vật chất vào miền Nam, tổng thống cho phép không lực Hoa Kỳ đánh vào các trung tâm điện lực, các sân bay và các nhà máy xí nghiệp của vùng Hà Nội và Hải Phòng, đồng thời phong tỏa mìn ở các cảng miền Bắc. Kế hoạch tác chiến kết thúc ngày 31 tháng 10 năm 1968, chấp nhận đàm phán hòa bình.
Những con số thống kê đáng ngạc nhiên: 350.000 lần máy bay cất cánh, 655.000 tấn bom trút xuống phía Bắc vĩ tuyến 17, 918 máy bay Mỹ bị bắn rơi với 818 phi công chết hoặc mất tích.
Lãnh thổ phía Nam của miền Bắc Việt Nam đã phải chịu đựng máy bay ném bom nhiều gấp 20 lần, những nơi khác. Hai mươi triệu quả bom Mỹ tàn phá tất cả các thành phố làng mạc ở phía Nam Hà Nội kể cả An Xá, nơi sinh trưởng của ông Giáp. Năm thành phố Phủ Lý, Ninh Bình, Thanh Hóa, Vinh và Hà Tĩnh bị xóa sổ trên bản đồ.
Ngày 1 tháng 11 năm 1968 trong các làng địa đạo quây quanh Vĩnh Linh gần vĩ tuyến 17, bảy mươi nghìn người đã 3 năm rưỡi nay lần đầu tiên được trông thấy ánh sáng mặt trời mà không sợ chết. Gần như những con xuyên sơn, họ đã đào sâu xuống dưới mặt đất 6m làm thành nhà cửa dưới hang nối liền với nhau bằng một mạng lưới hầm hào. Ban ngày họ cấy, gặt, giúp đỡ quân đội, sửa chữa đường xá, sẵn sàng chui xuống hầm khi máy bay xuất hiện phía chân trời, và ra ngoài một lúc để cho con mắt trẻ con quen với ánh sáng ban ngày. Ban đêm họ về hang thắp sáng ngọn đèn dầu và ngủ trong không khí ô nhiễm. Vĩnh Linh là mục tiêu bị bom đạn nhiều nhất và trong thời gian lâu nhất so với các khu vực khác ở Việt Nam, tuy dân cư chỉ là những người dân thường. Một nửa triệu tấn bom và đạn dội xuống cái thị trấn nhỏ này = ¼ của số bom đạn dùng trong chiến tranh thế giới thứ hai, một nửa số bom đạn trong chiến tranh Triều Tiên.
Phủ Lý, một thị xã và phố chợ nhỏ với vài chục nghìn dân cách Hà Nội 50km về phía Nam đã liên tục bị bom 8 ngày từ mùng 1 đến mùng 9 tháng 10 năm 1966, thị xã không còn gì. Ở Ninh Bình thị xã của tỉnh và trung tâm buôn bán của 25.000 dân, trước đây là vùng công giáo chính của Việt Nam, chỉ còn lại mũi tên của nhà thờ sau khi máy bay ném bom đi qua. Hà Tĩnh, tỉnh lỵ của tỉnh ở trên vĩ tuyến 18 đã phải chịu đựng 25.529 trận oanh tạc của không quân từ năm 1965 đến năm 1968, một cuộc không tập suốt 90 phút trong 1.200 ngày.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 4:07 pm
Chương 17: Chiến tranh của Quân giải phóng miền Nam
Tôi không bao giờ tưởng tượng nổi sự việc lại có thể tiếp tục như vậy. Tôi không nghĩ rằng những con người ấy lại có khả năng chiến đấu đến mức... chịu đựng một trận đòn tương tự.
Robert Mc Namara
Đối với người lính Mỹ, chiến tranh Việt Nam đặt ra những vấn đề không dễ dàng giải đáp được. Trong tất cả đất nước, quân đội (Mỹ) phải lao vào những trận chiến đấu ngắn ngủi và tàn bạo chống Việt Cộng nhưng cũng phải đối mặt với những lực lượng quan trọng của quân chủ lực cộng sản: tiểu đoàn, trung đoàn, cả sư đoàn trọn vẹn. Trong mọi trường hợp vì miền Bắc không dàn quân chiến đấu suốt chiều dài của mặt trận xác định, cuộc chiến tranh không giống như bao cuộc chiến tranh khác trước đây, những cuộc chiến tranh mà cấu trúc và lực lượng quân Mỹ đã thích hợp. Hơn nữa, thực tế, miền Bắc không bố trì một lực lượng không quân nào để tấn công (một vài chiếc máy bay, chủ yếu là MIG21 của Liên Xô được dành để phòng ngự các thành phố miền Bắc có 60% để bảo vệ các con đường tiếp tế cho miền Nam), và cho đến thời gian cuối, Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn không sử dụng các đơn vị xe tăng (vả lại họ có rất ít); phần lớn các yếu tố thông thường của quân đội Mỹ đều vượt trội. Đó là một cuộc chiến tranh hạn chế sử dụng phương tiện, một "nửa chiến tranh", cuộc chiến tranh mà quân đội Mỹ chưa chuẩn bị.
Quân lực Hoa Kỳ sử dụng một lực lượng hỏa lực cực kỳ mạnh để đánh các lực lượng Việt Nam-muốn nhìn thấy mà chẳng bao giờ xuất hiện hoặc họ đã biến sâu vào rừng rậm-Mỹ đã bắn hàng nghìn tấn đạn trên những cánh đồng và khu rừng trống không người, và tiến hành các trận đánh không bao giờ chiếm được trận địa của địa phương. Quân Mỹ đã làm trụi lá hơn 1 triệu rưỡi hecta rừng hòng phá trụi tán lá cây rừng đã che khuất đối phương khỏi mắt không quân và cả những mùa màng. Quân Mỹ đã cố gắng thống kê những tổn thất của đối phương để họ không thể tiếp tục cuộc chiến tranh, nhưng đành chấp nhận một chân lý: đối phương không suy yếu bao giờ-cát vẫn chảy đều, chiếc đồng hồ vẫn đầy cát.
Đối với ông Giáp thì ở một mặt nào đó có dễ dàng hơn, trước năm 1954, ông đã lãnh đạo một cuộc chiến tranh tương tự, với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lực lượng chủ lực đơn vị địa phương và quân du kích làm mất phương hướng kẻ địch. Nhưng mặt khác cũng rất khó khăn, cá nhân ông không đứng đầu các đội quân và không trực tiếp tiếp xúc với bộ đội. Ông có thể gián tiếp kiểm tra tác chiến qua những máy vô tuyến điện công cộng (các máy phát địa phương của các tỉnh truyền đạt những bản tin mã hóa; trong vài buổi có cả "đài giải phóng" trộn lẫn cả tin tức và tuyên truyền).
Ông cũng bố trí việc liên lạc vô tuyến điện giữa Hà Nội và các tổng hành dinh chính dân sự và quân sự ở miền Nam, nhưng chính vì tính chất của đội hình và sự phân tán của các đơn vị, ông không còn có mạng lưới vô tuyến điện nào để giữ thông tin liên lạc với các đơn vị đang chiến đấu ở miền Nam. Do vây ông không thể nắm được tin tức về quá trình tác chiến ngày này qua ngày khác, hoặc tốt hơn giờ này qua giờ khác mà phải chịu dùng thời gian vào việc xác định chiến lược và cho những ý kiến chỉ đạo chung.
Ông hạ mệnh lệnh qua trung gian do Hội đồng quốc phòng chấp hành, lúc này lúc khác định hướng tay lái để giữ vững mũi thuyền. Ông đưa ra những quyết định quan trọng và thỉnh thoảng tác động cụ thể lên các dữ kiện. Ví dụ, ít lâu sau khi có quyết định xâm nhập vào miền Nam, ông đã đưa đi những yếu tố riêng lẻ, hoặc những nhóm nhỏ chiến sĩ quân đội nhân dân để ủng hộ Việt Cộng, mà sự gia tăng hoạt động đòi hỏi quân giải phóng miền Nam, phải sử dụng những lực lượng quan trọng hơn để báo vệ lấy những vùng căn cứ cố định và để phân tán lực lượng rộng ra.
Tất nhiên, những nhà lãnh đạo cộng sản ở miền Nam vẫn tự mình lãnh đạo cuộc chiến tranh và điều hành kế hoạch tác chiến-thực tế, họ quyết định các chiến thuật địa phương và rõ ràng họ phải đối mặt với quân địch và chịu tổn thất. Về phần mình, các nhà lãnh đạo miền Bắc cũng góp phần quan trọng: họ cung cấp súng đạn cùng một tỷ lệ lớn về cán bộ và theo năm tháng, ngày càng nhiều chiến sĩ. Trong thực tế, miền Bắc cũng như miền Nam đều góp phần vào cuộc chiến tranh tuy khác nhau nhưng rất cơ bản. Một mình phía này hay phía kia đều không thể đem lại thắng lợi. Song cho đến bây giờ, Hà Nội và Sài Gòn vẫn còn bất đồng trong việc ai đã thực tế giành thắng lợi, câu hỏi này gây nên cay đắng trong những cựu chiến binh, những ai chiến đấu chống Pháp tin rằng họ đã già dặn hơn (ông Giáp đã nói rằng so với quân Pháp, quân Mỹ chỉ là những người mới vào nghề trong chiến tranh) còn những ai đã cảm nhận tiếng thổi của bom đạn Mỹ đều công nhận rằng họ mạnh hơn vì họ đã vượt qua điều đó.
Trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, trong một thời gian dài, đảng bộ Sài Gòn khẳng định chẳng làm được gì ở miền Nam Việt Nam và các sự kiện ấy chẳng có quan hệ gì. Đầu những năm 1960 Cụ Hồ Chí Minh đã nói: "Điều họ làm là có quan hệ đến họ. Đó là vấn đề của họ. Họ biết nhiều điều hơn chúng ta có thể biết", chấp nhận những khoảng cách ấy, Cụ đưa ra nguyên tắc: nhân dân miền Nam tự mình đấu tranh làm sụp đổ chính quyền và đuổi quân Mỹ ra khỏi miền Nam, do đó ngăn ngừa được những đòn chỉ trích của Mỹ và Trung Quốc đang tố cáo mở rộng chiến tranh, chưa nói đến sự chỉ trích có thể xảy ra của liên hiệp quốc, vì đưa lực lượng quân đội vào miền Nam là vi phạm hiệp định Gienève.
Muốn truyền đạt những lời dạy của Cụ Hồ; quân Việt Cộng trước hết sử dụng giao liên. Hàng nghìn và nghìn người bình thường, sử dụng bí danh và khẩu lệnh để bảo vệ giấy căn cước, đi khắp miền Nam Việt Nam để truyền đạt những mệnh lệnh và chỉ thị. Họ là những mạch máu bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt cho việc điều hành hoạt động cách mạng. Cũng như trong tất cả lĩnh vực khác của tổ chức cách mạng, họ phải tôn trọng những kỷ luật nghiêm minh và cụ thể.
Có ít nhất hai hành trình khác nhau giữa một nơi này và nơi khác. Tên các địa phương, các dòng sông, các ngọn núi... không bao giờ được nêu lên, kể cả các địa điểm gặp nhau. Phải tránh tò mò không cần thiết và chỉ được biết những gì có liên quan đến nhiệm vụ của mình. Không bao giờ để rơi những mẩu thuốc lá, mẩu giấy... dọc đường hành trình. Một trạm đặc biệt phụ trách việc điều hành các cuộc hành trình thâm nhập, thiết lập nội dung hoạt động đảm bảo thông suốt giữa các trạm giao liên và nơi nhận, cũng như là nơi phân phối tài liệu. Các trung tâm liên lạc thường xuyên-có thể là một cửa hàng hoặc một nhà riêng-thường do phụ nữ phụ trách; họ nhận những bức thư của giao liên chuyển đến, bảo đảm tính xác thực của tài liệu, bố trí việc tiếp xúc và tạo điều kiện làm việc (Trong một trung tâm ấy, sáu trăm thông báo được nhận, phân phối và gửi đi trong phạm vi một ngày đêm). Có những trung tâm y tế, các cán bộ dịch vụ y tế công cộng và những hộ lý. Tất cả đều phái chống kẻ phản bội bên trong cũng như bên ngoài, điều đó tăng thêm cảm giác mất an ninh và tinh thần cảnh giác.
Thận trọng và bí mật là yêu cầu ưu tiên tuyệt đối. Lúc nào cũng có những chỉ thị chính xác. Không bao giờ được nêu tên đơn vị, trang bị, địa điểm đóng quân, nhiệm vụ và phương án hành động. Không bao giờ cho người khác biết tên mình, cấp bậc mình, hoặc nhiệm vụ mình. Không bao giờ được giao một bí mật cho bạn bè hoặc người thân trong gia đình. Đồng thời xác minh và thi hành kỷ luật những người vi phạm kỷ luật này. Bí mật càng cần thiết khi cả hai bên đều sử dụng một số lớp gián điệp. Lúc đỉnh cao trong chiến tranh, CIA đã bố trí hàng nghìn người "làm công" sống giữa cộng đồng và hàng nghìn người thu gom tin tức được trả tiền hoặc có tính chất tình báo ngẫu nhiên (có số kiêm cả hai). Theo tin tức báo chí, miền Bắc đã có 30 đến 40 nghìn chỉ điểm trong chính phủ và trong cả các lực lượng quân Mỹ có sử dụng nhiều người Việt Nam ở các căn cứ để làm những công việc thứ yếu.
Đến cuối cuộc chiến tranh, sĩ quan Mỹ đã khám phá được những tư liệu liên quan đến một đơn vị phá hoại do ông Giáp tổ chức năm 1958 trong Bộ tư lệnh miền Đông Nam Bộ, phân đội công binh của tiểu đoàn 514 quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Những tư liệu này đã làm mọi người ngạc nhiên về trí tuệ của những người thành lập nên đơn vị, tất nhiên của những người lính Việt Cộng nói chung. Người ta đã rút ra kết luận về những cách thức tốt nhất để xây dựng tình cảm đồng đội mật thiết giữa các con người đã đặt trước các nhà chức trách một phương pháp huấn luyện con người rất khoa học để khắc sâu vào trí họ tinh thần kỷ luật tự giác.
Hệ thống này dựa trên những thủ tục khoa học và lặp đi lặp lại do cán bộ thực hiện không phải bằng phương pháp cứng nhắc mà với tình cảm gia đình săn sóc lẫn nhau.
Mỗi tổ gồm 3 người, tất cả các buổi sáng và buổi chiều tối, đều phải kiểm tra số lượng và tình trạng của vũ khí, đạn dược, các phương tiện kỹ thuật khác nhau và lương thực thực phẩm. Họ săn sóc đến tình trạng đời sống và sinh hoạt của nhau: lương thực và điều kiện làm việc, sức khỏe. Hai ngày một lần, chiều nào cũng điềm danh và kiểm tra vũ khí, đạn dược và lương thực. Cứ 3 ngày một lần vào ban đêm, người chỉ huy thực hiện những việc kiểm tra ấy đối với tất cả các phân đội và tổ 3 người mà anh ta chịu trách nhiệm...
Con người là đối tượng được chú ý thường xuyên: tư tưởng tình cảm, và quyết tâm là những yếu tố đầu tiên của trận chiến đấu này. Những cuộc gọi là kiểm thảo 10 đến 15 phút được tổ chức thường xuyên hàng ngày để kiểm tra lại tình hình con người, tổ và đơn vị. Những khuyết điểm bị phê bình. Cũng như mọi hoạt động của cộng sản phương Đông, những cuộc vận động phê bình và tự phê bình được tổ chức thường xuyên; mỗi người đều phải nhận biết những sai lầm của mình, phân tích phê phán và hứa sửa chữa. Hầu hết các đơn vị đều có tờ báo tường, trong đó mọi người có thể biểu lộ quan điểm, những bài viết và cả những bài thơ.
Những hội nghị kiểm thảo được tổ chức để giải quyết những vấn đề khác nhau có quan hệ đến chỉ huy và tổ chức, như lãnh đạo tư tưởng, chỉ huy quân sự, giáo dục huấn luyện, hành chính, lịch công tác và khen thưởng kỷ luật Một thành viên có thể được biểu dương vì giúp đỡ đồng chí đồng đội, về thái độ khiêm tốn và lễ phép đối với mọi người và nhân dân nói chung, hoặc có đóng góp tích cực và xây dựng đơn vị. Cũng có thể bị phê bình hoặc thi hành kỷ luật như những hành vi thiếu tích cực, hoặc vì có tính rất xấu, hoặc làm việc thiếu hiệu quả.
Muốn đảm bảo sức khỏe, mỗi đội viên của tổ 3 người và của các đơn vị đều phải tập thể dục và chơi thể thao. Việc đào tạo và giáo dục rất toàn diện: sử dụng mìn nổ, bảo vệ chống tai nạn, kéo dây điện và lý thuyết cơ sở về điện, ngụy trang, đâm lê, nhận thức và bắn ban đêm, vượt qua chướng ngại vật... Trước một trận đánh, những phương án chi tiết được thiết lập, bằng cách sử dụng một sa bàn cát chỉ rõ tính chất địa hình, cự ly, vị trí địch, bố trí của đơn vị bạn.
Yêu cầu rất lớn đối với từng cá nhân, nhưng để bù lại là tình cảm đồng chí đồng đội, tự hào của đơn vị và giá trị của công tác hoàn thành. Một mạng lưới quan hệ con người và rất hoàn chỉnh được thiết lập nhờ sự đan chéo giữa hệ thống chỉ huy và sự giám sát ở tất cả các cấp trong bậc thang cấp chức. Cái đích đạt được là bằng mọi cách “cố gắng giúp đỡ mọi người yêu nhau như trong một gia đình" (những từ dùng trong tài liệu). Hệ thống cho phép đàn ông và đàn bà tham gia đầy đủ vào hoạt động xã hội hằng ngày và cũng yêu cầu họ có trách nhiệm với nhau.
Một ngày công tác thật dài và căng thẳng. Mỗi đội viên của các đơn vị đều phải thức dậy lúc năm giờ kém, 15 phút trước khi mặt trời mọc và đi ngủ vào lúc 9 giờ tối. Lúc không phải chiến đấu, thức dậy là tập thể dục, tắm rửa, ăn sáng (trừ trường hợp có việc bất thường) sau đó hoặc chuẩn bị đi chiến đấu hoặc học tập hoặc họp tự phê bình và phê bình. Từ 11.00 giờ đến 13 giờ 15, được nghỉ ngơi. Chương trình buổi chiều gồm có: một lớp học mới, tập bắn súng lau chùi và bảo quản vũ khí. Từ 17 giờ đến 18 giờ tắm rửa và cơm tối, kèm theo nửa tiếng tự do. Tiếp theo là học tập và thảo luận; trước khi đi ngủ, điểm danh lần cuối rồi tắt đèn, người canh gác thường trực ở trạm gác suốt đêm.
Đóng quân ở vùng đồng bằng, phân đội công binh phần lớn thời gian ở trong làng; ẩn náu trong mạng lưới hầm hào trú ẩn, khi có báo động. Nhưng những đơn vị Việt Cộng đóng xa đồng bằng sống trong rừng rậm hàng tuần hàng tháng liền. Các đội viên thường ngủ trên võng mắc vào các cây Các đơn vị cơ động lên đường trước khi mặt trời mọc, chỉ dừng lại một lúc để ăn cơm chuẩn bị từ ban tối (Khẩu phần mỗi người là 2 lon gạo một ngày cùng vài ngọn rau và thỉnh thoảng có cá-đánh trên sông khi điều kiện cho phép). Trong thời gian tác chiến, mỗi tuần được nghỉ một ngày ở căn cứ; dần dần tổ chức được cải thiện hơn: trong căn cứ có cả bệnh viện hoặc bệnh xá, một tờ báo và một đường dây điện thoại nối liền với căn cứ bên cạnh. Chiến sĩ cũng nhận được ở đây tóm tắt chi tiết về nhiệm vụ sắp tới.
Suốt trong những thời gian hành quân và đóng quân ngoài trời, yêu cầu mọi người phải hiểu rõ kế hoạch tác chiến. Từ tổ 3 người đến phân đội và trung đội, những người chỉ huy phải nắm vững tinh thần của chiến sĩ. Tất cả các chỉ thị, mệnh lệnh đều phải truyền đạt đầy đủ và chi tiết. Phải giữ vững sức chiến đấu trong mọi lúc.
Về phạm vi hoạt động của phân đội công binh, các tư liệu chỉ rõ rằng chỉ riêng trong tháng 12 năm 1966, phân đội đã thực hiện hai trận tấn công vào kho vũ khí đạn dược, mười một trận vào sân bay Sóc Trăng; hai trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất; một trận vào khách sạn miền (vì họ cho rằng có 200 phi công Mỹ ở đó) và một trận tấn công bằng thuyền vào hai tàu chiến ở Vịnh Bắc Bộ và một trận vào tàu chở máy bay.
Tất nhiên họ cũng phải chịu tổn thất. Họ phải viết thư cho hai người thân về thương vong. Muốn vậy, trong thư gửi đi phải có chữ ký của hai người chỉ huy:
"Chúng tôi rất đau xót phái báo tin này cho gia đình về cái chết của... Toàn đơn vị rất đau buồn vì mất đi một đồng chí dũng cảm và chia sẻ nỗi đau thương của gia đình vì mất đi một người con thân yêu. Chúng tôi chân thành gửi đến gia đình lời chia buồn sâu sắc. Thay mặt ban chỉ huy tiểu đoàn 514 Ký tên Đoàn Minh Quang”
Rõ ràng trong các ghi chép cá nhân có quan hệ đến đơn vị này, trong các tư liệu đều nêu rõ hệ thống hết sức hiệu quả từ cá nhân cho đến phân đội: với tâm hồn thanh thản, Phụng có thể hoàn toàn tập trung cho trận đánh.
Trạng thái tâm hồn không bị hư hỏng. Tôi giữ vững đơn vị và bước vào cuộc chiến đấu không còn ai khác. Tôi thức dậy không đúng giờ. Tôi đã bị phê bình. Tôi hứa không bao giờ lặp lại sai lầm ấy nữa. Tôi không giữ gìn cho đơn vị. Tôi đã tức giận vì một người bạn đã kiểm tra đạn của tôi khi tôi đi vắng. Tôi hoàn toàn thận trọng, tôi giữ gìn cẩn thận trang bị của tôi.
Có người theo dõi việc viết thư khi tiếp xúc với người thân trong gia đình họ và bạn bè họ; họ cũng viết cảm tưởng vào nhật ký. Trong hai trường hợp, họ tỏ rõ những tình cảm ngạc nhiên và thơ mộng.
Thư gửi đến các "mẹ nuôi" của đơn bị bé Danh
Các mẹ thân mến! Chiều nay, con không ngủ được. Tâm trí con đang hướng về chiến dịch. Ngày 12 tháng sáng trăng này, con đang chìm đắm vào những suy nghĩ, trong khi những người khác ngủ ngon lành dưới ánh trăng. Con trai của các mẹ cầm khẩu súng trong tay và nhìn về vị trí của quân địch. Thỉnh thoảng một cơn gió thoảng qua làm con lạnh thấu xương. Con còn nhớ trước đây, mỗi lần hoa nở báo hiệu mùa xuân sắp đến, mọi người vui vẻ và sôi nổi. Nhưng mùa xuân này, làm sao con có thể vui sướng khi quân Mỹ tiếp tục gây nên bao nhiêu tang tóc đau thương, trong khi hàng nghìn tấn bom rơi xuống tổ quốc ta, đốt phá nhà cửa, làmrụng hết lá cây, buộc con người ta phải trốn tránh, phải nay đây mai đó, sống một cuộc sống đầy thử thách và thiếu thốn. Làm sao chúng con có thể vui sướng khi nghĩ đến điều đó? Khắp nơi chúng con đến, chúng con chỉ thấy phá hoại những đống tro tàn với vôi gạch vụn, nơi đó đã có những mái nhà vui vẻ. Chúng con phải làm gì bây giờ? Điều duy nhất chúng con có thể làm là biến căm thù thành hành động, sẵn sàng mọi lực lượng để đánh đuổi quân thù.
Trích sổ tay của Nguyễn Văn "Bé Danh":
Mùa thu qua, mùa đông tới, rồi mùa xuân quay lại. Cũng như vậy, tôi đã say sưa nhiệm vụ. Không xa lắm, tôi trông thấy những bông hoa màu sắc rực rỡ trước nhà một người không quen biết. Một cành tre nghiêng nhẹ nhàng trong gió? Khiến tôi nhớ lại quê hương thân yêu của tôi. Đơn vị chúng tôi đang dừng lại nghỉ ngơi trong một địa điểm cách biệt. Đôi giày của tôi còn bám đầy bụi đường. Tôi vội vàng viết thư này cho em. Và tôi gửi em tất cả tình yêu của tôi.
Thư của Phương Trinh gửi Sáu Kim đề ngày 25 tháng 3 năm 1967:
Em thân yêu! Tiểu đội của anh đã nhận thư của em yêu cầu cho phép cưới anh. Anh đã đọc thư ấy và anh giữ lại. Trong dịp Tết, mẹ và ba anh em trai anh đã đến thăm anh ngày 17 của tháng trăng, cha anh đã đi Sài Gòn. Xe ông bị đổ: ông bị gãy 1 xương sườn. Mẹ anh phải vội về đưa ông đi bệnh viện, bà không thể ở lại đây với anh lâu hơn được. Anh quên rằng nếu cha nằm xuống thì anh lo quá. Em yêu, anh chấp nhận ý định tổ chức cưới của em, nhưng anh muốn nói với em điều này. Chúng ta hiểu rằng lễ cưới rất quan trọng đối với chúng ta. Đám cưới có thể làm cho em sung sướng hoặc khổ sở đối với những ngày còn lại của em. Anh yêu em, điều đó có nghĩa là anh đã suy nghĩ nhiều và thận trọng về vấn đề ấy. Nhưng em yêu, tình hình không cho phép chúng ta cưới sớm! Em hiểu cho anh, đồng ý nhé. Cả hai chúng ta đều phục vụ công tác, trung thành với Đảng và Tổ quốc. Anh đã quyết định hy sinh cá nhân mình và những tình cảm của mình để làm cho cha mẹ vui sướng và để tiếp tục theo con đường cách mạng mà anh đã tự nguyện tham gia. Nếu chúng ta chờ đợi nhau, điều đó đã cho phép chúng ta thể hiện lòng chung thủy của chúng ta và để xem trong chúng ta ai là kẻ chung tình. Em có giận anh không? Nhưng anh đã quyết định rồi, tặng em tất cả tình yêu của anh và anh vẫn tiếp tục yêu em, nhưng trước hết anh phải tiếp tục chiến đấu.
Tư liệu cũng gồm cả những ghi chép về tiểu sử của các chiến sĩ trong đơn vị. Sau đây là tiểu sử chàng trai Võ Minh Thanh:
Tôi đi học từ 7 tuổi đến 12 tuổi, rồi tôi phải bỏ học để giúp đỡ gia dình. Đến năm 16 tuổi, tôi đi làm người giúp việc cho một chủ cửa hàng nước đá. Đến năm 18 tuổi, tôi làm công ở chợ, bắt lợn và giúp người ta cạo lông lợn. Tôi làm công việc ấy cho đến khi tham gia công tác dịch vụ y tế huyện ngày 23 tháng 2 năm 1966. Sau đó tôi gia nhập phân đội công binh.
Và sau đây là một bài khác của Ngô Rinh:
Cha mẹ tôi là những nông dân nghèo. Tôi được đi học trường làng cho đến năm 13 tuổi, rồi về giúp đỡ gia đình. Tôi làm việc như một đầy tớ cho đến năm 16 tuổi, rồi tôi gia nhập dân quân tự vệ của thôn. Tôi tự phân phát truyền đơn và đã 5 lần đứng gác trên đường cái, trong khi đơn vị tôi phá một ấp chiến lược, tôi đã 7 lần đứng gác cho các cuộc hội nghị. Cùng với lực lượng của huyện, tôi đã chiếm một vị trí ở làng Thạch Phú; ngày 23 tháng 7 năm 1963 tôi canh chừng phía sau, trong khi đơn vị tôi tấn công một tiểu đội địch đang dồn dân để lập ấp chiến lược, sau cùng tôi tự nguyện vào phân đội này và tôi đã được đơn vị công binh tỉnh huấn luyện.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 4:13 pm
Chương 18: Con đường mòn
Trong tấn công, phản công hoặc tổ chức phòng ngự ý tưởng tấn công luôn phải được ưu tiên: lúc nào cũng giữ vững quyết tâm.
Võ Nguyên Giáp
Đã hàng nghìn năm, trên các dãy núi Trường Sơn đã có những con đường mòn do súc vật hoặc con người vạch ra trong rừng rậm để di chuyển từ nơi này đến nơi khác tìm kiếm thức ăn. Trước chiến tranh, voi sống rất nhiều trong rừng rậm bao phủ lấy vùng biên giới giữa Việt Nam, Lào và Camphuchia, chà nát cây cối để tạo thành con đường nhỏ và theo thói quen của chúng, tiếp tục sử dụng con đường mòn đã vạch ra. Tất nhiên, những loài vật khác-hổ, linh dương, lợn rừng, khỉ... đi theo những dấu vết ấy.
Con người sử dụng những đường mòn ấy phần lớn là những dân tộc tiền sử Đông Dương thường gọi là dân tộc miền núi bị dân Việt Nam đuổi lên khỏi đồng bằng vào thời Trung cổ. Ở phía Bắc, những dân tộc này có nguồn gốc Mông Cổ, ở phía Nam họ thuộc dòng máu Australo asia-tique hoặc malayo-polynésien. Tất cả họ đều biết những con đường mòn này và sử dụng để tìm kiếm thức ăn hoặc viếng thăm một làng, một trại lân cận; họ trù tinh về nhà trước khi trời tối và không phiêu lưu khỏi làng bản của họ.
Đến giữa thế kỷ hai mươi, tất cả bỗng nhiên thay đổi. Đầu năm 1959, Võ Nguyên Giáp giao cho quân đội nhân dân mở một con đường vượt qua vĩ tuyến 17 để ủng hộ các lực lượng vũ trang ở miền Nam. Phần lớn con đường phải đi qua đất Lào (từ nhiều thế kỷ là vương quốc của loài voi) trước khi qua đất Camphuchia, có nhiều chỗ nối liền vào đất Việt Nam.
Vào mùa xuân, hai sĩ quan và ba chiến sĩ đi thực hiện việc tìm hiểu xuất phát từ Khe Hổ dưới chân núi. Người dẫn đường thứ nhất là một đồng bào dân tộc Vân Kiều trang bị một con dao rựa và một cung bắn tên tẩm thuốc độc. Sau trạm đầu tiên, họ tiếp tục tiến vào Nam, do một cụ già ít nói dẫn đường; rồi ngày tiếp theo một người đàn ông vận khố, và cuối cùng một chàng thanh niên gầy gò mồm luôn ngậm tẩu thuốc... Sau khi lập được một trạm gốc ở lân cận Thừa Thiên, những sĩ quan quay bước lại cho đến khi gặp nhau ở một điểm hẹn trước, nơi một đoàn mang vác đang đợi họ. Họ tiếp tục hướng dẫn đoàn đi vào phía Nam, mỗi ngày để lại một bộ phận nhỏ xây dựng trạm; họ thiết lập như vậy được một dãy trạm nối tiếp nhau gồm hai hoặc ba cái lều có sàn tương tự như lều của người miền núi để trông giữ mùa màng và tránh hổ.
Ngày lại ngày, hết tuần lễ này đến tuần lễ khác, càng đi sâu vào rừng núi vào phía Nam, đoàn người càng giảm dần, vượt qua các đỉnh núi đá vôi, vượt qua các suối thác trên đường đi. Họ mang những ba lô nặng đựng súng đạn và thực phẩm các loại, che mưa bằng tấm ni lông. Họ đã đến điểm đường mòn nối với đường 9 trên đất Lào từ Khe Sanh đi Savanakhet. Sau khi đi qua giữa hai vị trí của Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm giữ, họ đã đến sông Thạch Hãn và xuống đì thuyền. Tháng 8 ở phía Tây Thừa Thiên, họ đã có thể giao vũ khí đầu tiên cho Việt Cộng.
Năm sau để tránh quân ngụy miền Nam đến chống những chuyến xâm nhập này, một con đường mới được mở ra xa về phía Tây Nó đã trở thành huyết mạch chính của đường mòn Hồ Chí Minh-mà người Việt Nam thường gọi là đường Trường Sơn.
Như Hannibal vượt dãy Alpes, đội tiếp theo do ông Giáp tổ chức dùng voi để mở rộng đường mòn ở lân cận đèo Mụ Giạ trên biên giới Lào. Phía bên kia đường mòn tụt xuống một thung lũng trước khi trèo lên cao hơn vượt qua những đỉnh núi nham nhở để đến một cao nguyên có độ cao trung bình, rừng rậm bao phủ dày đặc có người dân tộc Vân Kiều và Lao thung ở đó, sau cùng đường đến vùng Tây Nguyên của Việt Nam.
Ông Giáp đã tổ chức một đơn vị phụ trách việc mở rộng và bảo vệ con đường: trung đoàn 559. Đơn vị này có 24 nghìn người, tổ chức thành những phân đội nhỏ dọc con đường, xe đạp thồ, người mang vác tiếp sức.
Dần dần, ông Giáp thiết lập một con đường mòn mà thường xuyên mở rộng và tu sửa cho xe đạp có thể vận tải được. Đó là những chiếc mập mạp có bộ phận của xe Peugeot giống như trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có bộ phận tốt hơn sản xuất ở Tiệp Khắc. Tất cả đều được cải tiến sao cho có thể vận chuyển được hàng hóa quan trọng, xe không phải người đạp mà đẩy đi nhờ một cái gậy buộc chặt vào ghi đông và phía sau yên để lái xe. Suốt cuộc chiến tranh Đông Dương, Việt Minh đã sử dụng loại xe này để thồ một lượng hàng trung bình đến 125kg một chuyến, gấp một lần rưỡi người mang vác nặng (kỷ lục tuyệt đối là 425kg, do ông Nguyễn Diệu nào đó lập được năm 1964, ông đã đẩy một chiếc xe đạp thồ nặng như vậy vượt qua một quãng đường 50km.
Song phần lớn hàng hóa vận chuyển trên lưng người khoảng 40kg. Một người Việt Nam trung bình không quá 50kg, như vậy có nghĩa là mỗi người mang trên lưng thực tế toàn trọng lượng của cơ thể mình trong nhiều ngày trên một cung đường hiểm trở và khó khăn. (Một kỷ lục khác do Nguyễn Viết Sinh lập khi ông chở 45kg đến 50kg hàng trong 4 năm, đã chở được 55 tấn hàng vượt qua tất cả 41.000km trong đúng 108 ngày mang vác-như thế ông ta có thể mang cả thân thể ông đi một vòng quanh thế giới! Lập kỷ lục ấy, ông đã được phong tặng anh hùng giải phóng miền Nam). Khoảng 10% người mang vác chết trên đường mòn, thật có gì đáng ngạc nhiên hơn. Phần lớn bị bệnh sốt rét, càng ốm nặng thêm vì kiệt sức và điều kiện sinh hoạt rất thiếu thốn. Nguy hiểm nhất là sốt rét rừng và ly amip.
Việc mang vác trên lưng người tiếp tục từ năm 1954 đến năm 1964, sang năm 1965, chiều rộng của con đường đã được mở ra 5m và một vài đoạn đường được rải nhựa. Chỉ riêng năm 1965, đoàn 559 đã chở bằng xe hơi một lượng hàng bằng toàn bộ lượng hàng chở trên lưng người trong 5 năm trước.
Hàng nghìn và chục nghìn đàn ông và đàn bà thuộc các đơn vị khác nhau làm việc trên đường mòn. Có những xe vận tải, những phân đội thợ sửa chữa mặt đường và vạch đường rẽ cho xe ủi; những đơn vị công binh trông coi các trạm, những khẩu đội cao xạ bảo đảm phòng không, những đơn vị thông tin bảo đảm liên lạc suốt dọc con đường. Tất cả ở Lào. Không ít hơn 80.000 chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự chỉ huy của tướng Võ Bẩm.
Đường mòn trở thành huyết mạch chính của hệ thống công tác hậu cần phức tạp bảo đảm tiếp tế cho Quân đội nhân dân Việt Nam của ông Giáp và quân giải phóng miền Nam (Việt Cộng) ở miền Nam Việt Nam, và đưa thương binh đến những bệnh viện hiện đại. Con đường là một trong những thành công đẹp nhất của trí tuệ quân đội trong lịch sử loài người; được cải tiến tiếp tục con đường mòn cuối cùng trở thành 3 lối đi song song từ Bắc vào Nam cộng với bảy nhánh lớn: tất cả gần 20.000km đường cái, có bố trí một hệ thống xưởng sửa chữa, các kho thực phẩm và vật chất kỹ thuật, các bệnh viện, các trung tâm kiểm soát và điều hành tiếp chuyển. Các trung tâm thường ở trong các hang, đôi khi khá rộng đủ chỗ cho một tổ điện đài, có khi đủ chỗ cho một bệnh viện dã chiến hoặc một sở chỉ huy. Khi doanh trại phải xây dựng ngoài trời, vị trí đặt trạm phải lựa chọn cẩn thận tránh lũ lụt trong mùa mưa và lá rụng trong mùa khô cây không còn che giấu được doanh trại.
Các đội "Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước" làm việc ngày đêm để giữ cho hệ thống chạy đều (có thể kể một ví dụ: sau một đợt bom, các đội đặc biệt phải sửa chữa đường dây điện thoại ở hai trăm tám mươi sáu điểm khác nhau). Có đến 50.000 đội viên phần lớn là nữ thanh niên có các chàng trai giúp sức trong đó có những chàng trai mới 15 tuổi, phụ trách sửa chữa cầu đường-đồng thời cũng phải xây dựng hàng trăm cầu; đôi khi để che giấu vết đường mòn, những dòng sông tạo thành một bộ phận của hành trình. Trong một số trường hợp những con sông là con đường: hàng hóa được đưa xuống dòng nước đựng trong một túi ni lông, hoặc kết thành những cái bè nổi giống như hòn đảo nhỏ tránh máy bay Mỹ phát hiện. Cũng vì lý do đó, nhiều cầu được xây dựng vài chục centimet dưới nước. Thuyên bè đi theo dòng Se không, một nhánh của sông Mêkông, trên một quãng đường hơn 100km.
Một cái hẻm mà người Việt Nam gọi là "cổng trời" là điểm xuất phát của đường mòn. Lúc ban đầu, xe đi trên đường mòn là xe gaz của Liên Xô từ thời Điện Biên Phủ để lại chăng bao lâu được thay thế bằng xe tải hiện đại có đến hàng nghìn chiếc từ các nước cộng sản khác gửi đến. Tốt nhất là loại xe Zil Liên Xô, loại xe 6 bánh có thể chở đến 6 tấn. Tất cả các loại xe đều được ngụy trang bằng cành lá cây. Từng đoạn, xe nối tiếp nhau hành trình. Thường lệ, các lái xe thực hiện một chuyến đi trên một đoạn đường đã xác định trong một đêm, đi xe có hàng, về xe không trong đêm sau. Họ phải trở về căn cứ trước khi trời sáng để đưa xe vào nơi trú ẩn.
Đến năm 1972 người Việt Nam có thể đưa hàng bằng xe hơi vào các mặt trận khác nhau: Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ chạy cả ngày đêm. Những đoàn người chạy mang vác trước kia phải mất 6 tháng, đến năm 1975 xe chở hàng chạy quãng đường ấy chỉ mất một tuần lễ.
Chất đốt trở thành vấn đề thường xuyên: cũng như người mang vác ăn trên đường đi một phần lương thực mang đến Điện Biên Phủ, xe tải cũng ngốn hết một lượng chất đốt quan trọng trong cuộc hành trình. Những năm đầu, dùng xe "téc" chở. Sau đó phải đặt đường ống mới đủ cung cấp cho xe tăng, xe kéo pháo một số lượng lớn chất đốt Năm 1975 một đường ống nối liền miền Bắc với đầu ra con đường mòn ở miền Nam: núi cao 1000m và sông sâu.
Không quân Mỹ không ngừng đánh phá đường mòn. Ban ngày các tốp máy bay đánh xe và người bằng mắt thường, ban đêm họ dùng đèn pha hoặc đuốc chiếu điện sáng. Họ đặc biệt chú ý đến những đoạn đường khó khăn nhất, thí dụ đoạn đèo Xeng Phan hoặc đoạn vùng Tchépone, gồm Khe Sanh. Theo tin tức Việt Nam, một đoạn đường hai kilômet là phải chịu 21.000 tấn bom trên không trong một tháng, trung bình mỗi ngày 700 quả bom-hai phút một quả. Ngày cũng như đêm, bao nhiêu là tiếng đá lở bao nhiêu đám cháy rừng, 50% bom khổng lồ. Những đội phá mìn đi tháo ngòi nổ, cũng có hàng trăm bom nổ chậm các loại nổ khi đoàn người phá đường đang làm việc. Một loại bom được gọi là "bom có vòi" khi rơi xuống, nó thả ra nhiều dây bom dài 8m, chỉ khẽ chạm !à bom nổ văng ra những mảnh sắt về tất cả các hướng.
Từ năm 1965 đến năm 1973, trong các kế hoạch tác chiến Steel Tiger va Tiger Hound, không lực Hoa Kỳ đã thả hơn hai triệu tấn bom xuống địa phận Lào của đường mòn. Theo người Việt Nam, họ đã phải trả giá gần 2500 máy bay (Nguồn tin của Mỹ trái lại đưa tin 500 máy bay bị bắn rơi bằng 1/7 toàn bộ máy bay bị bắn rơi ở miền Nam Việt Nam. Hầu như tất cả những tin tức tổn thất do Việt Nam đưa tin cũng quá nhiều). Một B52 có thể ném xuống hơn 100 quả bom nặng 750 livres (nửa cân) trong 30 giây, tàn phá cây cối trên một vùng dài 1,5km, rộng 400 mét. Bom Daisy Cutter loại bom lớn nặng 1500 livres (700kg) đào một hố bom rộng 100m đường kính. Mặc dù sử dụng mọi thủ đoạn kỹ thuật, tỷ lệ hiệu quả chỉ là một người Bắc Việt Nam bị chết trên 300 quả bom giá khoảng 40 nghìn đô la. Theo các nhà thống kê Hoa Kỳ vào năm mà đường mòn được sử dụng nhiều nhất (có khoảng 150.000 người Việt Nam), đã có đến 171.000 tấn bom ném xuống đường mòn: hơn một tấn bom cho một kẻ địch. Song, không có gì có thể ngưng việt tiếp tế thường xuyên các loại trang bị và vật chất trên đường mòn. Kể cả việc thay đổi tự nhiên: đã nhiều lần, những đám mây bao lấy đất Lào, dội mưa rào xuống làm đường có lúc không đi được.
Song hành động của Mỹ cũng có đôi chút hiệu quả. Khi các phi công Mỹ phá hoại một quãng đường, có khi người Việt Nam phải mở một đường rẽ trong rừng rậm, điều đó làm chậm hành trình. Theo tin của Lầu Năm Góc, muốn đưa được 600 xe tải đến đích, Việt Nam phải xuất phát 1000 xe đề phòng bom đạn và khó khăn dọc đường. Trước một tỷ lệ hao mòn như vậy, ông Giáp không ngừng phải bổ sung những xe mới-nhưng với viện trợ một tỷ đô la một năm của Trung Quốc và Liên Xô, điều đó chẳng thành vấn đề.
Cuối năm 1967, nhóm "Jason" (hội đồng những giáo sư và nhà khoa học chuyên đóng góp những ý tưởng mới tăng cường lực lượng cho chiến tranh) dự định phát triển một hệ thống máy dò điện tử ở trên cao kèm một mạng lưới vô tuyến để phát hiện mục tiêu cho máy bay. Hệ thống này lấy tên là Igloo White gồm máy dò mìn dùng những dù "không nhìn thấy" thả xuống ngụy trang như những măng tre cắm xuống đất, và những máy nghe như lá mắc vào cành cây. Những máy cắm xuống đất để phát hiện độ rung của mặt đất, những máy mắc vào cành cây là một tín hiệu vô tuyến điện. Những máy này thu độ rung và tiếng động khi người và xe xô đi qua và phát tín hiệu vô tuyến điện cho máy bay thu. Có khi máy có thể nghe được tiếng người. Các tín hiệu được truyền về căn cứ Na khom Phanom ở Thái Lan, ở đó những máy điện toán của trung tâm tình báo xâm nhập, xử lý thông tin. Các tin tức đã xử lý được chuyền đến các trung tâm điều hành bắn. Trên cơ sở những tính toán chính xác ấy các bản vẽ điểm phát hiện hoặc cho máy bay B52 và những máy bay khác sẵn sàng cất cánh.
Tất cả những công đoạn ấy đều tiến hành rất nhanh chóng, nói chung mục tiêu có thể bị tấn công chỉ vài phút sau khi được tín hiệu báo động của máy dò tìm điện tử. Nhưng rất nhiều trường hợp mục tiêu đã di chuyển mất, hoặc giảm thực tế không có mục tiêu nào cả: một người Việt Nam một mình đã trông thấy máy dò tìm và cố ý cho máy chạy trước khi biến vào rừng hoặc đưa gần máy một cái máy điện thoại từ gây nên tiếng động cơ đang hoạt động. Một con voi hoặc một con vật khác cũng có thể phá hoại máy. Vả lại voi, hổ, lợn rừng và khỉ... ngày càng bị bom đạn tiêu diệt hoặc binh sĩ cả hai phía bắn "trò chơi thể thao"-hoặc thỉnh thoảng quân Bắc Việt Nam giết làm thực phẩm. Nhưng Igloo White được đưa vào sử dụng quá muộn không có tác dụng thiết thực trong "cuộc chiến trên đường mòn", nó đã được sử dụng mấu chốt trong chiến dịch Khe Sanh.
Điều phi lý nhất trong lịch sử cuộc chiến đấu này là đầu năm 1967 Lầu Năm Góc đưa tin ông Nguyễn Chí Thanh và bộ đội Việt Nam cùng với quân giải phóng miền Nam đã có thể chiến đấu với 60 tấn lương thực cung cấp thêm mỗi ngày. Thật ra ba năm sau, người ta được tin rằng trong thời kỳ một năm "68.000 tấn vật chất được đưa vào Nam bằng con đường mòn và có 21.000 tấn được đưa đến đích. Gần 60 tấn mỗi ngày. Chỉ cần 10 xe tải Zil chuyên chở để cho quân Việt Cộng có thể tiếp tục chiến đấu”.
Về phương tiện chiến lược, cuộc chiến trên đường mòn là sự đáng kể ở Việt Nam. Chỉ có cuộc chiến ấy tiếp tục không dứt.
Trích nhật ký của nhà báo trẻ Dương Thị Xuân Quý, một người mẹ Việt Nam rời Hà Nội nãm 1969 đi theo đường mòn và bị quân Nam Hàn giết năm 1970 ở một huyện thuộc tỉnh Quảng Nam.
Ngày 9 tháng 5 Lý, con tôi hôm nay đã 17 tháng! Mặt trời có chiếu sáng trên con tôi hôm nay không? Con ở đâu? Ở đây mẹ đang ở trong một khu rừng long lanh, khô ráo và tràn ngập ánh mặt trời, hình như rừng xanh cũng đang muốn kỷ niệm ngày sinh nhật của con. Khi mẹ thức dậy, mẹ nghĩ đến con. Con trai tôi 17 tháng, mẹ tự nghĩ, con đi thế nào? có bị sốt không? mẹ tưởng rằng con đã quên mẹ. Con thiếu mẹ đến nỗi mẹ không thể tưởng rằng mẹ còn có thể chịu đựng được lâu hơn nữa. Năm ngoái, mẹ đã quạt hàng giờ để cho con được mát. Bà đang làm gì cho con bây giờ?
Ngày 13 tháng 5 Những mụn nhọt trên lưng làm tôi đau nhức suốt đêm. Không thể ngủ được hoặc suy nghĩ trong sáng. Tôi không thể nằm dài lưng; và cả bên cạnh. Thật khổ sở! Muốn đỡ đau, tôi đưa võng luôn-người tôi nóng ran. Đã nhiều ngày tôi không thấy đói, tôi chưa bao giờ hình dung được rằng ăn cũng khó nhọc quá. Vì vậy mấy tuần nay tôi không tắm, bây giờ nhất định tôi phải tắm, tắm dưới sông ngay cạnh bếp nấu ăn của các chiến sĩ. Tôi căng một tấm ni lông giữa hai cây và tôi tắm sau bức màn che ấy. Tắm xong tôi cảm thấy dễ chịu quá nhiều người khuyên tôi không nên tắm ở sông. Họ bảo: đầy cả lính! Lính hay không tôi đã tắm tốt và điều đó không đặt ra vấn đề gì cả. Ồ! Ồ! Ồ! Thật khủng khiếp , đổ bệnh đúng lúc này. Tôi cần phải chịu đựng được.
Ngày 14 tháng 5 Tôi đã đuổi kịp một đơn vị bộ binh đi qua sông Sepon trên một cái boong tàu. Những người đàn ông mang những kiện hàng lớn. Vì họ đã đến gần mặt trận, chắc chắn họ có nhiều đạn bắn. Dưới ánh sáng vàng nhạt của mặt trăng tôi nhìn thấy những khuôn mặt đẫm mồ hôi của thanh niên đi qua. Dẫu rằng họ mang súng, mang súng máy, mang lựu đạn và cái ba lô trên lưng, nhưng họ vẫn vững bước tiến lên. Đã 3 tháng đi đường, hôm nay họ đến gần mặt trận.
Ngày 16 tháng 5 Buổi sáng, tôi đi hái lá khoai lang với Văn và Oanh. Tôi trông thấy một cái mộ cô đơn có một vòng hoa nhỏ. Tôi chắc rằng vòng hoa của một cô gái trẻ. Ai đã tặng anh vòng hoa, người chiến sĩ không quen? Hai cái nhọt trên lưng tôi đã vỡ ra, một tự nó vỡ, và cái kia nhờ Hường. Họ đã cho Sulfamide và băng lại cho tôi nhưng mỗi lần chạm ba lô vào, tôi lại đau.
Ngày 18 tháng 5 Da tôi tái đi và tôi đã kiệt sức, tôi rất đau ở mắt cá chân và đầu gối. Sáu giờ, tôi qua đường số 9, phải chạy vì một máy bay đến gần. Sang bên kia đường, tôi đứng dưới một cơn dông, nắng nóng hơn bao giờ hết. Có lệnh thôi cười, đùa; Thắng phàn nàn: "tôi không hiểu tại sao các chị lúc nào cũng cười, có chuyện gì buồn cười". Hữu rụt rè phản đối: "Họ cười đơn giản vì họ còn trẻ và như vậy cũng tốt, để cho họ yên!". Thắng nói rằng bọn Mỹ đã thả những máy dò tìm có khả năng thu được mọi tiếng nói nhỏ, và bây giờ? Chúng nó thu được những tiếng cười? Không phải đùa đâu? Nghỉ ngơi một lúc, chúng tôi lại lên đường. Bộ phận tiền trạm đã chuẩn bị được một xoong cháo to. Tôi lấy đầy cà mèn và ăn hết, sau đó, chúng tôi sờ soạng mắc tăng, võng trong bóng tối. Một ngày qua! Đôi chân và quần tôi bám đầy bùn, nhưng không có nước để rửa. Tôi lau chân và nằm dài trên võng ngủ, thức dậy lúc 6 giờ.
Ngày 29 tháng 5 Gặp một toán 13 đứa trẻ đến từ Gia Lai, chúng đã đi bộ một tháng rưỡi, nhìn thấy chúng với cái ba lô tí hon, tôi thực sự xúc động. Đứa nhỏ nhất là một thằng con trai 11 tuổi, tóc xoăn chân tay gầy gò, đứa nhiều tuổi nhất mới 14 tuổi. Chúng đi ra Bắc để tiếp tục học tập, chúng mang theo gạo và tự nấu lấy ăn, chúng làm tôi nhớ đến Lý. Ô! Con trai tôi. Mọi người đi theo đường Trường Sơn: chiến sĩ, dân sự đàn ông và đàn bà, nhưng lần đầu tiên tôi trông thấy trẻ con.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 4:20 pm
Chương 19: Tấn công Tết Mậu Thân
Đường mòn Hồ Chí Minh đã cho phép ông Giáp tổ chức những trận tấn công năm 1968, dẫn đến chấm dứt can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Chính theo con đường đó mà hàng chục nghìn chiến sĩ và vô số vật chất cần thiết được đưa vào tấn công Tết Mậu Thân và trận đánh khủng khiếp ở Khe Sanh. Cũng như Điện Biên Phủ đối với quân Pháp, Khe Sanh đối với quân Mỹ là bước ngoặt mấu chốt của cuộc chiến tranh.
Theo những số liệu báo cáo với tướng Westmoreland năm 1967 là một năm không tốt lành đối với Việt cộng: Tổn thất đào ngũ, súng đạn vào tay quân thù, kilômét đường mở ra cho tự do đi lại, tăng thêm số lượng và diện tích những "vùng vòng" do chính quyền ngụy kiểm soát...
Tất nhiên, tổn thất của quân Mỹ cũng tăng lên: từ 2.500 năm 1965 tăng lên 33.000 năm 1966 và 80.000 năm 1967, đã đến lúc cần có sáng kiến.
Đầu năm 1968, Westrnoreland tập trung sư đoàn 1 ky binh, sư đoàn không vận 101 và các đơn vị Mỹ và miền Nam Việt Nam khác vào các cứ điểm cách Khe Sanh 50km. Cuộc hành quân này trong khuôn khổ của cuộc di chuyển về phía Bắc, về phía vùng đóng quân của quân đoàn 1, một bộ phận xuất sắc của quân đội ông Giáp dự kiến để tấn công mùa xuân. Thật là dịp may của mùa khô được chứng kiến những trận đánh mới gần như chắc chắn. ơ vùng đồi núi có rừng che phủ ở bờ Nam khu phi quân sự, Westmoreland vững vàng đợi họ với gần 50 tiểu đoàn bộ binh. ông tập trung trong khu vực tất cả gần 250.000 người kể cả các phân đội của lữ đoàn Nam Hàn "Rồng Xanh".
(Trong một cuộc tiếp chuyện tác giả, tướng Westmoreland đã nhắc lại: năm 1965 khi ông báo cáo với tổng thống Johnson ở Honolulu, tổng thống đã hỏi ông rằng đứng ở cương vị ông Giáp thì ông sẽ làm gì, Westmoreland trả lời ông sẽ chiếm lại hai tỉnh ở phía Tây của miền Nam Việt Nam: xa các cảng nước sâu, không có đường giao thông và sân bay tốt, không thể đưa nhanh quân tăng cường từ miền Nam lên-và ông sẽ chiếm cố đô Huế để tạo nên một thắng lợi về tâm lý. Ba năm sau, ông Giáp đã tần công những tỉnh ấy và Huế-với những lý do khác, nhưng có tầm quan trọng hơn về chiến lược).
Westmoreland hy vọng lôi kéo ông Giáp vào một tình trạng mà ông có thể sử dụng hỏa lực mạnh của pháo binh và máy bay để tiêu diệt những đội quân xuất sắc của ông Giáp. Vào trận, ông tính sẽ hoạt động về phía Tây và xuất phát từ Khe Sanh, đánh chiếm Lào với 3 sư đoàn. Mục tiêu của cuộc hành quân này là cắt đứt đường mòn rồi quay ngoặt về hướng Đông tận đến bờ biển để kết hợp với các đơn vị hải quân sẽ đổ bộ lên khu vực tác chiến: Cả hai cuộc hành quân đó sẽ đưa các trận đánh ra miền Bắc và chuẩn bị con đường thất bại cho ông Giáp. Chỉ còn thiếu ngọn lửa xanh của tổng thống.
Võ Nguyên Giáp cũng có những dự án. Ông sẽ có các trận chiến đấu vào miền Nam, với một lực lượng chưa từng có. Tháng 10 năm 1967 Bộ Chính trị Hà Nội đã đồng ý về nguyên tắc với chiến dịch Đông Xuân của ông Giáp bao gồm một cuộc tổng công kích quy mô lớn vào miền Nam trong lễ tết trước ngày 30 tháng Giêng 1968 năm Mậu Thân.
Chuẩn bị chiến dịch mùa Khô năm 1967/1968, ông Giáp dự kiến 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất cuối mùa thu, tổ chức một loạt trận tấn công lên cao nguyên miền Trung để thử nghiệm chỉ huy và vật chất kỹ thuật của quân địch. Giai đoạn thứ hai là chiến dịch du kích vào đô thị quy mô lớn phối hợp một cách lỏng lẻo, trong lúc đó đơn vị của quân đội nhân dân tiếp viện đắc lực cho quân giải phóng miền Nam. Giai đoạn thứ ba với tên là "làn sóng xanh" phải là những trận tác chiến ở thành thị và nông thôn kết hợp với một chiến dịch chiến tranh tâm lý làm lung lạc tinh thần miền Nam, dựng lên câu chuyện hoang đường: "Tổng khởi nghĩa".
(Căn cứ vào tin tức tình báo, tướng Westmoreland bị nhầm khi phân tích tiến trình của các sự kiện: ông nghĩ rằng chiến dịch mở đầu bằng những trận đánh biên giới, kèm theo tấn công Tết Mậu Thân để kết thúc bằng một trận đánh mới theo kiểu Điện Biên Phủ ở Khe Sanh, để cho Hà Nội hết những con chủ bài ngoại giao, khi mở hội đàm hòa bình, nhiệm vụ của Điện Biên Phủ trước hiệp định Giơnevơ).
Ông Giáp gửi vào Nam 2 sĩ quan liên lạc tướng Lê Trọng Tấn và đại tá Lê Ngọc Hiền, họ mang theo trên đường mòn Hồ Chí Minh một sơ đồ tổng quát về một cuộc tấn công bất ngờ vào các lực lượng liên minh ở tất cả các khu vực có tầm quan trọng nhất ở miền Nam Việt Nam. Sau khi trình bày với các thủ tướng quân sự và chính trị của Trung ương Cục miền Nam, họ đến Sài Gòn để thông báo cho các sĩ quan về thuận lợi của phương án này. Tháng Giêng, trong cuộc hội họp lần thứ 14 Trung ương Đảng, đồng ý với kế hoạch của ông Giáp trong khi khẳng định rằng có hơn 400 căn cứ vững chắc trên toàn các lãnh thổ miền Nam Việt Nam có thể giữ bí mật vũ khí, lương thực và thuốc men cần thiết cho đến giờ H. Kế hoạch này rất phức tạp về tác chiến và hậu cần, đòi hỏi một thời gian chuẩn bị dài.
Cuốn "lịch sử chiến tranh" xuất bản ở Hà Nội năm 1988 đã kể lại: "Từ mùa hè năm 1967, các kế hoạch của một trận tấn công quy mô lớn đầu năm 1968 đã được thiết lập. Mục tiêu là làm tan rã chính quyền miền Nam bằng tấn công vào các thành phố thị xã có tầm quan trọng nhất định là những khâu yếu nhất. Đầu năm 1968, toàn quốc chuẩn bị Tết năm mới. Ngày 20 tháng giêng, để thu hút sự chú ý của quân đội và chính quyền Mỹ, quân đội nhân dân đã tổ chức một trận tấn công trên đường quốc lộ 9 trong khu vực Khe Sanh. Phản ứng lại, tướng Westmoreland đã tăng cường quân số Mỹ trong khu vực này".
Từ tháng 10, ông Giáp đã ra lệnh đưa người và vật chất kỹ thuật cần thiết lên con đường mòn và bắt đầu đi sâu vào miền Nam.
Ngày cũng như đêm-chủ yếu là ban đêm, hàng đoàn người và phương tiện tiếp cận mục tiêu theo những đường cái đường mòn và dòng sông, cuối cùng những đoàn đầu tiên đến xa nhất: ở đồng bằng sông Cửu Long. Nếu Bộ Chinh trị không phê chuẩn vào kế hoạch (rất ít khả năng) những nỗ lực ấy cũng không mất mát gì: các chiến sĩ cũng đã nhập vào các đơn vị đã đóng ở miền Nam và phương tiện sẽ sử dụng cho các kế hoạch tác chiến khác.
Buổi sáng ngày 29 tháng 10, trung đoàn 273 của quân giải phóng miền Nam có trung đoàn 165 của quân đội nhân dân yểm trợ mở đầu giai đoạn 1 đánh chiếm các cơ quan hành chính của Lộc Ninh (tấn công có tính thăm dò địch). Một trận chiến đấu quyết liệt đã xảy ra: sau một tuần lễ, quân Việt Cộng phải rút lui, để lại trên trận địa 852 người chết (theo những nguồn tin khác, tổn thất thực tế lên đến 2.000 người). Trong thời gian ấy, trung đoàn 88 của quân đội ông Giáp đã triển khai trận địa, cùng với các trung đoàn 272 và 273 của quân giải phóng miền Nam, trung đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam đã bố trí một phương tiện kỹ thuật hiện đại: phóng tên lửa, phóng lựu đạn, máy thu phát mang trên người, súng cối 120rnm, tên lửa 122mm (trong trận đánh Lộc Ninh, viên tư lệnh Mỹ đã tuyên bố cái huyền diệu và có thể là huyền thoại-"điểm sụp đổ" đã đến, khi biết rằng những tổn thất của Việt Cộng vượt qua khả năng tuyển mộ của họ. Ông đã khẳng định năm vừa qua, Việt Cộng đã thương vong 60.000 người mà chỉ tuyển mộ được 20.000 người). Ít lâu sau, trung đoàn 88 của Quân đội nhân dân Việt Nam tấn công Sông Bé còn trung đoàn 277 của quân giải phóng miền Nam phục kích và đánh tan nghiêm trọng một tiểu đoàn Big Red One.
Ngày 15 tháng 11, quân đội của ông Giáp tấn công Đắc Tô, căn cứ lực lượng đặc biệt Mỹ đã tăng cường lực lượng mạnh sau khi được tin tức tình báo của một kẻ đào ngũ của quân đội nhân dân. ở Đắc Tô bây giờ tập trung sư đoàn 4 bộ binh, lữ đoàn 1 của sư đoàn ky binh không vận, một lữ đoàn không vận (lữ đoàn 173 , đã tham dự Junction City) thêm 6 tiểu đoàn của quân ngụy miền Nam đang đóng quân ở một khu rừng rụng lá. Sau những trận kịch chiến trên một chu vi rộng gần 500km2, quân lực Mỹ đã bắn 170.000 đạn pháo và các máy bay ném bom của không lực Hoa Kỳ và hải quân đã 2.100 lần xuất kích.
Đắc Tô cũng như ở Lộc Ninh, Westmoreland đã gọi B.52 để tăng cường hỏa lực cho pháo 175 và các khẩu pháo khác. Mặc dù sử dụng tốt cả các biện pháp đó, ở Đắc Tô quân Mỹ đã bị thiệt hại nặng nhất so với các cuộc hành quân khác trong cuộc chiến tranh Việt Nam, trừ cuộc tấn công Tết Mậu Thân: hơn cả những tổn thất trực tiếp ở Khe Sanh. Trong trận ác chiến đó, 1.200 chiến sĩ Việt Cộng và Quân đội nhân dân Việt Nam đã bị chết-phía Mỹ có 305 lính Mỹ chết chưa kể 985 bị thương (trong đó 124 người chết của lữ đoàn 173 không vận).
Trận tấn công Khe Sanh trước tấn công Tết Mậu Thân 10 ngày lập tức được các phương tiện thông tin đại chúng và công chúng Mỹ chú ý quan tâm-về tầm quan trọng quân sự ở mức độ nào đó, chẳng có ý nghĩa gì. Trận Khe Sanh đã chiếm bình quân 25% thời gian tin tức buổi chiều có khi đến 50%. 38% lượng tin tức do phóng viên Associated Press có mặt tại chỗ cung cấp. Westmoreland khẳng định rằng phản ứng đối với cuộc tấn công và những tuyên bố của Hà Nội ám chỉ những cuộc thương lượng có thể xảy ra, báo chí, quốc hội, các trường đại học và kể cả một số thành viên của chính phủ "đã thực hiện đúng nhiệm vụ mà người ta chờ đợi họ, như họ đã được đọc kịch bản". Do vậy, đối với người Mỹ, Khe Sanh trở thành biểu tượng của việc xác định, nếu phòng ngự thành công có thể ở mức độ nào đó quên đi những thất bại và đau khổ trước đây.
Giáp được lợi lớn từ chuyện phản ứng quá đáng đó: Vì một mặt nó tăng thêm sự chống đối Hoa Kỳ, nhưng nhất là vì nó cho phép ông cũng như những người lãnh đạo cách mạng miền Nam hoàn thiện công việc chuẩn bị chocuộc tấn công Tết Mậu Thân, không lo về quân đội Mỹ và quân ngụy miền Nam đã đồng ý cho một bộ phận quan trọng quân số đi nghỉ tết kèm theo tạm ngừng chiến ngày lễ truyền thống của dân tộc (song đã có báo cáo của dịch vụ tình báo cho biết sẽ tấn công nhân dịp tết, không quên rằng giảm phép làm căng thẳng tinh thần của binh lính; ngoài ra còn có tin những đơn vị đóng quân quá xa ở phía Nam không thể thực tiếp tham gia chiến đấu trên miền biên giới).
Do vậy, khi các cuộc tấn công bắt đầu, rất nhiều binh lính Mỹ cùng với 1 nửa dân số của quân nguỵ miền Nam Việt Nam đang đi phép. 5 thành phố lớn ở miền Nam bị tấn công, cùng 36/44 tỉnh ly, 64 huyện, hàng chục vị trí đóng quân và hơn 20 căn cứ quân sự của Mỹ bị tấn công. Theo tướng Westmoreland, lực lượng đối phương khá mạnh vào được 13 thành phố. Nhiều trận chiến kéo dài nhiều ngày ở Kontum, Buôn Ma Thuộc, Phan Thiết, Cần Thơ, Bến Tre và Sài Gòn. Các trận tấn công đồng loạt trên toàn bộ đất nước theo các nguồn tin có 84.000 người tham gia (phần lớn là quân giải phóng miền Nam, nhưng cũng có quân chủ lực miền Bắc) làm cho người ta tin tưởng vào các nhà lập kế hoạch ở Trung ương Cục miền Nam; cuộc Tổng công kích không thể bảo đảm cụ thể ở Bộ Tổng tham mưu Hà Nội.
Dù cho có lệnh gọi gấp những người đi phép trở về đơn vị, tất cả quân số lính Mỹ và Nam Việt Nam hết khả năng đẩy lùi quân tấn công. Ở Sài Gòn buổi chiều ngày thứ nhất, các tiểu đoàn bộ binh Mỹ đánh nhau với quân Việt Cộng từ phố này sang phố khác, từ nhà này sang nhà khác Muốn cho đối phương không tăng cường được quân tiếp viện, các điểm đóng quân du kích chiếm máy bay bị san bằng.
Mặc dù ông Giáp đã rất cẩn thận chuẩn bị cho cuộc tấn công Tết Mậu Thân, nhưng mọi việc không diễn ra đúng như dự đoán vào ngày J như thường xảy ra trong chiến tranh. Quyển sử học Việt Nam đã kể lại: "Ngày 30 tháng giêng năm 1968 vì nghe lệnh không đầy đủ, một số đơn vị quân đội hiện đang ở miền Nam đã bắt đầu tấn công, còn những đơn vị khác thì không. Ở miền Nam ngày một tháng giêng năm mới là ngày một tháng giêng, sớm hơn miền Bắc một ngày, vì lịch cũ vẫn còn tác dụng. Một bộ phận quân đội-ví dụ những đơn vị ở Quảng Nam và Quảng Ngãi-đánh ngày 30 và một bộ phận khác ngày hôm sau. Những đơn vị tấn công ngày hôm sau chạm trán với những lực lượng địch đã được báo động; nhiệm vụ của họ khó khăn hơn". Song những vấn đề ấy không đủ làm rối loạn thông tin ở nhân dân Mỹ. Lẽ tất nhiên họ bị bất ngờ và đau khổ vì sự có mặt của hơn một nửa triệu lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam, không kể đến chừng ấy lính đồng minh và hàng chục nghìn đội viên dân quân tự vệ địa phương miền Nam Việt Nam không đủ sức bảo vệ các thành phố của đất nước trước một cuộc tấn công.
Những ngày hôm sau, khi đã thống kê đầy đủ, tướng Westmoreland có thể tuyên bố tổng số có 37.000 quân địch bị tiêu diệt. Tin tức chắc chắn là đã nói quá lên: song cũng cho biết những tổn thất lớn của quân Việt Cộng và Bắc Việt Nam. Mọi nơi, trừ Huế, các lực lượng quân Việt Cộng đều bị bao vây hoặc bị tiêu diệt hoặc bị bắt làrn tù binh. Ngày 11 tháng 2, hai tuần lễ sau khi bắt đầu, cuộc tấn công Tết Mậu Thân thực tế chấm dứt.
Về quân sự mà nói, mỗi phía đều xác định là chiến thắng. Quân Việt Cộng bị nhiều tổn thất nặng đến nỗi phải mấy năm mới hồi phục. Về phương diện ấy, cuộc tấn công Tết Mậu Thân là một thắng lợi của miền Nam, tuy phải trả giá 2.500 lính Mỹ. Về phương diện chính trị, bao giờ cũng là một thất bại của Hoa Kỳ, vì công chúng Mỹ đã được tin chiến tranh đã đến điểm thắng lợi cách đây ít lâu, những lời bình luận lại nổi lên về "ánh sáng cuối đường hầm" mà Navane đã nói trước đây; tướng Harold K.Johnson, tổng tư lệnh liên quân mặt trận chẳng phải đã tuyên bố rằng: "chắc chắn chúng ta đã đến gần thắng lợi", còn tướng Westmoreland tuyên bố ngày 21 tháng 11 năm 1967 với Câu lạc bộ báo chí Washington "Chúng ta đã đến một bước ngoặt mấu chốt, cuối cùng chúng ta có nhìn thấy kết thúc. Những hy vọng của đối phương đã tan vỡ".
Công chúng Mỹ trước hết tức giận khi theo dõi truyền hình trận tấn công ác liệt chiếm đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Cảm giác mạnh hơn lại là những hình ảnh chiến đấu ở Huế được phổ biến không ngừng trong 25 ngày. Trước hết, phải mất 10 ngày để các vị tư lệnh nhận đủ quân tiếp viện để lấy lại thành phố. Cuối cùng 11 tiểu đoàn cộng hòa miền Nam và 3 tiểu đoàn lính thủy đến nơi, những phải 2 tuần lễ ác chiến trên đường phố giáp lá cà để đánh bật 8 tiểu đoàn Việt Cộng với khoảng 5.000 người. Sự thật là thành phố Huế không bao giờ bị chia cắt ra khỏi vùng nông thôn xung quanh; các đơn vị Mỹ và miền Nam Việt Nam bao vây chặt nhưng quân Việt Cộng vẫn được tiếp tế và tiếp viện theo những con đường mòn dọc theo sông Hương. Một bộ phận lớn thành phố trên một diện tích nhiều héc ta đã bị san bằng, nhà gỗ thành tro, nhà bê tông thành những đống bụì và gạch vụn. Cờ Mỹ chỉ được treo trên những đống đổ nát của kinh thành bị bom đạn phá hủy ngày 23 tháng 2. Quân ngụy miền Nam chết 384 người, lính thủy Mỹ chết 142 người. Bị chặt đứt phía sau bởi đoàn ky binh Mỹ 1, cuối cùng đối phương bị thiệt hại rất nặng: theo các tin tức thì có 5.000 người chết trong thành phố và hơn 3.000 người ở vùng phụ cận trong thời gian chiến đấu.
Về vấn đề mùa xuân năm 1968, ông Giáp đã có tuyên bố sau đây:
"Đối với chúng ta không có chiến lược duy nhất, các đồng chí biết đấy. Chiến lược của chúng ta luôn luôn là một sự tổng hợp; vừa ngoại giao, vừa quân sự và vừa chính trị, vì vậy dĩ nhiên tấn công Tết Mậu Thân cũng theo đuổi nhiều mục tiêu.
Việc bình định của địch là mối nguy hiểm cho việc tiếp tục cuộc chiến tranh. Trước hết chúng ta tìm cách đẩy xa các đơn vị quân Mỹ ra khỏi những vùng đồng bằng đông dân cư để tạo điều kiện cho Mặt trận giải phóng miền Nam có thể dễ dàng lãnh đạo nhân dân. Chúng ta đưa 2 sư đoàn vào Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, phía Bắc của miền Nam; điều đó buộc quân Mỹ phải đưa lực lượng đến những khu vực khác, do đó giảm bớt chương trình bình định. Điều đó cũng ngăn chặn được quân tiếp viện vào đồng bằng sông Cửu Long, nơi quân Mỹ và quân đồng minh đã giành được thắng lợi..."
Ta tìm thấy lại ở đây một phần ván cờ giữa ông Giáp và tướng Navane trước chiến dịch Điện Biên Phủ.
"Trong những trận đánh ở Lộc Ninh và Đắc Tô ở cao nguyên miền Trung năm 1967, chúng ta đã tỏ rõ sức mạnh của chúng ta chống lại những cứ điểm phòng ngự. Giai đoạn tiếp theo là đưa vào một lực lượng mạnh hơn chống lại Khe Sanh. Một lần nữa, bọn đế quốc chống lại".
Lực lượng này phải sử dụng vào giai đoạn thứ ba của cuộc tấn công đông xuân gọi tên là "Làn sóng thứ hai". Hiệp đồng với các kế hoạch tác chiến trong các tỉnh phía Bắc chúng ta phải đưa ra lời kêu gọi nhân dân miền Nam làm cho hiểu rằng chính quyền ngụy đã tàn và phải nổi dậy chống lại chúng và chống quân Mỹ. Điều đó không đạt được nhưng cuộc tấn công dịp tết chứng tỏ rằng, mặc dù ném bom miền Bắc và hành quân "tiêu diệt" ở miền Nam, chúng ta đã mạnh hơn vào năm 1968 thời kỳ mà Hoa Kỳ đã đưa những lực lượng lớn vào cuộc chiến tranh. Trước đây mục đích chính của họ là tìm và diệt, bây giờ trái lại họ phải chấp nhận một chiến lược phòng ngự.
Đó là thắng lợi lớn nhất của chúng ta: thay đổi ý định của Hoa Kỳ. Về nguồn gốc, cuộc tấn công dịp Tết nhằm vào nhân dân miền Nam trước hết, nhưng nó lại tác động mạnh hơn đến nhân dân Hoa Kỳ. Cho đến Tết, họ tưởng rằng có thể thắng lợi trong chiến tranh; bây giờ họ biết rằng không thể được. Johnson đã chấp nhận giảm bớt tác chiến quân sự và ngồi lại với chúng ta xung quanh một cái bàn để thảo luận các biện pháp chấm dứt chiến tranh...
Những tháng đầu năm 1968 là những tháng xấu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, phần lớn binh sĩ Mỹ lần đầu tiên nhận thấy rằng họ không thể thắng trong cuộc chiến tranh này, còn ở Mỹ đông đảo đàn ông và đàn bà quay lưng lại với việc can thiệp này. Trong cuộc tấn công dịp Tết, sau khi phá hủy hoàn toàn một thành phố, một sĩ quan Mỹ tiếp một nhà báo với thái độ mệt mỏi: "Chúng tôi đã bắt buộc phải phá hủy nó để cứu lấy nó". Đối với hàng triệu dân Mỹ, câu trả lời ngắn gọn này đã tóm tắt tất cả sự mờ ám của cuộc chiến tranh này: Không ai thắng lợi, không ai có thể thắng lợi.
Đại tá Mai Thế Chính, chuyên gia gỡ mìn đã từng tham gia những cuộc tác chiến trước tấn công dịp Tết đã cung cấp bằng chứng sau đây cho tác giả: "Tôi nhập ngũ năm 1958 và ở bộ đội 32 năm. Từ năm 1958 đến năm 1967 tôi ở miền Bắc Việt Nam; sau đó tôi được đưa vào miền Nam, chiến đấu đến năm 1975, trừ một vài lần ra Bắc ngắn hạn.
Tôi là chuyên viên về thuốc nổ, đạn và mìn; tôi đã theo học một lớp đào tạo gỡ mìn trong một trường quân sự cách Hà Nội 30km.
Năm 1965, một bộ phận đơn vị tôi được chuyển vào miền Nam; sau hai năm tôi cũng vào Nam để chiến đấu trên vùng biên giới Lào và Việt Nam. Tôi đã quên đi bao nhiêu năm ở lại miền Nam và dự bao nhiêu trận chiến đấu.
Cuối năm 1967 trong khuôn khổ kế hoạch chuẩn bị cuộc tấn công dịp Tết chúng tôi được lệnh vượt qua một bãi mìn. Ở Đắc Tô, chúng tôi phải gỡ những quả mìn bằng tay, nằm dài trong đêm tối, không được gây một tiếng động nào khỏi báo động quân địch. Có những quả mìn sát thương được cài rất tinh xảo; chỉ khẽ đụng vào dây kim loại là mìn nổ; mìn nổ phóng ra rất nhiều loại ngòi nổ. Thật là một công việc khó khăn và nguy hiểm.
Chúng tôi làm việc từ mặt trời lặn cho đến 11 giờ đêm, không kịp dọn sạch. Vì các lực lượng xung phong phải vượt qua những bãi mìn trước khi trời sáng, người ta nói với chúng tôi phải mở lối qua bằng những khối thuốc nổ, kể cả trường hợp làm lộ ý định của chúng tôi. Chúng tôi nhanh chóng đi tìm các khối thuốc nổ và chạy trở lại trận địa; đúng lúc ấy, địch phát hiện được chúng tôi và bắn pháo. Một số đồng đội của chứng tôi hy sinh nhưng được thay thế ngay. Sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, chúng tôi đã hoàn thành việc mở đường.
Ngày 30 tháng giêng, trận tấn công dịp Tết đã bắt đầu. Các đơn vị của chúng tôi tấn công nhiều cứ điểm trên đường 9. Mục đích là tiêu diệt địch để giành lại quyền kiểm soát các tỉnh ở phía Bắc. Sau vài ngày, đơn vị tôi tiểu đoàn 7 công binh được đưa vào Huế, và chúng tôi chiến đấu ở đó trong nhiều tuần lễ. Vì nhiệm vụ hoàn thành, cả đơn vị được tuyên dương "Đơn vị anh hùng”. Quân của chúng tôi đã giành thắng lợi và chiếm được thành phố Huế.
Chúng tôi còn lại độ trăm người sống sót và chỉ còn tất cả 10kg gạo. Nhưng gạo dùng nấu cháo cho thương binh; những người khỏe phải ăn rễ cây và cỏ dại. Chúng tôi bị đói lả và chúng tôi không thể đánh đuổi thú rừng và tiếng nổ sẽ làm lộ vị trí của chúng tôi. Hơn nữa, chúng tôi luôn bị máy bay đánh bom và trời mưa như trút nước từ ngày này qua ngày khác. Thiếu thốn quá, chúng tôi phải căng những tấm nilông giữa các cây để chống mưa cho các bác sĩ có thể chăm sóc thương binh.
Mưa không ngớt đã gây lũ lụt. Tình thế càng trầm trọng hơn. Chúng tôi không còn gì để ăn, mà vì lụt không đi đâu được Tình thế như vậy kéo dài vài tháng.
Cùng với bom, máy bay Mỹ thả truyền đơn kêu gọi chúng tôi đào ngũ. Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã nói rằng: Chiến tranh giải phóng là một câu chuyện công phu. Chúng tôi phải ngừng đấu tranh bản thân từ bây giờ. Đó là chiến tranh tâm lý: Họ khuyến khích các chiến sĩ giải phóng đòi quay về gia đình. Một trong những tờ truyền đơn kể chuyện một chiến sĩ gửi về cho mẹ nói rằng anh ta đang chết đói dưới trời mưa trong rừng núi. Đúng. Đó là điều chúng tôi đã trải qua".
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 4:26 pm
Chương 20: Khe Sanh
Tôi biết rừng không có cách để nói chuyện một cách văn minh với những con người ấy.
Excaporal Mike Brown - Hải Quân
Cũng như Điện Biên Phủ, Khe Sanh là một căn cứ phía trước ở khu vực biên giới. Đối với miền Nam, ở góc trái phía trên bản đồ. Khe Sanh chỉ cách biên giới Lào 8km và gần như trên kinh tuyến 17. Và cũng như Điện Biên Phủ, tự Khe Sanh không có gì quan trọng lắm. Cũng như Điện Biên Phủ lợi thế quân sự của nó là đứng trên một trục đường giao thông quan trọng-đường quốc lộ 9 từ đông sang tay đi qua những tỉnh miền Tây của Việt Nam trước khi tiếp tục trên đất Lào. Đối với tấn công cũng như phòng ngự, nó tạo thành một điểm chốt, khi chiếm được có thể tiến hành nhiều kế hoạch tác chiến khác.
Làng Khe Sanh thuộc tỉnh Quảng Trì, ở phía Tây làng là những dãy núi cao rừng rậm con người không thể sinh sống được; phần lớn dân cư tụ tập xung quanh những thửa ruộng phía Đông một dải đất đi từ bờ biển đến đường 1, con “đường không vui" của linh lê dương Pháp. Khe Sanh nằm trong một khu vục hiểm trở; làng được bao bọc xung quanh bằng những quả đồi cao và dốc đứng bị bao phủ một lớp cây nhiệt đới dày đặc trồi lên những ngọn cây to bám đầy dây rừng. Sương mù thường xuyên cũng như mưa rào gây nên nhiều ghềnh và thác. Phần lớn trong năm khí hậu nóng và ẩm, thích hợp với việc trồng cây cà phê. Những dãy núi ẩm ướt không bao giờ im lặng cả ban ngày và ban đêm, rất nhiều thú vật hoang dã và các loại côn trùng sống ở đó.
Một cộng đồng vài trăm người sống ở Khe Sanh, họ làm việc trong những đồn điền cà phê xung quanh, phần lớn của người Pháp. Gần đó có một vài nhà người dân tộc miền núi Bru mà năm 1958, quân ngụy miền Nam khuyến khích họ trở về làng để bảo vệ cho họ khỏi Việt Cộng (ngăn cấm họ ủng hộ Việt Cộng) những người dân Bru khác sống rải rác trong rừng toàn khu vực có chừng khoảng 8.000 người. Cũng như 2 công chức người Pháp đang cố gắng thu phục người Bru và một vài người Việt Nam theo đạo Thiên chúa.
Phía Bắc làng 3km, trên một cao nguyên dài 1,5km ở độ cao 440m dựng lên một lô cốt bê tông từ thời kỳ De Latrre, láng giềng xa của những điểm dạng "dãy Maginot" xây dựng quanh Hà Nội. Bên cạnh có một con đường mòn bằng đất nện. Đầu những năm 1960, một tiểu đoàn công binh của quân ngụy miền Nam đã bao phủ lên một cái màn bằng kim loại có thể làm cơ sở cho máy bay nhận biết con đường mòn.
Về phía Tây 11 km, bên kia biên giới, một quả núi to Lo Roe, nổi cao lên trên đèo chỉ đường vào đất Lào. Khá xa về phía Bắc, ngọn Tiger Peak bao trùm lấy khu quân sự, DMZ. Gần hơn, phía Bắc và phía Tây Khe Sanh 5-6 km, những dãy đồi thấp hơn làm thành một hình tam gác mỗi cạnh 5 km đặt một bài toán khó cho những ai muốn tổ chức phòng ngự vì chúng tạo nên những đài quan sát cực kỳ tốt, hoặc để điều chỉnh điểm rơi cho pháo binh bắn, chủ yếu là phải giữ lấy chúng.
Quân đội Mỹ đến đây ở gần làng từ tháng 2 năm 1962, khi quân mũ nồi xanh vào đóng trong cứ điểm cũ của quân Pháp. Những lực lượng đặc biệt được bố trí phía trước. Nhiệm vụ của họ là làm việc với những người dân tộc Bru: chấp nhận họ, dạy họ nghệ thuật chiến tranh, dẫn đi tuần tiễu để nắm tình hình địch; vì mục đích đó, quân mũ nồi xanh học cách ăn chuột và uống rượu gạo, để tóc mọc dài, xăm mình theo địa phương và như người ta nói ngủ với đàn bà Bru.
Năm 1966, một tiểu đoàn thuỷ quân đi khắp vùng trong 15 ngày nhưng không gặp quân đối phương. Trước khi cuốn gói trở về theo đường 9, họ để lại một tiểu đoàn ở căn cứ gọi là Fort Dix. Quan hệ giữa hai lực lượng là mạnh ai lấy làm. Dưới con mắt của thuỷ quân, những lính mũ nồi xanh là vô kỷ luật, đầu tóc bù xù, có thể nghiện ma tuý, tóm lại là tụi vô lại. Về phía mình, người của lực lượng đặc biệt cho bọn lính thuỷ là láo, đầy thành kiến và tuyệt đối không đoàn kết được. Nếu bọn lính thuỷ ở đầy, họ đi nơi khác. Vì vậy, họ lập nên một căn cứ mới ở làng Làng Vây cách 8 km trên đường sang Lào.
Không gặp đối phương lần nào trong vùng này, nhưng tướng Westmoreland quả quyết cuối cùng họ sẽ đến. Vài tuần trước đó. ông Giáp đã trực tiếp điều hành tác chiến ở tỉnh Quáng Trị, tách khỏi Trung ương Cục miền Nam và quân giải phóng: tương lai, những kế hoạch tác chiến thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam mà không phải thuộc quân Việt Cộng, và tỉnh sẽ sáp nhập vào quân khu Trị Thiên-Huế. Ở Sài Gòn, cơ quan tham mưu của Westmoreland quyết định tăng cường quân tiếp viện cho lực lượng đặc biệt 300 dân quân tự vệ người dân tộc miền núi và cho thêm một phân đội tác chiến đặc biệt tìm kiếm tình báo (Special Operation Intelligence Groupe). Các lực lượng tập trung ở làng Làng Vây đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội trực thuộc quân mũ nồi xanh và CIA cùng với quân ngụy miền Nam kiểm soát việc phát hiện những tin tức không liên quan đến lính thuỷ ở Fort Dix. Còn bọn lính thuỷ tự hào về tính chất đầy đủ quân sự của mình: Chúng có lực lượng không quân, lực lượng pháo binh và kế hoạch riêng; chúng có thể tác chiến bất kỳ ở đâu mà không cần ai giúp đỡ. Ngoài ra là lính thuỷ, họ có quan hệ truyền thống với hải quân, trước đây vốn là một số đơn vị dự bị trên các tàu đi lại trên biển Đông, các tướng lĩnh coi họ trực thuộc tổng hành dinh hải quân ở Honolulu hơn cả Westmoreland mà cơ quan tham mưu ở Sài Gòn không dễ dàng hiệp đồng chặt chẽ. Một chuyện mất đoàn kết là sự kiểm soát và kết hợp của không quân yểm trợ. Các lính thuỷ muốn sử dụng không quân cứu hộ, nhưng không quân này không đáp ứng những cuộc ném bom hạng nặng trong tác chiến. Bực rnlnh muốn giữ tinh hình độc lập của họ, lính thuỷ đã gây nên những vấn đề nghiêm trọng khiến cho Westmoreland phải điều động họ đi-Cuối cùng những người lính thuỷ chấp nhận sự điều động của quân đội và không lực Hoa Kỳ.
Tháng 3 năm 1967, một đại đội lính thuỷ khác đến Khe Sanh kèm theo một đội công binh đường biển phụ trách việc xây dựng hầm và nhà ở. Ít lâu sau, tình hình bắt đầu xấu đi. Đến cuối tháng 4 quân tuần tiễu chạm trán với những phân đội của trung đoàn 18 sư đoàn 325 Quân đội nhân dân Việt Nam trên cao điểm 861 và 881 là 2 trong 3 cao điểm ở phía Bắc và phía Tây căn cứ. Những trận tao ngộ ấy làm chết 12 lính thuỷ. Ngày hôm sau, một đại đội dự bị do máy bay lên thẳng dẫn đến một cao điểm 861 còn một tiểu đoàn đầy đủ (tiểu đoàn 2 của trung đoàn 3) có pháo binh yểm hộ đến tiếp viện cho Fort Dix. Quân này đến đã đưa một cú ra bóng được gọi ra trận đánh trên những đồi núi năm 1967, một loạt trận xuất sắc mà lịch sử hải quân đã viết "trung đoàn 18 của Quân đội nhân dân Việt Nam phải chống đỡ ác liệt" (Về phần mình lính thuỷ đã thay từ truyền thống "Charlie Cong" bằng "Mister Charlie"). Theo một người chỉ huy quân lính thuỷ, đối phương la “có chỉ huy tốt, nuôi dưỡng tốt và trang bị tốt".
Các cuộc đụng độ căng thẳng tiếp nối nhau một tuần lễ liền, cho đến khi trung đoàn 18 thoát ra được nhờ có trung đoàn 95 anh em đánh lạc mục tiêu khi tấn công vào cứ điểm Làng Vây. 26 quân phòng ngự bị tiêu diệt và 36 bị thương trước khi trung đoàn 95 lui. Đáng lẽ thu dọn chiến trường, quân mũ nồi xanh và những đơn vị khác chiếm thêm được một căn cứ ở cách đấy không xa sau vài tuần.
Một trạm vô tuyến tiếp sức được đặt trên đỉnh 950, một cao điểm kiềm chế cả vùng 290m bán kính. Từ đó có thể nhìn thấy Co Rọc, Tiger Peak, các ngọn núi của Lào và phần lớn tam giác DMZ; ngày đẹp trời có thể nhìn ra biển Đông. Ngày 6 tháng 6 năm 1967, quân của ông Giáp tấn công ngọn đồi, giết chết 3 lính địch. Ngày hôm sau, 18 lính thuỷ tìm thấy người chết trên cao điểm 881 Bắc. Sau một loạt trận đánh nhỏ, tổng số người chết về phía Mỹ là 52 và đối phương là 204. Khi tình hình đã yên tĩnh, các tiểu đoàn lính thuỷ rút đi và thay thế bằng đại đội 1 của trung đoàn 26. Ngày 13 tháng 6, để có thể tiếp tục việc tuần tiễu thường xuyên, đại đội 1 của trung đoàn 3 cũng vào trận địa. Ngày 14 một khẩu pháo đến theo đường cái. Hai tháng sau, đại tá David E.Lownds nhận quyền chỉ huy toàn bộ căn cứ Khe Sanh.
Đến đóng quân, lính thuỷ ra sức củng cố phòng ngự. Không phải dễ dàng: những cây cối vùng lân cận nham nhở mảnh đạn. Kỷ niệm của toàn trận chiến đấu trên những ngọn đồi, năm 1967 làm đứt xích máy cưa. Sau vài tuần, cây cối bị cưa đứt hoặc bị mọt ăn hết. Phải cho máy bay chở gỗ cứng đến, thêm việc cho hậu cần. Căn cứ chu vi không quá 400 x 200m được nhanh chóng củng cố, trong khi máy bay và máy bay lên thẳng thay nhau như con thoi đưa vật liệu cần thiết đến-một phần rất nhỏ của hàng triệu tấn hàng cung cấp được đưa vào miền Nam Việt Nam hàng tháng bằng đường biển và đường không.
Cũng trong tháng 8 ấy, tướng Westmoreland quyết định tăng cường sức phòng ngự của căn cứ Khe sanh, bằng cách xây dựng thêm một căn cứ về phía trước đề phòng những đột nhập có thể xảy ra từ phía Lào. Khe Sanh có thể vào được bằng đường bộ-đúng vì một vài đoạn trên đường quá hẹp đến nỗi xe tải khó đi qua-nhưng điều đó đặt ra một mối đe doạ thường xuyên vì những trận phục kích của quân giải phóng trong rừng rậm, đúng như Điện Biên Phủ. Vì vậy việc tiếp tế chủ yếu bằng đường không; cái sân bay nhỏ xíu có tầm quan trọng chủ yếu. Trước cuối tháng 8, người ta bắt đầu cải tiến đường bay để có thể hạ cánh những máy bay nặng hơn. Máy bay chở người và vật liệu còn xe tải chở đã khai thác cách đó 2 km; những mảnh kim loại cũ dỡ bỏ thay thế bằng một cái màn chất lượng hơn. Trong quá trình công việc, một hệ thống mới có tên là LAPES sử dụng để tiếp tế cho căn cứ, một cái dù đặt phía sau một máy bay đang bay ở độ thấp mang một khối hàng xuống đất.
Tháng 9, trong khi công việc đang tiến hành thuận lợi, tiểu đoàn 1 của hải đội số 3 đến cùng với pháo cối 4.2mm và đạn dược với số lượng ngày càng nhiều. Có cả 10 xe xích "Onto" trang bị 6 khẩu 106mm không giật cùng với 5 xe Patton. Trong kế hoạch tăng cường căn cứ Khe Sanh, Westmoreland điều đến 2 khẩu pháo hạng nặng 175mm đến Cam Caroll, cách đó 30km, để có thể yểm trợ lính thuỷ. (Vì điều kiện địa hình không thể điều đến Khe Sanh). Đến cuối mùa thu năm 1967, dịch vụ tình báo thông báo việc giao thông trên đường mòn qua khu vực này đang tăng nhanh.
Khi những máy dò tìm phát hiện tiếng chân bước hoặc tiếng xe qua, những máy điện tử báo qua vô tuyến cho những máy bay đang đan chéo trên bầu trời khu vực này. Ngoài những máy điện tử cắm dưới đất hoặc treo trên cành cây máy bay và trực thăng bay trên đường mòn còn được trang bị "máy ngửi" có thể phát hiện được mùi nước tiểu hoặc mồ hôi người. Những phương tiện trang bị máy rada theo chiều ngang SLAR phát hiện mọi tiếng động nhỏ, những thứ khác nữa, những máy hồng ngoại có thể phát hiện một bếp lửa và cả thân nhiệt của con người. Tất cả các loại máy móc ấy chỉ ra rằng đã có hơn 1.000 xe tải đi về hướng Khe Sanh trong tháng 10, và gần 4.000 vào tháng 11 không kể một lượng lớn binh sĩ đi bộ. Ngày 13 tháng chạp, tiểu đoàn 3 của trung đoàn 26 lính thuỷ được lệnh điều động đến Khe Sanh trong tháng 10 không báo trước tướng Robert E . Cushman Jr, tư lệnh hải quân ở Việt Nam.
Ngày 27 tháng chạp, tướng Westmoreland gửi đến Lầu Năm Góc kế hoạch chi tiết về cuộc xâm nhập có thể xảy ra sang Lào mà vòng cua sẽ là Khe Sanh.
Tháng chạp, không ít hơn 6.315 xe Bắc Việt Nam qua đường mòn.
Tối mồng 2 tháng giêng năm 1968, 6 người ăn mặc theo kiểu trang phục của lính thuỷ Mỹ (theo những nguồn tin khác, họ mặc pyjama đen của Việt Cộng) được phát hiện trong chu vi của căn cứ để họ quan sát cách bố trí phòng ngự. Vì họ không trả lời được khẩu lệnh của người tuần tra, 5 người bị bắn chết còn người thứ 6 bị thương trốn thoát. Khám xét tài liệu trên mình họ, phát hiện đó là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam cấp bậc cao: một chỉ huy trung đoàn, sĩ quan trinh sát... Sự việc xảy ra được phát hiện ngay và thông qua cấp chỉ đạo trực tiếp: làm cho tư lệnh các lực lượng Mỹ đứng trước hai con đường phải chọn một tương tự như tướng Navane đã vấp phải 14 năm về trước: ra đi hoặc ở lại.
Vì những lý do tâm lý, Westmoreland quyết định loại bỏ tình thế này. Ông đã từng thông báo cho công chúng Mỹ một đánh giá lạc quan về tình thế quân sự: dư luận và nhất là các binh sĩ của chính ông sẽ suy nghĩ gì khi đột nhiên ông rút các lực lượng khỏi một căn cứ phía trước. Cá nhân ông, ông tin rằng đó là một bước lùi "Cũng có những ý kiến khác. Có thể kể: "Khe Sanh có thể làm căn cứ cho những mục đích khác nhau: tuần tiễu để phát hiện quân đối phương xâm nhập dọc đường 9; tác chiến quấy rối của đối phương ở Lào; sân bay sử dụng cho máy bay trinh sát con đường mòn; điểm tựa phía Tây tổ chức phòng ngự phía nam tam giác DMZ; ngoài ra có thể là điểm xuất phát các cuộc hành quân cắt đứt đường mòn".
Cũng như Navane, Westmoreland quyết định ở lại. Ngày mồng 5 tháng giêng, ông cho khởi động việc đặt kế hoạch một hoạt động ném bom chính xác khổng lồ gọi là "Niagara": nếu các lực lượng của ông Ciiáp đánh Khe Sanh, những phi đội máy bay B52 sẽ dội lên họ một trận mưa bom tràn ngập tất cả.
Vì quyết định ở lại, Westmoreland cũng lâm vào tình trạng như Navane trước đây; muốn phòng ngự căn cứ, phải có một lực lượng tối đa quân đội, nhưng Khe Sanh chỉ có thể tiếp tế bằng đường không, càng đưa thêm người đến, càng khó khăn về vấn đề hậu cần. Ông đã bố trí việc vận chuyển bằng máy bay tốt hơn Navane và khả năng của máy bay Mỹ rõ ràng cao hơn nhiều. Song điều đó không giải quyết được hết các vấn đề, phải đợi đến lúc tầm nhìn xa kém đi. Do vậy, Westmoreland lệnh cho lính thuỷ không điều động thêm quân, không có khả năng tiếp tế bằng không quân.
Dần dần, nhưng lực lượng đối phương tập hợp lại trên đường biên giới Lào đã được xác định: 2 sư đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam: sư 304 (đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ và sư 325 gọi là sư "sao vàng”; do các trung đoàn pháo binh 24, 68B và 164 yểm trợ, được trang bị khoảng 96 khẩu-tổng cộng hơn 20.000 người. Hơn nữa, có sư 320 và sư 324 đến tiếp viện (cuối tháng 12 năm 1967 và đầu tháng giêng năm 1968, ông Giáp đã điều động đến Khe Sanh các sư đoàn 304, 320 và 325- khoảng 30.000 người-đồng thời một trung đoàn của sư 324B-5.000 người-để yểm hộ cho 3 sư trên. Nhưng không có tại chỗ trọn vẹn 4 sư đoàn. Hai trung đoàn của sư 325C đã vượt khu phi quân sự chừng 25km phía Tây Bắc Khe Sanh. Lực lượng còn lại theo những hành trình mới từ con đường mòn đến phía Tây Khe Sanh cách 25km. Số lượng lớn quân đội thực hiện đi bộ theo tổ 3 đến 5 người. Con đường tiếp tế giữa Khe Sanh và Tchepone, trên đường mòn nơi có 2 trung tâm hậu cần được thiết lập, không dài lắm, nhưng phải chở hàng từ các trung tâm kho của Quân đội nhân dân Việt Nam cách đó hàng trăm km).
Các tay súng đối phương đã bắt đầu quấy rối quân lính thuỷ trong căn cứ và vùng xung quanh, trong khi đạn pháo nổ gần đó chứng tỏ pháo Quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu điều chỉnh tầm bắn. (Cho đến khi Lownds ra lệnh giới nghiêm, nhiệm vụ càng dễ dàng hơn vì ban đêm cả căn cứ sáng rực. Những lính mũ nồi xanh đóng ở Làng Vây trong thung lũng thấp hơn gọi với giọng khinh bỉ "Coney island").
Ngày 15 tháng giêng máy bay B52 ném bom xung quanh Khe Sanh ở những điểm nghi ngờ có quân đối phương chiếm giữ.
Ngày 16, một đại đội thứ 3 (đại đội 2) của đoàn 26 lính thuỷ được đưa đến Khe Sanh. Lownds điều động đại đội này lên cao điểm 558, để có thể yểm trợ cho 861 đồng thời có thể quan sát tốt một phần thung lũng về phía Đông căn cứ. Từ chiến tranh thế giới thứ 2 đây là lần đầu trung đoàn trọn vẹn tập hợp trên tuyến đầu. Ngày 20 tháng giêng, cao điểm 88 1 Bắc là chiến địa của những trận chiến đấu mãnh liệt: các phân đội sư 304 gặp phải sự chống trả của địch. Quân lính thuỷ phải lùi xuống nam 881. Cùng ngày bắt đầu một cuộc hành quân để bố trí 250 máy thu điện tử xung quanh căn cứ để làm cảnh giới gần. Các tin tức nhận được sẽ chuyển về trung tâm trinh sát những vụ xâm nhập cho máy bay đang bay lượn trên bầu trời vùng lân cận. Sau khi xử lý, những thông tin được chuyển về trung tâm điều hành bắn của Khe Sanh để giao mục tiêu cho pháo binh hoặc không quân. (Từ ngày đó cho đến kết thúc trận chiến đấu, việc cảnh giới này không tiếp tục giữ vững; hơn nữa những tin tức này bằng hàng nghìn mét phim ảnh được gửi về Sài Gòn để phân tích-một phần rất nhỏ của vô số ảnh thể hiện toàn bộ một triệu mét phim do máy bay cung cấp trên bầu trời Nam Việt Nam).
Như mọi sự hiện diện, giờ của chân lý không còn xa nữa. Như đã nói trên, cao điểm 861 bị đánh cháy 20 tháng giêng sau lúc nửa đêm, chưa đến một giờ đồng hồ, đối phương đã chiếm được một phần vị trí. Lính thuỷ phản công: đến 5 giờ 15 lấy lại được cao điểm. Sau đó lúc 5 giờ 30, những quả tên lửa từ rừng bắn đến căn cứ gây nên tiếng nổ của khối thuốc nổ 1.500 tấn. Súng chấn động mạnh đến mức san bằng toàn bộ những công sự mới xây dựng mấy tuần trước kể cả sở chỉ huy và kho và lật đổ các máy bay lên thẳng đỗ gần đó. Đạn, pháo cối, tên lửa, và lựu đạn rơi khắp căn cứ cho đều các hầm trú ẩn và chứa đạn dược; may thay chỉ một số nổ, còn một số chốt an toàn chưa tháo được vì không có va chạm mạnh-đó là trường hợp của một khẩu đội pháo binh. Một kho xăng bắt lửa gây nên một cột khói đen cao ngất trời. Từ các cao điểm lân cận, lính thuỷ có cảm giác như tiếng nổ của một quả bom nguyên tử nhỏ. Bù lại không may, một lớp mây dày đặc hơi lacrymogene bao trùm ngay lấy căn cứ. Trong khi mọi người vội vàng mang mạng chống hơi độc, vài người trông thấy bóng những người Việt Nam đang tiến lên trong màn khói. Họ không đến, trái lại hàng giờ liền tiếp theo, ba trăm quả đạn bắn vào căn cứ, nổ trong những kho xăng dầu bốc lửa. Thật là địa ngục.
Làn khói xuống dần thung lũng, trong khi những quân Việt Nam người Bru, người Mỹ vừa bị kéo khỏi giấc ngủ, ngạc nhiên nhìn đống lửa khổng lồ của tự nhiên. Những lính thuỷ đóng trên các cao điểm thấy mình bị chia cắt: chắc chắn Lownds và quân lính ông ta không còn gì. Nhưng Lownds có thể lập kênh thông tin vô tuyến điện với các cấp dưới bảo đảm: dù thế nào thì họ vẫn còn cả, và họ sẽ đối mặt. Ngày 21 tháng giêng từ mờ sáng, tiểu đoàn 8 của trung đoàn 66 và sư 304 chuyển sang tấn công và chiếm được làng Khe Sanh giết 18 lính Mỹ và làm bị thương 40. Bây giờ Làng Vây đang bị cô lập.
Ở căn cứ, các đơn vị đang ở tình trạng khó khăn: 90% đạn dược (khoảng 10.000 quả đạn các loại) đã ra đi khỏi "big bang". Qua vô tuyến điện, họ yêu cầu tiếp viện cấp tốc Tức thời, những chiếc 130 đầu tiên hạ cánh trên đường băng. Chúng phải mang đến 100.000 kg sản phẩm để lập lại các kho. Về phía mình, những máy bay lên thẳng thực hiện các chuyến tiếp viện lực lượng và thuốc men, thu gom thương binh, và cả những người đi phép nếu lộ trình cho phép.
Ít lâu sau khi bắt đầu cuộc chiến, những người dân thường xung quanh, mang mạng phòng độc, vào trong căn cứ hy vọng tìm thấy thực phẩm, nơi ẩn nấp và sự che chở; sự thật họ đặt mình vào đường bắn. Cuối cùng khoảng 1.500 người thất vọng ấy tập hợp ở gần cổng, trong vài ngày thành một trại tị nạn khốn khổ. Có những người dân tộc Xá bị đuổi ra khỏi đất Lào trong một trận đánh trước đây nhiều gia đình người dân tộc Bru, một số người Pháp và vợ đã ở Khe Sanh nhiều năm, cũng như công chức và người theo đạo.
Không có chuyện đó, Lownds đã đầy lo âu; hơn nữa, có thể có những kẻ xâm nhập đi theo những người tị nạn. Vì họ đông hơn quân số trong căn cứ, không thể nào để cho họ vào. Để đuổi họ đi, ông cho phép 1.432 trong số họ lên máy bay chở đến một cái trại dựng vội cách đó vài kilômét; những máy bay lên thẳng bắt 9 người của tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 đưa về Khe Sanh (sau đó nhiều người tị nạn phải ra đi bộ bằng đường).
Ngày 25 tháng giêng, Westmoreland quyết định không thể tha thứ lâu dài hơn thái độ của lữ đoàn lính thuỷ và điều một bộ phận tiền trạm của tổng hành dinh vào khu vực đóng quân của lữ đoàn 1, bao gồm các tỉnh phía Bắc, mục đích giao quyền kiểm soát tác chiến ở Khe Sanh cho quân đội. Cùng ngày, ông yêu cầu tham mưu trưởng bắt đầu chuẩn bị kế hoạch Pegase, để cứu vãn căn cứ Khe Sanh.
Ngày 27 tháng giêng, 317 người của tiểu đoàn 37 quân ngụy miền Nam Việt Nam cũng đến Khe Sanh: bỗng nhiên thấy rằng không có một tên lính miền Nam Việt Nam nào chiến đấu ở đây, mà Westmoreland đã nói trước rằng đây là "nơi chiến tranh quan trọng nhất", tư lệnh quân lực Sài Gòn nhận sửa chữa thiếu sót này. Thiếu tin tưởng lực lượng quân ngụy miền Nam Việt Nam, họ bị dồn ra ngoại vi căn cứ cách 200m về phía Đông.
Cho đến lúc này, số quân Mỹ hiện có trong căn cứ gồm: 5.772 lính thuỷ, 30 binh sĩ bộ đội mặt đất, 228 người của hải quân và 2 lái máy bay. Lính thuỷ và lính máy bay rụng rời tự hòi làm sao họ lại thất bại ở Khe Sanh: tại sao họ? Người của hải quân trả lời: đó là cuộc sống, thiếu may mắn! Trong khi chờ đợi, bắt đầu đào đi và tìm lấy một khẩu súng, đó là điều tốt nhất cần phải làm. (Lính thuỷ là Sea bee của toàn đoàn công binh hải quân Hoa Kỳ đã xây lại sân bay và ở trong căn cứ; những lái máy bay thay nhau lái máy bay đi thu nhận các tin tức của máy thu điện tử).
Một nửa quân đồn trú đóng xung quanh căn cứ. Khoảng 1.000 lính thuỷ đóng ở Rock Quarry-một bãi tập ở phía Tây căn cứ 1,5 km. Một nghìn lính khác chiếm điểm cao 558. Đại úy Dabny và đại đội 3 Ấn Độ của lữ 26 đóng ở nam cao điểm 881, về phía tây xa nhất của tất cả những vị trí của Mỹ ở Việt Nam. (Bao gồm những sĩ quan kiểm tra bắn và lính thông tin, có tất cả khoảng 300 người trên cao điểm: 100 người được điều động đến tăng viện vài ngày hôm sau. Đại úy Josper và 200 người của tiểu đoàn K của trung đoàn 3/lữ 26 phòng ngự trên cao điểm 861. Quá sang phía Đông độ năm chục người lính bảo vệ lính thông tin trên điểm cao 950. Tất nhiên chưa kể lính mũ nồi xanh và quân người dân tộc miền núi ở Làng Vây. Tất cả có 7 vị trí khác nhau được tổ chức phòng ngự.
Chắc hẳn không phải là vấn đề thời gian, Lownds và những người khác đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn-nó chưa đến. Trái lại, nhiều ngày và nhiều tuần tiếp nối nhau chỉ thấy một cuộc đọ pháo tay đôi rải rác những trận tấn công của bộ binh ngắn nhưng đông.
Căn cứ bố trí 18 khẩu súng cối 105mm và 6 pháo 175mm: hai lần nhiều hơn pháo hạng nặng của Điện Biên Phủ. Mỗi ngày đối phương bắn từ 200 đến 500 viên đạn vào căn cứ và các cao điểm xung quanh (số tuyệt đối là 1307), 2/3 là của pháo 152mm của trung đoàn 68 bố trì trong hang trên sườn Co Rọc cách 27 km. Những pháo khác cũng như cối đều được phân tán trong khúc gấp trận địa ở Fer và Cheval chỉ cách nam 861, 2.000 mét. Từ điểm cao này, lính của đại đội Ấn Độ có thể nhìn thấy những khẩu cối đang bắn vào và báo cho căn cứ những quả đạn sắp đến nơi. Khi nghe trên điện đài có tiếng gọi "arty. arty. Co Rọc" một lính thuỷ ấn nút chai bia nối với nhau bằng những đường dây điện lấy từ còi ôtô buộc vào thân cây. Có tiếng kêu, tất cả mọi người ở phía ngoài chỉ được tối đa 20 giây để nhanh chóng vào chỗ ẩn nấp gần nhất. Dễ dàng hình dung cảnh chen lấn xô đẩy nhau.
Ít hôm, pháo của căn cứ và của trại Caroll đáp lại 10 quả đạn đối với 1 quả đạn của đối phương (có đến 2000 mỗi ngày) nhưng mặc dầu cố gắng hết sức, các sĩ quan cũng không thể đáp lại và làm im pháo đối phương. Cũng ở Điện Biên Phủ, khi một khẩu đã bắn, nó được kéo vào trận địa ẩn nấp được ngụy trang khéo léo; máy bay không phát hiện được, các trinh sát mặt đất thì không đủ gần để mà nhìn thấy. Hơn nữa, một số khẩu pháo của Quân đội nhân dân Việt Nam có một tầm xa cao hơn các khẩu ở Khe Sanh cho nên những khẩu pháo cỡ lớn ở trại Caroll vì quá xa không với tới.
Từ tháng 2, các hiệu thính viên điện đài nhận được tín hiệu xuất phát từ một hệ thống hang ở bên kia biên giới chỉ rõ có một tổng hành dinh ở cách Tây bắc Khe Sanh 30 km-chắc là bộ tư lệnh tiền phương điều hành toàn bộ lực lượng đối phương. Vài ngày hôm sau, tiếng rì rầm bắt đầu di chuyển, theo đó tự ông Giáp sẽ đến để quan sát đợt xung phong cuối cùng. Với hi vọng giết chết ông, máy bay B52 chà xát khu vực khiến cho các máy phát vô tuyến ngừng làm việc 2 ngày. Nhưng ông Giáp không có ở đó. Quân đội không bố trí máy bay lên thẳng để ông quan sát tận mắt mặt trận; dù thế nào cũng không cho phép ông rời khỏi tổng hành dinh ở Hà Nội, bỏ qua nhiều nhiệm vụ chính trị cũng như quân sự. Hơn nữa, ông không có lý do gì phải đến Khe Sanh; kinh nghiệm dạy cho ông có thể hoàn toàn tin tưởng vào các sĩ quan cấp dưới (Trong một nghĩa khác, thật đáng tiếc: nếu ông có mặt tại chỗ, chúng ta sẽ có một câu chuyện hay về các sự kiện về phương diện Việt Nam).
Lính thuỷ đóng trên các cao điểm là không may nhất. Đối phương cần có những độ cao ấy trước khi tấn công căn cứ; điều đó khiến cho lúc này lúc khác xảy ra những trận ác chiến, nhưng không bao giờ tấn công lớn. Mặc dầu đạn cao xạ của đối phương, và thời tiết xấu, những máy bay lên thăng vẫn ngày lại ngày tiếp tế lương thực thực phẩm, đạn dược kể cả nước thường trong những tấm lưới căng dưới máy bay. Trên Nam cao điểm 881, một người của Dab hay thổi kèn mọi buổi sáng, và các bạn của anh ta kéo lên những lá cờ trên những cột tạm bợ. (Khi báo chí đưa tin cờ đã bị mảnh đạn làm rách nát, người dân Mỹ gửi đến mỗi vị trí 52 cờ. Tất cả đủ yêu cầu).
Tất cả những người lính thuỷ chiến đấu rất dũng cảm trong những điều kiện khủng khiếp-nhưng bộ đội Bắc Việt Nam cũng vậy. Theo đại úy Ray W.Stubbe, có mặt tại chỗ "Kỷ luật bắn và ngụy tràng của họ thật mẫu mực, cũng như lòng dũng cảm và tính kiên nhẫn". Cuối tuần đầu của tháng 2, 10% lính đồn trú dã bị giết hoặc bị thương phần lớn vì đạn pháo. Về các mặt, Khe Sanh bắt đầu giống như Điện Biên Phủ. Cũng như ở Điện Biên Phủ, có máu và những bọ mặt hốc hác, có mưa, có bùn, có hầm sụt. Và đói. Và tiếng nổ không ngừng. Có bom ở Khe Sanh và đạn và băng bó; những đôi chân lạnh buốt và ẩm ướt, phân người và rác rưởi. Những con chuột đi dạo khắp nơi, tranh nhau các đống rác, chạy qua mặt những người đang ngủ trong hố. Cũng có những giao thông hào của đối phương tiến gần đến hàng ngày. Sung sướng thay những thương binh được máy bay lên thẳng trở đi, không có bệnh viện tạm thời thối mùi máu ở Khe Sanh. Nhưng phải trả giá đắt: có nhiều lái máy bay và thầy thuốc bị tai nạn.
Cũng như ở Điện Biên Phủ, quân ở Khe Sanh thỉnh thoảng chỉ có thể tiếp tế bằng dù; lý do không hoàn toàn vì pháo cao xạ đối phương, mà mây mù bao trùm nhiều ngày trên đường băng làm cho máy bay không hạ cánh được kể cả trực thăng. Bao giờ về mùa này những khối lớn khí nóng bốc lên từ cái thùng sâu cách 200 mét cuối đường băng (và nơi dòng sông cung cấp nước cho căn cứ) gặp không khí lạnh từ núi đến cũng tạo thành mây mù.
Khi những người lái máy bay của không lực Hoa Kỳ không thể nhìn thấy mặt đất, họ sử dụng hoặc hệ thống LAPES, hoặc kỹ thuật GPES một cái móc buộc ở đầu sợi dây cắm xuống đất để kéo một kiện hàng ở phía sau máy bay. Song những sáng kiến này cũng chỉ là những cách xoay xở tạm thời; các chuyến dù bảo đảm cho phần lớn việc tiếp tế cho căn cứ vẫn còn phải và luôn luôn đợi thời tiết thuận lợi. Những nhiệm vụ này sẽ không nguy hiểm; đường tiếp cận của máy bay phụ thuộc vào chiều gió và đối phương bắn vu vơ qua mây mù thỉnh thoảng cũng đúng một mục tiêu.
Dịch vụ tình báo cho biết rằng đã ít ngày, một bộ phận của sư đoàn 320 đang hoạt động về phía Đông và triển khai đội hình tấn công trại Carroll. Nếu căn cứ này bị sụp đổ, sẽ có thể là kết thúc của Khe Sanh, mất sự yểm trợ của pháo binh hạng nặng.
Luôn luôn bị mây mù và dưới trời mưa không ngớt, lại bị pháo binh đối phương liên tục đánh phá, lính thuỷ nghiến răng chịu đựng. Bỗng nhiên ngày 6 tháng 2, sau khi trời sập tối, đối phương đánh chiếm Làng Vây, lần đầu tiên sử dụng xe tăng đánh lại quân Mỹ mà một vài chiếc do phụ nữ lái. (Sau chiến tranh được biết bằng xe tăng đã được sử dụng một lần trước đó, chống lại các lực lượng Lào cách vài km về phía Tây). Tổng hành dinh Sài Gòn rụng rời được tin này-điều này đưa chiến tranh Việt Nam lên một tầm mới-nhưng sự sợ hãi là quá đáng: những xe tăng có thể rất dễ bị phá huỷ nhờ những vũ khí chống tăng mang vác được mà lính thuỷ ở Khe Sanh đã được trang bị. Đó là những chiếc tăng của Trung Quốc theo kiểu Liên Xô PT.76, một chiếc xe lội nước bọc sắt mỏng nặng 14 tấn không thể so sánh được với loại xe tăng hạng nặng T.72 của Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng mấy năm sau. Chúng cũng trang bị kém hơn những khẩu pháo 76mm và súng máy 7,62mm được sử dụng để tiêu diệt quân phòng ngự ở Làng Vây. 316/400 lính phòng ngự căn cứ nhỏ này bị tiêu diệt: 4 đại đội lính Nam Việt Nam, tiểu đội trinh sát 1 đại đội người dân tộc Bru, 1 lực lượng tiến công cơ động gồm 161 người dân tộc Hrê, và 10 lính mũ nồi xanh Mỹ. Chỉ còn 14 lính Mỹ và 60 lính dân tộc ít người sống sót. Đó là một vụ tàn sát đau đớn vì ban đêm không thể điều động lực lượng tăng viện để ứng cứu căn cứ tiền tiêu ở một khoảng cách rất thuận lợi phía bên kia làng.
Quân đồn trú căn cứ Khe Sanh và các cao điểm chắc chắn cũng không chậm trễ. Họ chuẩn bị đối mặt với sự tấn công, nhưng chẳng thấy gì. Lý do chính là máy bay B52.
Không thể so sánh sự yểm trợ của máy bay quân Pháp ở Điện Biên Phủ với sức mạnh to lớn của không lực Hoa Kỳ. Quân Pháp có độ chừng 200 máy bay, quân Mỹ có hơn 2.000 và một hạm đội của B52. Suốt trong 3 giờ, ngày cũng như đêm, 2 đội 3 máy bay B52 bay ở độ cao trên mây mù, thả hàng trăm quả bom xuống khu vực nghi ngờ có vị trí của đối phương (vì điều kiện khí hậu thời tiết rất xấu ở miền Bắc Việt Nam, 3/4 máy bay B52 thực hiện kế hoạch Rollind Thunder đều được điều động đến Khe Sanh. Các máy bay được điều khiển đến mục tiêu từ một người điều khiển trong căn cứ). Trong phạm vi không tập của máy bay ném bom, các trận địa của miền Bắc Việt Nam phải chịu một cuộc tấn công trên không trong 5 phút/lần. Cộng tất cả bom thả xuống hàng ngày gấp 3 lần lượng bom sử dụng hàng ngày trong chiến tranh thế giới với sức công phá bằng 4 quả bom nguyên tử loại sử dụng ở Hirosima. Các cuộc ném bom chính xác đến độ có thể đánh những mục tiêu chỉ cách vị trí lính thuỷ có 200 mét.
Máy bay B52 đến từ Giam, Utapao ở Thái Lan hoặc từ Kadena trên đảo Okinawa. Các phi công may bay ném bom đến từ khắp nơi và thuộc về các lực lượng rất khác nhau. máy bay hải quân 1, không lực 7, tư lệnh không quân chiến lược, hải quân Hoa Kỳ 77, các đơn vị không quân Nam Việt Nam và không quân quân đội mặt đất. Các máy bay cũng nhiều loại khác nhau: Thunderchifs, Phantoms, Sky Hawko, Intruders, Cousaders, Skyrauders bay lượn không ngừng trong khu vực căn cứ. Chúng cũng rải chất độc rụng lá; trên hàng cây số, rừng rậm trở thành một vùng hoang vắng che phủ bằng cây cối chết và cây cối bị gậy nát.
Bộ đội Quân đội nhân dân Việt Nam không thể tấn công được bởi vì các kế hoạch luôn bị đảo lộn: các điểm chuẩn bị địa hình đều bị bom xoá đi, con người không tìm thấy đường đi; các trung đội hoặc đại đội đang đi đến địa điểm tập trung thì một trận không tập của máy bay làm phân tán ra từng mảnh trước khi đến nơi; đi lên hàng đầu họ không thể ẩn dấu dưới lá cây bị chất hoá học làm rụng hết, trở thành mục tiêu dễ dàng cho pháo binh Mỹ. Trong bán kính 3 km xung quanh các vị trí, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam không thể ẩn nấp trong các giao thông hào hoặc hầm cá nhân chỉ chờ phải hi sinh. (May mắn thay cho những người ở phía sau, tác dụng của không tập đã giảm đi rất lớn vì trong hệ thống chỉ điểm cho máy bay ném bom có những tình báo cộng sản đưa tin về những mục tiêu và thời gian đánh phá. Các tin tức này nhanh chóng được truyền đến các đơn vị trong cuộc: với mọi khả năng có thể, họ trông vào những hang tối đào trong các cao điểm. Hệ thống địa đạo này chỉ bị khám phá sau chiến tranh. Song, bất kỳ thế nào những người dân tộc miền núi Bru hiện ở Khe Sanh có thể báo tin cho lính thuỷ; một trong số họ định làm việc ấy nhưng người ta không hiểu anh ta nói gì và giao cho một người Việt Nam).
Đến 20 tháng hai, ông Giáp rút khỏi Khe Sanh 5 tiểu đoàn, hai của trung đoàn 29 sư 325C và 3 của trung đoàn 24 sư 304-để giảm bớt sức ép mà viện trợ cho quân giải phóng miền Nam Việt Nam ở Huế.
Chiều 29 tháng hai, một tiểu đoàn của sư đoàn 304 tấn công trung đoàn quân ngụy của miền Nam Việt Nam đóng ở giáp danh phía Đông căn cứ. Ba lần xung phong kế tiếp nhau trong ban đêm là những đòn tấn công mạnh nhất ở đây; sự thật là chỉ nghi binh cho sự rút lui của toàn bộ quân đội của Quân đội nhân dân Việt Nam tập trung xung quanh Khe Sanh.
Ngày hôm ấy ngày thứ 40 của cuộc chiến và là ngày cuối cùng của tháng hai (đó là một năm nhuận: hàng nghìn lính thuỷ phàn nàn phải ở thêm 24 giờ ở Việt Nam), một số hào của đối phương chỉ còn cách vị trí phòng ngự hơn 100 mét. Tuần sau, các giao thông hào đến gần hơn một ít, nhưng không nhiều. Không còn thấy mớ bòng bong hầm hào ở Điện Biên Phủ mà ông Giáp đã khéo léo động viên chiến sĩ cố gắng hết sức. Ở đây không có dân, chiến sĩ không thể vừa chiến đấu vừa tránh bom vừa đào hào được.
Ngày 6 tháng ba, trong khi lính thuỷ đang mỏi mắt chờ đợi trận tấn công cuối cùng, các lực lượng của ông Giáp dỡ trại và khó nhọc vượt qua những gì còn lại trên cánh rừng. Bốn mươi bảy ngày sau khi bắt đầu cuộc chiến, đối phương bỗng dưng biến mất. Đối với Lownds và quân lính của ông, việc ra đi này không thể giải thích được-kể cả việc đối phương không làm ô nhiễm con sông chảy xuống đáy thùng nguồn cung cấp nước duy nhất của căn cứ. Nếu họ làm chuyện đó, gánh nặng hậu cần này có thể là lối thoát cho cuộc chiến. Sự thật đối phương không nghĩ đến chuyện đó; sau đó, rõ ràng với khả năng vận tải to lớn bằng máy bay, quân Mỹ có thể sử dụng mọi cách để tiếp tế nước cho căn cứ.
Đại đội Ấn Độ phòng ngự cao điểm 881 nam, bị tổn thất nặng nề (167 người trên quân số khi xuất phát 185 người). Vì họ chiếm mất vị trí rất dễ bị đánh mà quân đối phương rất thèm muốn. Nói chung, tổn thất không nặng nề, ít hơn những con số được đưa tin. 205 lính Mỹ chết ở Khe Sanh, vào khoảng 30 người một tuần lễ, một tỉ lệ tổn thất thấp hơn ở Huế và trong tấn công dịp Tết nhiều. Song cha tuyên úy Stubbe nói rằng đã đếm được 475 túi nhựa xanh đựng xác lính thuỷ. Hơn nữa con số 205 không tính đến những cuộc hành quân cấp cứu, và những lính mũ nồi xanh bị giết gồm căn cứ. Càng không kể đến người Bru, và Hrê đã chết bên cạnh họ, và tiểu đoàn ngụy miền Nam Việt Nam đóng ở ngoài căn cứ hoặc 49 lính Mỹ chết khi máy bay bị bắn rơi. Có thể toàn bộ tổn thất đã quá con số 600; không kể đến hàng trăm người tị nạn Lào cùng những người khác và số không xác định người Bru sống trong rừng nạn nhân của bom Mỹ. Tướng Westmoreland đã khẳng định rằng khu vực xung quanh Khe Sanh thực tế còn ở được, nhưng không đúng. Theo tin của cha Stubbe, khoảng 5.000 người Bru đã chết trong quá trình chiến tranh.
Theo tin công luận Mỹ, tổn thất của đối phương lên đến 1.602, nhưng chỉ có 117 súng và 39 loại vũ khí khác bỏ lại trên chiến trường. Cũng có thể hàng trăm, hàng nghìn người bị bom không để lại chấu vết gì trong bụi bặm, bùn lầy và lá cây rụng. Tổng tư lệnh Sài Gòn nói là từ 10 nghìn đến 15 nghìn người chết nhưng theo thói quen, những tin tức của họ thường là nói quá lên.
Ngày 23 tháng 3, tổng thống tuyên bố rằng tướng Westmoreland được cử giữ chức tổng tham mưu quân đội, trở về Hoa Kỳ.
Ngày 17 tháng 4, 67 ngày sau khi bắt đầu cuộc chiến, quân đồn trú ở Khe Sanh được rút đi bằng lực lượng đi bằng đường bộ. Tướng Westmoreland khẳng định phải "đợi đến lúc thời tiết thuận lợi mới có thể rút đi. Trong thời gian chờ đợi, chúng ta vẫn không ngừng đánh lại quân ông Giáp". Cuộc hành quân ấy tổn thất 130 người chết (51 lính thuỷ, 46 quân mặt đất, 33 lính ngụy Nam Việt Nam) cộng thêm vào những tổn thất trong trận Khe Sanh.
Theo tướng John J.Tolson chỉ huy sư đoàn ky binh không vận, người mục kích trận đánh, đến với việc rút quân; Khe Sanh là "một tình thế đau buồn ở đỉnh cao; vô kỷ luật mất trật tự, rác rưởi trùm lên tất cả nào đạn không nổ, nào vật liệu hư hỏng, và quân lính sống như những con chuột chứ không phải là người". Theo một nhà quan sát khác, "không còn cây cối không còn gì hết. Tất cá bị đốt cháy, tàn phá, nham nhở... như trên mặt trăng”. Một người khác tóm tắt những cảm tưởng của mình; "Khắp nơi những đống vôi gạch đổ nát, những xác chết, chẳng còn gì hơn...".
Ngày 27 tháng 6, căn cứ Khe Sanh bị máy bay ủi san bằng, các công sự đều bị phá huỷ để cho đối phương sau này không thể chụp ảnh mà tuyên truyền. Tất cả mọi di tích đều bị phá huỷ đến mức chỉ còn những vết đất đổ trên cao nguyên.
Một vài người tự hỏi tại sao. Khe Sanh bị bỏ rơi, vì trước đây đã nói rằng nó quan trọng thế. Nhưng mọi người vui vì đã kết thúc.
Về trận Khe Sanh, những nhà bình luận của ông Giáp viết: "Đối với chúng ta, trận Khe Sanh không phải là một trận quan trọng lắm. Hay đúng hơn không quan trọng bằng đối với quân Mỹ. Đối với Hoa Kỳ, Khe Sanh đánh dấu một trận đánh lớn hơn trong bối cảnh phải bắt đầu sau Tết. Đó là một nghi binh, những có thể khai thác nếu chúng ta giảm bớt được tổn thất và thu được thắng lợi lớn...
"Trong khi quân Mỹ còn ở lại Khe Sanh để bảo vệ uy tín họ nói rằng Khe Sanh là quan trọng; khi họ đã bỏ đi, họ nói riêng nó đã chẳng quan trọng tí nào.
Không, Khe Sanh không thật quan trọng đối với ông Giáp. Điều ông quan tâm là một lực lượng khoảng 33.000 quân dồn lại ở phía Nam giới tuyến quân sự, sẵn sàng để khai thác những đường cong của trận tấn công dịp Tết. Sau khi thất bại trong tấn công dịp Tết, lực lượng này phái chịu một đợt rút lui kéo dài khiến cho quân đội và máy bay Mỹ đang cần nhưng không hoạt động được. Nếu chiến sĩ có khả năng tiêu diệt được lính thủy ở Khe Sanh-tốt quá. Khi đã thấy giai đoạn ba (đợt sóng thứ hai) không thực hiện được, vì máy bay B52 ngăn chặn một trận tấn công quyết định, ông Giáp đã tính đến nổ súng: ông ra lệnh cho một bộ phận các lực lượng đi yểm trợ cho quân giải phóng miền Nam đã chiếm giữ Huế và số còn lại quay về chính diện của con đường.
Westmoreland đã phê bình chỉ trích về việc chiếm giữ quyết định ở lại Khe Sanh và chiến đấu ở đó. Những lý do đẩy đến hành động như vậy hoàn toàn trong sáng và logi.c Nhưng đi xa hơn, người ta có thể tự hỏi điều gì xảy ra nếu không làm như vậy. Có thể, những lực lượng của ông Giáp tập trung xung quanh Khe Sanh đã hoạt động về phía Đông để tăng cường lực lượng cho quân giải phóng miền Nam Việt Nam ở Huế, nơi có thể thành một cuộc chiến tranh quyết định như Điện Biên Phủ. Cũng như những người khác, Westmoreland chê ông Giáp chấp nhận những tổn thất nặng nề. Song không nên quyên rằng trong quá trình các cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, ông Giáp đã chấp nhận những mất mát để bù trừ sức mạnh nội tâm: con người chống lại súng đạn. Nhưng khi tổn thất không cân bằng với kết quả, ông kết thúc tác chiến.
So với các cuộc chiến tranh khác, những tổn thất của Mỹ ở Việt Nam còn rất nhẹ (và rõ ràng thấp hơn tổn thất của Pháp trong chiến tranh Đông Dương). Những trận đánh 7 ngày của cuộc chiến Secesion đã mất 36.000 người chết. Năm 1916 chỉ một ngày đầu cuộc chiến tranh Somme, quân Anh đã mất 60.000 người trong đó gần 20.000 người chết. Trong quá trình chiến tranh thế giới lần thứ hai, trung đoàn lính thuỷ-cũng là trung đoàn 26-phòng ngự Khe Sanh, đã mất 26.000 người trong một trận tấn công chống quân Nhật. Nhưng thái độ đã thay đổi: những bài diễn văn sôvanh không thuyết phục được ai, không nên quên rằng ở thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, không có truyền hình, nếu có vô tuyến truyền hình, những trận chiến đấu ấy không thể kéo dài lâu đến như vậy.
Những người Mỹ và người Bắc Việt Nam có những thái độ rất khác nhau vì vấn đề ấy. Những người lính rất bị kích động vì những chính sách giới hạn số thương vong, vì họ rất dễ bị tổn thương bởi những hình ảnh các quan tài sắp hàng dài trên đường băng sân bạt miền Nam Việt Nam thỉnh thoảng gây nên những sự cuồng loạn.
Trái lại ông Giáp và nhân dân miền Bắc Việt Nam, chấp nhận những mất mát, họ coi như là một phần của cái giá phải trả-đừng quên rằng ở miền Bắc, chưa có vô tuyến truyền hình (?).
Ở Hoa Kỳ, những hình ảnh và những tiếng nói của trận tấn công dịp Tết đã biến đi trên màn hình, cũng như màn bao phủ dày đặc ở Khe Sanh. Sau những tuần lễ lo lắng, công chúng Mỹ được an ủi khi hiểu rằng chiến tranh đã chấm dứt: không thật thắng lợi không nghi ngờ, nhưng cũng không tổn thất.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 4:34 pm
Chương 21: Sự tan rã
Năm này đến năm khác, chúng ta đã chiến đấu trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, vượt qua những điều không thể tưởng tượng được nhưng chúng ta vẫn tiếp tục sống, lao động và chiến đấu.
Phạm Văn Đồng
Mùa xuân năm 1968, chiến tranh Việt Nam-và trong một nghĩa khác ông Võ Nguyên Giáp-đã gây nên hai nạn nhân mới. Một trong hai nạn nhân là William Childs Westmoreland.
Tướng Westmoreland đã bị chỉ trích vi phạm ba sai lầm trong nhận định đánh giá việc lãnh đạo cuộc chiến tranh. Có thể kể: "Tính đến sức cơ động rất cao của không quân, tính đến những lực lượng hậu cần rất uyển chuyển, và nhất là năng lực nổ súng khổng lồ, ông rất muốn quân Mỹ chiến đấu trong những khu vực vắng, thưa dân nếu như đối phương đã sẵn sàng nghênh chiến. "Những người khác không chia sẻ phương diện này: "Chiến trường thực sự là dân cư chứ không phải là rừng núi" tướng Krulak Tư lệnh trưởng Hải quân toàn khu vực Thái Bình Dương. Ông Giáp cũng có ý kiến tương tự. Kể cả chiến lược "tìm và diệt" của Westmoreland-mà quân Pháp đã chịu thất bại-cùng với sự quan tâm đến những hành trình xâm nhập đưa đến hậu quả phân tán lực lượng quân Mỹ trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam, điều đó khiến quân Mỹ dễ bị tổn thương và cản trở việc tập trung lực lượng nổ súng khi có dịp giáng cho đối phương một cú quyết định. Hơn nữa, quan niệm của ông muốn mở rộng các cuộc hành quân đưa chiến tranh ra miền Bắc-thuật lại năm 1960 cuộc đổ bộ 1950 ở In chon Triều Tiên, cho phép vòng ra phía sau địch-là đáng nghi ngờ. Ở Triều Tiên, đội ngũ các quốc gia liên hiệp không phản đối với một lựa chọn như Việt Cộng, liên tục quấy rối các đơn vị và các căn cứ. Ông Giáp bình luận: "Tấn công miền Bắc có nghĩa là mở ra một chiến trường lớn hơn. Các lực lượng quân Mỹ càng bị phân tán hơn, càng dễ bị tiêu tan ý chí." Dù thế nào quan niệm ấy không bao giờ thực hiện được.
Westmoreland chống đỡ rằng, để bảo đảm không xâm nhập vào biên giới và buộc ông Giáp phải tiến hành những trận đánh thông thường không bao giờ giành được thắng lợi ông ta cần ít nhất gấp 3 lần lực lượng để bố trí tối đa sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. (Nói khác đi một triệu rưỡi người. Ông Giáp đã nói quân Mỹ phải cần hơn một triệu người. Về phương diện ấy, họ đã chấp nhận). Westmoreland không hỏi họ cần tính đến những can dự của Mỹ vào các điểm khác trên thế giới, tính đến trạng thái tinh thần của quốc hội và dư luận công chúng Mỹ, ông ta không còn may mắn nào để đạt được. Vì vậy, ông không bao giờ có một mặt trận xác định rõ ràng hơn là một phần trên đường giới tuyến kéo dài trên khu phi quân sự: còn trong tất cả phần còn lại của miền Nam Việt Nam, ông chấp nhận sử dụng những cuộc hành động cơ động.
Trái lại, Westmoreland luôn đổi mới trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. ông là người đầu tiên đã sử dụng máy bay chiến lược vào mục đích chiến thuật-và đã thuyết phục được các tướng Mỹ sử dụng những máy bay B52 để yểm trợ gần cho các lực lượng mặt đất. Được Mc. Namara nâng đỡ, ông đã thực hiện Hulycobra và các loại máy bay trực thăng khác với những hoả lực cơ động đã yểm trợ cho bộ binh rất hiệu quả. Cuối cùng ông đã đưa lại cho các cuộc hành quân sức mạnh chiến đấu và sức cơ động chưa từng có.
Xung quanh vấn đề Khe Sanh, không ai có thể làm gì hơn để cho thắng lợi tuột khỏi tay ông Giáp. Westmoreland không bao giờ nghi ngờ rằng các lực lượng của ông có thể giữ được căn cứ, nhưng để không coi thường ai cả, ông đã giữ việc giao chiến 20 giờ mỗi ngày. Suốt hai tháng trời, ông đã ngủ trên một cái giường sắt trong Trung tâm điều hành tác chiến Sài Gòn, ở tư thế sẵn sàng ngay cả trong những lúc nghỉ ngơi ngắn ngủi. Hết ngày này qua ngày khác, ông sống ở Khe Sanh, thở không khí Khe Sanh-nhận báo cáo ra quyết định, viết tóm tắt tình hình cho tổng thống, tự mình giao mục tiêu cho B52. Không nên quên rằng, một phần lớn của thời kỳ này, ông đang điều hành chiến tranh dịp Tết. Đó là một nhiệm vụ hầu như quá sức người, cùng với các tướng ương ngạnh của hải quân, với đô đốc Ullysses S.Grant "người chủ” của vùng Thái Bình Dương (tất nhiên là cấp trên của ông) và với vô số tướng của không quân. Westmoreland đã thành công trong việc dung hoà tất cả.
Hôm nay, ông nói rằng Khe Sanh không quan trọng bằng những trận đánh nhân dịp Tết, mà người dân Mỹ đòi hỏi là một thắng lợi lớn hơn, nhưng trong những trường hợp tương tự, ông lại tiến hành một cuộc chiến tranh mới:"Khe Sanh là một chiến trường quan trọng nếu chúng ta không tiến hành, các sư đoàn của ông Giáp tiếp tục tiến lên và trộn vào nhân dân vùng đồng bằng miền biển. Trong trường hợp ấy, các sư đoàn ấy sẽ không hoạt động xung quanh Khe Sanh làm mồi cho không quân chúng ta".
Westmoreland là người chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh lâu dài hơn tất cả các tướng Mỹ khác. Không có ai chỉ huy bằng ông, như một ông chủ. Nhiệm vụ của ông còn khó khăn hơn khi một phần các tin tức do các dịch vụ tình báo cung cấp lại đáng ngờ nhất. Có thể kể một ví dụ: những con số thống kê xung quanh các mục tiêu không quân đánh phá thường rất mơ hồ: không lực Hoa Kỳ đã phá huỷ 179 nhà ga ở miền Bắc Việt Nam không vượt quá vài trăm kilômét mà phần lớn là đường đơn.
Westmoreland hy vọng vào Việt Nam ông sẽ có danh sách trong số các danh nhân có nhiều kỷ lục ở nước Mỹ. Không phải là trường hợp này. Mặc dù tổng thống Johnson đã quyết định bổ nhiệm ông Westmoreland làm tổng tham mưu trưởng của quân đội mặt đất ít lâu trước khi ông Giáp chưa tiến hành chiến dịch Đông Xuân 1967-1968. Việc bổ nhiệm này đưa ra công chúng sau trận tấn công tết Mậu Thân và chiến dịch Khe Sanh, nhiều người tưởng rằng đó là một cách thải loại ông ta mà không làm mất mặt ông ta. Đó là sự giải thích nhầm lẫn: rõ ràng ông đi khỏi Việt Nam khá vẻ vang. Westmoreland ra đi để trở thành người binh sĩ số một của Hoa Kỳ, nhưng những năm dài ở Việt Nam ông đã đạt đến một thất bại. Ông không trở về chiến thắng, ông không có quyền điều hành chiến thắng giữa nòng thần công bằng đá ở New York; đó là một con người chua chát đắng cay, người đã qua những năm tháng định đặt ngón tay vào chỗ yếu đang hoàn toàn lung lay. Đúng, Việt Nam là một giai đoạn buồn. Và không phải chỉ có ông như đã từng nói: "Nhiệm vụ của người lính trẻ Mỹ càng nặng nề hơn khi không được nhân dân ủng hộ."
Cũng như Navane, Westmoreland vấp phải một đối thủ khắt khe và không thể khuất phục. Ông đã định giải một bài toán quân sự cơ bản không có lời giải vì đấu tranh: ông không bao giờ có thể giành được thắng lợi khi người miền Bắc Việt Nam đã xác định tiếp tục cuộc đấu tranh; và bởi vì cái giá của cuộc chiến tranh này không phải là tiền của, mà cuộc sống con người và những vấn đề kiên nhẫn, mà nhân dân Mỹ không thể chấp nhận được.
Các tướng lĩnh của Westmoreland là những binh sĩ yêu nước, là con người bình thường trái lại đối phương, họ không nhận thức rằng công luận tạo thành yếu tố cơ bản nào đó; họ không hiểu rằng họ cần phải tôn trọng nhân dân và vì dân họ phải chiến đấu để nhân dân ủng hộ; không lấy chính trị là mấu chốt của triến tranh. Và cả khi họ không kiên nhẫn, điều đó không có gì thay đổi. Trong các nước phương Tây, quân đội làm những điều mà các nhà chính khách bảo họ làm, còn ông Giáp-một sự thật không có trước trong thế kỷ XX-có một chân trong mỗi phía. Ông có the vừa đưa ra những quyết sách về chính trị hoặc ít ra là đổi hướng trong suy nghĩ-và là người thực hiện những quyết sách đó.
Cũng như phần lớn sĩ quan cao cấp đã làm ở cương vị ông, Westmoreland nghĩ rằng có thể thắng lợi nếu người ta chấp nhận một nguồn lực lớn hơn. Một sự tăng cường đơn giản 20% số quân hoạt động chống lại đối phương đã đủ làm cho cán cân nghiêng hẳn. Nhưng cách thức của Mỹ là tiến hành chiến tranh với phần lớn những binh sĩ là lính thuỷ có mặt tại Việt Nam tự bảo vệ và quản lý lấy. Theo năm tháng, đã gần 3 triệu người phải đưa sang miền Nam mà một tỷ lệ thấp về quân số đến ngạc nhiên được đưa lên phía trước.
Theo những con số thống kế công khai, 45% của các đơn vị cơ bản không được hiểu theo đúng nghĩa của nó; giả thiết một số lớn người của các đơn vị chiến đấu để phần lớn thời gian tặng cho bạn bè các yếu tố của American way of life bằng chăm lo đến các cửa hàng, rạp chiếu bóng, câu lạc bộ, v.v... Mỗi tuần lễ, 7.000 trong số họ rời Việt Nam đi nghỉ phép. Sự thật tính ra chưa bao giờ có hơn 5% binh sĩ đi chiến đấu. Ông Giáp biết rằng: “Bình định tạo nên một mối đe doạ cho thắng lợi của miền Nam Việt Nam", nhưng quân Mỹ không bao giờ chấp nhận tầm quan trọng của việc giành lấy trái tim và khối óc của con người miền Nam Việt Nam. Thái độ của phần lớn lính Mỹ được tóm tắt trong câu nói bất hủ của một vị tướng: "Đánh họ bằng dùi cui, tim và óc họ sẽ theo". Để làm trầm trọng thêm tình trạng đó, các chính khách ở Washington mất dần sự ủng hộ về tinh thần và ý thức đối với nhân dân của chính họ. Đứng đầu họ là nạn nhân thứ hai của cuộc chiến tranh: Lyndon Baines Johnson.
Đối với tổng thống Johnson, trận chiến đấu ở Khe Sanh là một cái gai làm cho cái ghế chính phủ thêm lung lay. Tức thời sau khi cuộc chiến bắt đầu, lòng dân giảm sút nghiêm trọng; tệ hơn, 50% dân chúng phản đối chiến tranh và chỉ có 35% đồng ý. Họ bị ám ảnh về thảm hoạ Điện Biên Phủ. Dù thế nào đi nữa, Khe Sanh cũng không được bất hủ. Hy vọng có thể gây ảnh hưởng thuận lợi đến lối thoát cho cuộc chiến, quan tâm gần gũi đến các sự kiện, ông xây dựng ở dưới nền nhà trắng một cái sa bàn Khe Sanh và vùng phụ cận. Mọi giờ ban ngày và ban đêm, thỉnh thoảng cả quần áo ngủ, ông đến nghiên cứu, đặt câu hỏi và yêu cầu sự để tâm hàng ngày. Hằng tuần lễ liền ông đến đó tất cả các đêm, quan sát những gì xảy ra ở đó, theo đúng nghĩa tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ. Cũng như nhiều chính khách trước ông, Johnson làm rối loạn các kế hoạch của tướng lĩnh, sử dụng quyền quyết định những vấn đề quân sự quan trọng thực ra không thuộc thẩm quyền của ông. Ngày 27 tháng giêng ông yêu cầu từng người trong số Joint Chiefs of Staff tự mình-bằng xương bằng thịt như ông chỉ định-trình bày Khe Sanh có thể giữ được không. Chưa có ai trước ông đã làm như vậy. Ngày 29, ông nhận được sự "bảo đảm" do các tổng tham mưu trưởng liên quân ký. (Người ta chỉ có thể phỏng đoán trước phản ứng của ông, khi ông không vừa lòng).
Tháng 2 năm 1968, tác động của những hình ảnh Sài Gòn và Huế lan tràn trên toàn cõi Hoa Kỳ lục địa gây sự phản ứng kịch liệt vào ngày ấy-và tàn nhẫn làm cho Johnson đối mặt trước câu hỏi cần giải đáp về việc ông có thể tiếp tục cuộc chiến tranh giá đắt về tiền của cũng như sinh mạng con người. Gánh nặng của chi phí quân sự đã làm cho ông phải giảm bớt chương trình xã hội mà ông đã đưa ra bao nhiêu lần-giấc mơ của ông về một xã hội Hoa Kỳ vĩ đại. Ông đã làm nhiều: những người da đen đã có quyền bầu cử, một thế kỷ sau khi Lincoln ký tuyên bố giải phóng chương trình Medicare-nhưng như vậy chưa đủ. Để giữ cân bằng tương đối giữa giấc mộng ấy và thực tế chiến tranh, ông đã che giấu nhân dân Mỹ điều thực tế đang xáy ra ở Việt Nam-mở rộng sự can thiệp của Mỹ, số lượng người đã được gửi đi... ông đi đến chỗ phải che giấu cải giá thật của cuộc chiến tranh trước Quốc hội. Nhưng bao giờ vẫn thế, sự thật cuối cùng phải lộ ra giữa ban ngày.
Ngày 14 tháng hai, chính phủ đã cho ngân sách quân sự năm 1969 là 32 tỷ đô la. Ngày 15, không quân Hoa Kỳ tuyên bố bị bắn rơi 800 máy bay ở Việt Nam. Ngày 20 Hội đồng đối ngoại của Thượng viện mở một cuộc điều tra để xác định vụ rắc rối ở Vịnh Bắc Bộ, là một cuộc diễn tập của Mỹ để mở rộng chiến tranh, hoặc một sai lầm của Bắc Việt Nam được hiểu như một hành động chiến tranh (cuộc điều tra không kết luận). Cùng ngày ấy, một báo cáo báo tin có hai sư đoàn dự bị của Quân đội nhân dân Việt Nam lên đường đến Khe Sanh; trong đêm đó điểm cao 881 nam bị tiến công. Cuối cùng ngày 22, cơ quan tham mưu của Westmoreland tuyên bố con số thương vong hàng ngày cao nhất của quân Mỹ là 543. Ngày hôm sau, bộ trưởng bộ quốc phòng báo cáo Johnson cần tăng viện người cho Việt Nam. Muốn đáp ứng những đòi hỏi về quân số, cần phải gửi quân National Guard ("Canh phòng lãnh thổ"), điều không thể thực hiện khi tính đến sự phản đối chiến tranh đang tăng lên. (Westmoreland đã yêu cầu rất chính xác số đơn vị mà ông cần thiết nếu kế hoạch mở rộng chiến tranh của ông đưa các cuộc hành quân sang Lào và phía Bắc khu phi quân sự được phê chuẩn; trong trường hợp ngược lại, ông xin thêm 20.000 người để giữ nguyên trạng. Lầu Năm Góc đã phê chuẩn 206.000 người nhưng Westmoreland nói rằng phải đến con số ấy khi tính đến thành lập lại những lực lượng dự bị chiến lược. Ông đã nói với tôi: "Không có đâu ông không tìm thấy một tờ giấy có chữ ký yêu cầu 206.000 người của tôi"). Khi tổng thống hỏi đến Hội đồng các cố vấn gồm những người mà ông hoàn toàn tin tưởng, ông nhận thấy rằng họ đã hết ủng hộ cố gắng chiến tranh: chỉ còn ông là người cuối cùng còn tin tưởng. Lyndon Johnson đã hết đường. Ngày 31 tháng 3 năm 1968, trên một chương trình truyền hình, ông đã tuyên bố cho nước Mỹ việc ngừng ném bom của không quân và hải quân ở Bắc Việt Nam sắp xảy ra; cuối bản tuyên bố ông cũng không khêu gợi thêm một nhiệm kỳ nữa. Ba ngày sau, Hà Nội tuyên bố đồng ý thương lượng. Ngày 13 tháng 5, hội nghị hoà bình mở ra ở Paris. Tháng giêng năm 1969, Richard Mithous Nlxon vào nhà trắng.
Ngày 2 tháng 9, Cụ Hồ Chí Minh mất ở tuổi 79. Trong di chúc, cụ yêu cầu tro của Cụ được bảo quản ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn để cụ có thể ở lại mãi mãi với dân tộc Việt Nam. Đáng lẽ được hoả thiêu, thân hình Cụ được ướp xác; trưng bày trong quan tài bằng kính trong một lăng rộng bằng đá cẩm thạch hồng ở Hà Nội. Lăng được các binh sĩ danh dự bảo vệ và được hàng triệu người Việt Nam tôn kính. Điều đó có nghĩa là giữ lại trong đời sống một biểu tượng mà toàn Đảng đang cố gắng thực hiện. Lê Duẩn trở thành người thứ nhất trong số các nhà lãnh đạo
Việt Nam sau khi Cụ mất. Cụ Tôn Đức Thắng trở thành Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Cái chết của Cụ Hồ gây nên một nỗi đau thương lớn lao và khóc than âm ỉ, nhưng nó cho phép Đảng được xây dựng đất nước để tiếp tục cuộc chiến tranh: người ta nói với nhân dân là điều Cụ muốn; tại sao không tôn trọng ý muốn của Cụ.
Hoa Kỳ càng dấn sâu vào cuộc chiến tranh, số người Mỹ nghĩ rằng chính phủ của họ đã lầm lẫn ngày càng nhiều. Đối với nhiều công dân Mỹ, đất nước vĩ đại của họ lại can dự vào một cuộc chiến tranh tàn bạo như vậy là không thể tha thứ được. Đất nước Việt Nam bị tàn phá vì: bom và chất độc rụng lá của Mỹ. Ngày nào cũng có đàn ông, đàn bà, trẻ con bị giết, bị hành hạ xé nát thành sợi giẻ vì bom đạn và napan đốt cháy.
Ngày 2 tháng 11 năm 1965, noi gương một vị sư đã tự thiêu ở Sài Gòn để phản đối Diệm, một tín đồ trẻ phái Quây Cơ tên là Norman Morrison tự đốt cháy mình trước Lầu Năm Góc ở Washington. Một tuần lễ sau, một thành viên của hoạt động thợ thuyền công giáo lặp lại hành động của Morrison trước trụ sở Liên hiệp quốc ở New York. Ngày 27 tháng 11 một cuộc biểu tình im lặng tập hợp 35.000 người chống chiến tranh ngồi ở Lầu Năm Góc. Những tháng tiếp theo, những cuộc biểu dương lực lượng tiếp tục xảy ra, trong các khu sân bãi các trường đại học Mỹ. Người ta đốt hình nộm của các nhà lãnh đạo, trong đó có Westmoreland. Ít lâu sau, nhân dân Mỹ đã làm cho họ có tiếng nói trên chính trường nước Mỹ.
Tháng 6 năm 1969 tổng thống Nixon tuyên bố bắt đầu việc rút quân Mỹ khỏi Việt Nam. Một tháng sau ông đưa ra một học thuyết mới: Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tôn trọng những nghĩa vụ quốc tế và bảo đảm tấm chắn vũ khí nguyên tử cùng một sự viện trợ quân sự và kinh tế, những nước bị trực tiếp đe doạ phải cung cấp phần lớn lực lượng cần thiết để phòng vệ đất nước mình. Đây là bước thứ nhất để rút ra khỏi ngõ cụt Việt Nam.
Tháng 11 năm 1969, hai trăm năm chục nghìn người tập trung ở Washington để phản đối chiến tranh. Tháng 5 năm 1970, quân đội phải đến giải tán cuộc biểu tình nổi sóng tập hợp một trăm nghìn người. Ở trường đại học quốc gia Dekent ở Ohio, những người National Guard bắn vào đám đông, giết chết 4 sinh viên. Cùng tháng 5, Quốc hội bãi bỏ "những sự kiện Vịnh Bắc Bộ" năm 1964 cho phép tiếp tục cuộc chiến tranh bằng những lời lẽ không chắc chắn. Cuộc chiến tranh này, quân đội không thể thắng lợi; số người lên án mãnh liệt ngày càng tăng; bản thân quốc hội cũng đã có một bước lùi. Tổng thống Nixon phải hành động. Tháng 7 năm 1970, tổng thống cho ra đời một chiến lược ba điểm để cho Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến; tăng cường viện trợ cho miền Nam Việt Nam; thúc đẩy nhanh hơn hành động bình định; rút dần các lực lượng Mỹ đồng thời với những tiến bộ của Việt Nam hoá và công việc bình định. Ngoài ra, phải cố gắng tách rời miền Bắc Việt Nam ra khỏi Liên Xô và Trung Quốc nhờ những tiến trình ngoại giao, song song với đàm phán hoà bình với Hà Nội.
Tướng Creighton W.Abrams tiếp tục sự nghiệp của Westmoreland đến giữa năm 1968, xây dựng một chương trình rút quân Mỹ làm 14 chuyến. Chuyến thứ nhất gồm 25.000 người ra đi gần như tức thời: 35.000 trở về Hoa Kỳ vào tháng 9 và 50.000 người vào tháng chạp.
Ngay sau khi Mỹ tuyên bố rút quân, tình thế thay đổi cơ bản ở Việt Nam. Ở miền Bắc ông Giáp và các ủy viên Bộ Chính trị rất hài lòng: chắc chắn thắng lợi chỉ còn là vấn đề thời gian. Ở miền Nam nhân dân và quân cộng hoà miền Nam nhìn đến tương lai mà lo, còn các lực lượng Mỹ hầu như đó là tất nhiên: tuy thật xấu hổ về tinh thần khi phải tuyên bố không thể thắng lợi-trong những điều kiện ấy hy sinh cuộc sống để làm gì? Nhưng ở Washington, Nixon không có cách lựa chọn nào khác bố trí thời gian để rút quân về; quân Mỹ chưa thể ra đi trước khi tăng cường lực lượng cho quân ngụy miền Nam đủ sức đương đầu với đe doạ từ miền Bắc-và điều đó không thể làm ngày một ngày hai được.
Như vậy miền Nam đã thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam, trước khi ông Giáp và quân đội của ông giành thắng lợi, như họ đã chiến thắng chiến tranh Đông Dương. Sau phát súng kết liễu ở Điện Biên Phủ, quân Pháp chỉ có thể rút lui. Ở miền Nam, không có một trận tác chiến quyết định có lợi cho bên này hoặc biên kia-chỉ còn một nỗi ngày càng mất lòng tin của nhân dân Mỹ cũng như miền Nam Việt Nam. Sau những chuyến ra đi đầu tiên, những bộ phận còn lại hầu như tan rã, cũng như quân cộng hoà miền Nam để miền Nam rơi vào tình trạng không có phòng ngự chống lại sự xâm nhập sắp xảy ra của miền Bắc.
Trong khi quân Mỹ giảm dần, những người còn lại càng ngày càng mất tinh thần. Những kẻ mới đến đắm sâu vào trong không khí thất bại gần đến nổi loạn và đến lượt họ mất hết động cơ chiến đấu. Càng ngày dịch bệnh càng lan khắp trận địa, kỷ luật và trật tự đi vào quên lãng; nhiều đơn vị lâm vào tình trạng vô chính phủ. Tình trạng bất mãn toàn bộ lan khắp quân đội; ở một số trường hợp, khoảng 245 xuất bản phẩm chống chiến tranh được viết, in và phân phối trong lính Mỹ.
Quyết định rút khỏi Việt Nam không phải là nguyên nhân duy nhất của tình trạng bất ổn. Phần lớn binh sĩ Mỹ là dũng cảm, giỏi, và tự hào về truyền thống của họ nhưng xa hơn họ không nhiệt tình bằng đối phương của họ. Khi phải luyện tập căng thẳng về thể lực, đòi hỏi kỹ thuật tinh thông, họ kém tập trung do đó kém hiệu quả, chính bởi vì một số trong bọn họ không chấp nhận chiến đấu cho đất nước họ cũng như cha ông họ đã làm trong những cuộc chiến tranh trước đây. Yếu tố chính làm nhụt chí xung kích của họ là tất cả họ sống theo kiểu Mỹ, trừ một số lực lượng đặc biệt đóng ở cuối rừng; vì cần cho mức sống cao ấy, mọi người đều phải chở bằng máy bay hàng nghìn kilômét đến. Các tướng lĩnh và các chính khách rất lấy làm tự hào về điều đó đó là gốc rễ của nhiều vấn đề.
Các đội máy bay ném bom, những căn cứ tráng lệ có điều hoà khí hậu ở Thái Lan, Philippines hoặc Việt Nam, từ bỏ thời gian thực hiện những nhiệm vụ nguy hiểm căng thẳng thần kinh, để trở về yên tĩnh và đủ tiện nghi. Các lính thuỷ đã trực tiếp chiến đấu, chỉ sống căng thẳng trong giây lát được máy bay lên thẳng trở về sau một trận chiến ác liệt họ có thể yên lặng ăn một mẩu biftek khoai tây nướng tưới Cocacola tươi và tận hưởng những cốc nước đá. Thỉnh thoảng, ngay giữa trận đánh vẫn có bia lạnh đến từ trên trời, do máy bay lên thẳng đưa tới. (Trong những căn cứ lớn, hậu cần quân đội đã đưa đến 250.000m3 thực phẩm ướp lạnh). Một đại tá đã được hưởng một huân chương dũng cảm vì đã dùng trực thăng mang đến trận địa các lực lượng đặc biệt những con gà tây ướp lạnh nhân dịp kỷ niệm Thanksgivingday. Trong các câu lạc bộ sĩ quan, khi không khí quá lạnh đều xây dựng lò sưởi-Ngoài ra có những lò than rán cá thịt tất cả các chủ nhật. Hầu như khắp nơi, mọi người đều có truyền hình, cộng với một bộ phim các buổi chiều-nếu họ muốn đi đến rạp chiếu bóng. Làm sao có thể đưa hết năng lực vào trận chiến đấu trong khi họ đang bị mềm lòng về những tiện nghi quá mức và giành nhiều thời gian cho thế giới viễn tưởng? Thông thường, binh sĩ không thể dung hoà thực tế chiến tranh với trạng thái căng thẳng thường xuyên và những tình tiết đẫm máu và những tính chất tự nhiên của cuộc sống; điều trái ngược quá mức đó là một trong những nguyên nhân chính của những chấn thương tâm thần của một số họ đã phải chịu đựng trong chiến tranh và sau chiến tranh.
Theo tướng Westmoreland, tất cả những tiện nghi ấy nhằm giữ vững tinh thần của con người tránh họ kéo ra đường phố và làm lung lay hơn nữa nền kinh tế yếu ớt của miền Nam Việt Nam vì sự hoang phí của họ; Không ít chuyện hào nhoáng quá đáng ấy đã gây nên những chi tiêu không cần thiết. Khi quân Mỹ rút quân khỏi Việt Nam họ đã để lại 71 bể bơi, 160 cửa hàng lưu niệm, 90 câu lạc bộ, 159 sân bóng rổ, 30 sân tenis, 55 sân bóng đá, 85 sân bóng chuyền, 2 bowlings, 357 thư viện-chưa tính những cửa hàng của quân đội đầy ắp hàng hoá xa xỉ: nữ trang, nước hoa, rượu vang nhiều cồn. Theo một người đã chứng kiến, các tủ kính của họ đầy đủ như các tủ ở đại lộ số 5.
Cũng có cả cuộc sống ban đêm. Hàng nghìn lính Mỹ lương cao đến đây sẵn sàng tiêu tiền đến mức gây tác dụng thảm hoạ trên tinh thần số đông người Việt Nam chỉ nghĩ đến làm giàu mà quên đi việc thờ cúng tổ tiên. Năm 1966 ở Sài Gòn, người ta tính có khoảng 30.000 trẻ em mồ côi chiến tranh chưa qua tuổi thiếu nhi đã đi làm nghề gái điếm, không tính đến số gái điếm "bình thường". Xung quanh các căn cứ lớn, hàng trăm gái điếm hành nghề trên những xe móc cắm trại không cần yêu cầu. Một trong số 4 lính Mỹ bị bệnh hoa liễu. Hàng nghìn bị sốt rét và những bệnh nhiệt đới khác chưa tính đến các bệnh lý có liên quan đến sử dụng chất ma tuý. Chỉ có 17% lính Mỹ điều trị ở bệnh viện vì bị thương trên chiến trường. Một tỷ lệ lớn người nghiện ma tuý. Năm 1970, 58% lính Mỹ nghiện hút; 22% chích heroin; 14% dùng hallucinogene. Năm 1971 gần 5.000 lính Mỹ được điều trị vì vết thương chiến tranh, trong khi 20.529 lính được điều trị vì những bệnh tật có liên quan đến ma tuý.
Kiểu sống quá tiện nghi không chỉ có hậu quả đó. Những sĩ quan bộ binh chỉ có 6 tháng chỉ huy quân đội trên tuyến đầu, thực tế có 5 tháng luyện cho quen thuỷ thổ và đi phép. Họ đến Hoa Kỳ bằng những chuyến bay thường kỳ, rời khỏi máy bay có điều hoà nhiệt độ và chúc nhau "Chiến tranh tốt lành?" với một cử chỉ lịch thiệp-điều đó có thể là vấn đề may mắn.
Lúc ban đầu, họ thường không có kinh nghiệm bằng những binh sĩ trẻ mà họ chỉ huy (tuổi trung bình là 19 gần như trẻ con). Sau khi "làm việc" được 5 tháng-thời kỳ quá ngắn để hiểu đúng con người-Các sĩ quan được thuyên chuyển đến cơ quan tham mưu hoặc trở thành huấn luyện viên trong các trại huấn luyện quân cộng hoà miền Nam Việt Nam.
Lính bộ binh phục vụ 365 ngày ở Việt Nam, còn lính thuỷ 13 tháng. Hơn một ngày. "Ngày trở về" của họ được ghi sâu vào trí nhớ; một số ghi vào mũ, số khác dùng đá nhọn khắc lên thành hầm trú ẩn. Chưa có một cuộc chiến tranh khác nào mà Mỹ tham dự thời hạn phục vụ lại ngắn như vậy. (Tướng Westmoreland hy vọng: "Thời hạn phục vụ một năm là một nhân tố ổn định tránh sức ép của dư luận yêu cầu cho các chàng trai nhỏ bé trở về".) Những chàng tân binh trẻ được bổ sung nhỏ giọt để thay thế những người trở về, như thế có nghĩa là các đơn vị không có ý thức đơn vị cơ bản về tinh thần, tình cảm đồng đội và tin cậy chỉ có thể phát sinh sau những năm tháng cùng cố gắng.
Một lý do không vừa lòng khác dẫn đến tinh thần tồi tệ của con người: hệ thống gọi tòng quân không làm vừa lòng lính da đen, những Hispano Americans là những người da trắng nghèo. Những ai có quyền thế và tiền của riêng lính WASP (gốc Anglo-saxon) do người đứng đầu chế độ Hoa Kỳ quyết định-có thể thoát khỏi việc tuyển mộ thường lý do cần thiết để tiếp tục học tập. Những người da đen đã hàng năm trời đấu tranh cho quyền lợi của họ, tìm thấy một cách đối xử mới không công bằng làm thêm mất lòng tin triền miên trong quân đội. Martin lather King tuyên bố rằng: "Một số lượng mất cân đối người da đen chết ở Việt Nam" và kích động người Mỹ trở thành những người từ chối cầm súng vì thấy trái lương tâm-Sự thật, họ đại diện cho 13% lực lượng sang Việt Nam, kém hơn tỷ lệ người da đen so với toàn bộ dân số; dẫu sao, 28% trong số họ được đưa vào các đơn vị chiến đấu.
Với ý định hãm bớt sự tan rã, nếu quân lính không tuân lệnh thì sĩ quan bị cách chức. Do đó sĩ quan tránh được những mệnh lệnh nhạy cảm trong việc bố trí lực lượng chiến đấu, kể cả những ai không chấp nhận hy sinh. Những người chỉ huy ra những mệnh lệnh không như vậy có thể bị giết-vì đạn (thường từ phía sau lưng trong khi đang tác chiến với đối phương) hoặc vì một quả lựu đạn ném vu vơ hoặc vào xe họ (một quả lựu đạn nổ không còn giữ được dấu vết gốc). Giữa năm 1969 đến năm 1971, đã có 730 vụ phản chiến gây nên cái chết cho 83 sĩ quan. Thật đáng tiếc cho những sĩ quan ưu tú những người cố gắng duy trì kỷ luật. Những người thân trong gia đình tất nhiên không được thông tin về cái chết của họ, họ chỉ nghĩ rằng con cái họ đã anh dũng ngã xuống chiến trường.
Suốt chiều dài cuộc chiến tranh, quân đội cũng sử dụng cái mồi: tưởng nhớ xa xưa để làm huân chương và các hình thức khen thưởng khác. Như Napoleon đã nói: "Một mẩu băng có thể đưa đến thắng trận". Một cái huân chương đeo trước ngực là một chứng minh cho một hành vi dũng cảm hoặc được khen thưởng ngoài công chúng-nhưng ở Việt Nam, đã có một sự lạm phát khen thưởng khiến cho nó không còn ý nghĩa. Trong chiến tranh hơn 1.250.000 huân chương dũng cảm đã được tặng thưởng (trong đó 800.000 cho không quân) trong khi ở Triều Tiên chỉ có 55.258 huân chương số lượng tỷ lệ nghịch với nỗ lực chiến tranh: năm 1968, 416.693 huân chương và 14.592 người chết trong chiến đấu; năm 1970, 522.905 huân chương và 3.946 chết trong chiến đấu.
Một yếu tố khác gây tác động đặc biệt độc hại ở Việt Nam là chương trình "Chim Phượng hoàng”.
Cho đến năm 1968, nhiều dịch vụ tình báo Mỹ và Nam Việt Nam hoạt động ở Việt Nam, nhưng không có sự kết hợp thực tế giữa các dịch vụ. Để che đậy khuyết điểm đó CIA đã tổ chức ra và chi tiêu cho một hệ thống kiểm soát mà họ gọi là "Phượng hoàng". Chương trình có mục đích cải tiến cách nhận biết cơ sở hạ tầng của chiến tranh du kích. Không cần biết bằng cách nào, CIA đã tổ chức những nhân viên vào 360.000 cán bộ và người cảm tình với cộng sản hoạt động ở miền Nam Việt Nam và bắt giết hết Việt Cộng.
Biện pháp đầu tiên của chương trình Phượng hoàng là phát hành "giấy căn cước (giấy chứng minh thư)"-một trong những mục đích của chương trình là bảo đảm viện trợ Mỹ đến tay những địa chỉ thực sự. Những tin tức nhận được trong dịp này dần dần được đưa vào một ngân hàng tin tức; khoảng 8 triệu tên được ghi vào sổ sách ở Sài Gòn. Sau đó, những văn phòng của Phượng hoàng được tổ chức ở cấp tỉnh và cấp huyện; mỗi văn phòng có một cố vấn Mỹ thường từ cơ quan tình báo quân đội sang. Phượng hoàng không giống như tổ chức hành chính cộng sản theo kiểu hình chóp: những đơn vị nhỏ phụ thuộc những đơn vị quan trọng nhất, tập trung trên đỉnh.
Ý định cơ bản là sự đối chiếu những nguồn tin tức sẽ cho một lối vào tối ưu đến hệ thống Việt Cộng, như vậy sẽ cho phép thu được nhiều tin tức, tin tức càng nhiều càng tăng hiệu quả của những cuộc hành quân chống Cộng, điều đó càng biết thêm nhiều tin tức hơn và cứ như vậy cho đến khi lực lượng an ninh gặm nhấm hạ tầng cơ sở cách mạng từ bên trong và phá huỷ hoàn toàn phong trào cách mạng đó. Đó là lý thuyết; cũng như trường hợp thông thường của những sáng kiến Mỹ, nó hoàn toàn logic và có giá. Nhưng, như người Mỹ đã từng làm việc trong tổ chức ấy đã nói: "Phượng hoàng trở thành cỗ xe đưa chúng ta (người Mỹ) đến một vụ diệt chủng bẩn thỉu”.
Trên cơ sở những tin tức của các ngân hàng trung ương và các nguồn tin tức địa phương, các văn phòng Phượng hoàng giới thiệu các mục tiêu đến các đơn vị trinh sát tỉnh. Những "đội va chạm" (equipe choc) bao gồm cảnh sát miền Nam Việt Nam làm việc hiệp đồng-và dưới mệnh lệnh-với lực lượng đặc biệt Mỹ lùng sục khắp các thành phố và làng mạc để tìm thấy kẻ khả nghi-đàn ông và đàn bà-bắt họ và đưa họ về một trong số 80 trung tâm thẩm vấn của Phượng hoàng. Việc chọn lọc những kẻ khả nghi là công việc ngẫu nhiên, nhưng mỗi khi những người này bị bắt, hệ thống trở thành một hậu quả tai hại.
Mỗi văn phòng bố trí những công thức tương ứng với các loại người bị nghi ngờ là cộng sản: lãnh đạo, cán bộ, đảng viên hoặc chỉ là người có cảm tình. Trước hết phải phân loại những người khả nghi này theo các loại trên. Vấn đề thứ nhất: Không có một đình nghĩa nào chính xác như thế nào là một "người cộng sản". Sau đó, mọi cuộc thẩm vấn hoặc tức thời hoặc ép buộc, một người nghi ngờ là coi như một chứng cứ của tội lỗi, để sử dụng những biện pháp cưỡng bức khác. Tính đến các điều kiện của thời kỳ ấy hầu hết những người miền Nam Việt Nam lúc này hoặc lúc khác đều có những tiếp xúc với hạ tầng cơ sở của hoạt động nổi dậy và cuối cùng cho đó là nghi ngờ theo sở thích hoặc vũ lực.
Mỗi khi kẻ nghi ngờ chỉ là người cảm tình, CIA không quan tâm, và về lý thuyết họ được trả tự do. Mỗi khi kẻ tình nghi coi như là lãnh đạo hoặc cán bộ, một thủ tục tư pháp được tổ chức. Trong thực tế không một người nào được dẫn đến các trung tâm đặc biệt của Phượng hoàng để được thẩm vấn ở đây và còn sống đi ra. Năm 1971 một người Mỹ cộng tác với chương trình Phượng hoàng đã tuyên bố dưới dạng lời tuyên thệ trước hội đồng điều tra của Thượng viện Mỹ: "Trong rất nhiều cuộc hành quân, tôi không bao giờ trông thấy một người còn sống sót sau khi tra hỏi. Họ chết tất cả. Không bao giờ có một chứng cứ khả dĩ cho rằng một cá nhân nào đó đã thực tế cộng tác với Việt Cộng. Nhưng tất cả đều chết".
Trong những trung tâm thẩm vấn Phượng hoàng, thông thường sử dụng cách tra tấn; một số nạn nhân chết có thể vì thái độ đối xử tồi tệ kéo dài, nhưng phần lớn đổ xuống dưới tác dụng trực tiếp và lập tức của tra tấn. Đáng lẽ là một cơ quan tìm kiếm khai thác tin tức, Phượng hoàng thực sự trở thành một cái máy giết người. Một nhân viên Phượng hoàng nói có 30.000 người chết. Cuộc hành quân cũng đã đưa đến hàng ngàn nạn nhân gián tiếp. Ví dụ một văn phòng thẩm vấn hoạt động trên cơ sở về tín hiệu có một người ủng hộ Việt Cộng đang đến làng nào đó trong giờ nào đó; lập tức, một cuộc không tập B52 xoá sạch toàn bộ làng và tất cả dân cư.
Phượng hoàng là một giai đoạn bi kịch và kinh khủng. Một số binh sĩ Mỹ có tình yêu đối với nhân dân Việt Nam, để tranh thủ trái tim và khối óc của họ đã mất hết tâm hồn con người. Miền Nam Việt Nam là một cảnh tượng gây đau khổ từ điểm ký hiệu SAD tìm và diệt cuối cùng đưa những người lính Mỹ đến một khái niệm: SAD (tiếng Anh là buồn) buồn và đáng thương hại như một người lính Mỹ trong cuộc chiến tranh này.
Không phải chỉ người Mỹ mới ở trong tình thế rủi ro.
Sau năm 1954, quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam đang suy tàn ghê ngợm vì chấm dứt sự giúp đỡ của Mỹ với sự ra đi của người Pháp. Hấp hối lười biếng, quên hết những bài học chiến thuật trong chiến tranh Đông Dương, quân đội đóng quân bên cạnh những con đường lớn và tránh xa các làng mạc, cho rằng hệ thống làng mạc chịu ảnh hưởng của Việt Cộng, toàn bộ quân đội trưng ra cho những trận phục kích. Đến thời điểm tối đa, kể cả không quân và hải quân miền Nam Việt Nam, quân số quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam đến nửa triệu người (Kể cả lực lượng địa phương và chủ lực, hơn một triệu lính miền Nam Việt Nam mặc đồng phục) nhưng cũng như đất nước nói chung, tổ chức và lãnh đạo của quân đội rất kém. Hàng thế kỷ nay đã có sự chia rẽ giữa người lính mới nhập ngũ gốc nông dân với số sĩ quan của họ thuộc giai cấp trung lưu ở thành thị. Tất cá đều được trả lương ít ỏi: một người linh cộng hoà miền Nam Việt Nam được hưởng ít hơn một lính Mỹ 16 lần; một đại tá cộng hoà miền Nam mỗi tháng nhận được 70 đô la trong khi một phiên dịch làm việc cho người Mỹ nhận 300 đô la.
Quân Mỹ đã có nhiều cố gắng nhưng kết quả thật tồi tệ-Coi thường chính phủ của họ bị quấy nhiễu vì ngờ vực, nhạy cảm trước sức ép xã hội, khiếp sợ về tương lai giành cho họ, một số lớn binh sĩ và sĩ quan cộng hoà miền Nam Việt Nam thực sự không tin tương vào mục tiêu họ chiến đấu. Trái lại, họ tin vào thuật chiêm tinh, điều rất mơ hồ với lính Mỹ. Khi có những dấu hiệu không tốt lành, họ từ chối đi chiến đấu, sợ bị thất bại-nhưng không sao tránh khỏi. Quân Mỹ coi thường những cuộc hành quân “tìm và tránh" của họ. Đó là một vòng luẩn quẩn: những kết quả tồi tệ dẫn đến những kết quả tồi tàn... Như tướng Westmoreland đã nói: "đối với những đơn vị địa phương các binh sĩ không muốn thực hiện những cuộc hành quân xa gia đình. Khi người ta giải quyết vấn đề, khi trông thấy gia đình trong khu vực họ chiến đấu, họ càng không bằng lòng hơn".
Kỷ luật lỏng lẻo, cấp trên muốn thi hành những hình phạt đáng sợ đối với binh sĩ mà không có quan hệ chính trị. Các sĩ quan bán vật liệu Mỹ ra chợ đen, lạm dụng tiền công quỹ, khai thác mạng gái điếm, tham gia buôn bán ma tuý. Hạ sĩ quan và binh sĩ hành hạ và cướp bóc nhân dân. Được nhận xét không đủ tin cậy và không hiệu quả để tham dự những cuộc hành quân hiệp đồng với quân Mỹ và quân đồng minh khác, các binh sĩ của cộng hoà miền Nam được giao nhiệm vụ "bình định" trong các vùng nông thôn hoạ hoằn bắt được Việt Cộng và buộc dân làng phải tuân theo chính phủ-Rõ ràng, như vậy dễ cho tuyên truyền của Việt Cộng kêu gọi binh sĩ cộng hoà miền Nam Việt Nam quay súng trở lại người Mỹ hoặc vào hàng ngũ quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tất cả những đơn vị đào ngũ hàng loạt sẽ được khen thưởng và những người chỉ huy của họ sẽ được bổ nhiệm những cương vị phụ trách trong quân giải phóng miền Nam. Vô số binh sĩ miền Nam đi theo con đường đó. Năm 1966, có đến 100.000 binh sĩ đào ngũ, đặc biệt người gặp lại anh em đang chiến đấu trong quân giải phóng. Hàng nửa thế kí, rất nhiều gia đình bị tan nát: nhân một đêm, những người cộng sản đem đi một người con trai; vài ngày sau đại diện chính phủ cướp đi một người con trai khác.
Tinh thần của những vị cấp cao trong chính quyền miền Nam cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, một tướng không quân là người trung thành của Diệm (sau chiến tranh ông mở một cửa hàng tinh thần ở California) đã từng tuyên bố: "mỗi lần báo chí muốn đưa tin về các cuộc hành quân, người Mỹ không bao giờ trực tiếp lãnh đạo miền Nam Việt Nam. Những người cộng sản miền Bắc coi chúng ta như những con rối, nhưng quân Mỹ cũng làm như vậy".
Năm 1967, bộ chỉ huy Mỹ tin rằng quân cộng hòa miền Nam Việt Nam đã bị vô hiệu hoá 80%. Sự ngờ vực đến nỗi mỗi lính Mỹ của tướng Westmoreland ở Sài Gòn giấu kín những cái ống để rải khí lacrymogene vào đội danh dự gồm những binh sĩ thiện chiến của cộng hoà miền Nam trong trường hợp bọn này quyết định đột nhiên đào ngũ, chỉ có lính Mỹ mới biết chỗ cất mặt nạ phòng độc. Được hỏi về thái độ cá nhân đối với cộng hoà miền Nam, anh ta trả lời: "Tôi yêu những người Việt Nam, dưới con mắt của tôi, họ là những người rất đáng chú ý-lao động cương nghị và thông minh nhất các nước phương Đông. Vấn đề quân đội cộng hoà miền Nam, đó là sự lãnh đạo của họ; quân đội không có đủ sĩ quan tinh thông".
Mặc dù vậy, quân đội cộng hoà miền Nam thường ở tuyến đầu trong phần lớn các lực lượng ngoại quốc. Khi các quân đồng minh rời khỏi Việt Nam, hơn 100.000 binh sĩ của họ đã chết.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 4:41 pm
Chương 22: Chiến tranh của Nixon
Như Tacite đã nói ơ Rome “Họ đã tạo nên một bãi sa mạc và họ gọi đó ỉa hoà bình. Phải chăng chúng ta có quyền khoác lên lưng cái uy nghiêm ghê gớm của chúa trời, có quyền quyết định thành phố này, làng mạc nọ sẽ phải phá huỷ, ai được sững và ai phải chết, ai sẽ là người tăng thêm hàng ngũ những người tị nạn của tổ chúc cứu nạn của chúng tao.
Thượng nghị sĩ Robert Kennedy
Kế hoạch không tập tiếp theo Rolling Thunder nhận cái tên Linebacker. Kế hoạch chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn I, Linebacker bắt đầu tháng 5 năm 1972 phản ứng lập tức trận tấn công dịp lễ phục sinh của ông Giáp sẽ được mô tả vào chương sau.
Trong cuộc tấn công này, quân đội cộng hoà miền Nam sẽ được tổng thống Nixon quyết định cứu trợ bằng tăng cường các lực lượng ném bom từ các căn cứ ở Thái Lan và ở Thái Bình Dương. Lập tức sau khi đưa tin về chiều sâu và sức mạnh của cuộc tấn công, tổng thống hạ lệnh cho một số phi đội máy bay đã rời Việt Nam quay lại, đưa thêm B52 dự bị đến Guam và Thái Lan, và các hàng không mẫu hạm quay trở lại những căn cứ không quân của Mỹ. Phần tử chính của các biện pháp trả đũa là hạm đội B52 được tăng cường to lớn; trong vài tuần (từ cuối tháng 3 đến nửa tháng 5) số máy bay từ 83 lên 171 chiếc.
Khi cuộc tấn công nhân dịp lễ phục sinh kết thúc, thì những cuộc thương lượng được tổ chức sau Rolhng Thunder lại một lân nữa đi vào ngõ cụt, và tính đến những lực lượng quan trọng bố trí tại chỗ, Nixon quyết định tấn công vào miền Bắc với một sức mạnh chưa từng có, hy vọng bẻ gãy ngay một lần quyết tâm của chế độ cộng sản. (Các cuộc đàm phán hoà bình tổ chức tháng 5 năm 1968 từ đó tiếp tục bị xúc phạm: những người miền Bắc Việt Nam tranh thủ giành thắng lợi và đạt được những sự nhượng bộ, còn Hoa Kỳ tìm một biện pháp rút lui danh dự khỏi sự can thiệp vào Việt Nam).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Sở chỉ huy Quân chủng Phòng không - Không quân 12/1972
Ngày 9 tháng 5 năm 1972 Linebacker I bắt đầu thả mìn ở một số cảng của miền Bắc Việt Nam. Sau đó các mục tiêu ở bên trong đất nước hàng ngày bị ném bom chiến thuật. Quân miền Bắc Việt Nam không chịu ở thế thụ động; khi Linebacker I bắt đầu thực hiên, họ bố trí 204 MIG 21 Liên Xô vào 7 căn cứ không quân. Trong giai đoạn I của kế hoạch tác chiến, các phi đội từ 15 đến 40 MIG tấn công các máy bay của không quân Mỹ đang gặp phải một lưới tên lửa SAM2 do Liên Xô chế tạo. Quân Việt Nam không dùng hệ thống điều khiển ra đa mà các dàn tên lửa được trang bị, để sóng phát đi không bị nhiễu vì những máy thu diện tử của máy bay ném bom Mỹ chỉ thị mục tiêu cho máy bay yểm trợ. Sự xuất hiện nhiễu trên màn hình ra đa các máy bay không quân Mỹ làm thay đổi sự chú ý các phi đội đủ thời gian để cho MIG 21 có thể tấn công họ từ phía sau.
Tháng 9 năm 1972, không lực Hoa Kỳ tăng cường lực lượng tấn công cỡi việc đưa vào sử dụng một căn cứ ở Thái Lan gồm 48 máy bay ném bom bất kỳ giờ nào F111. Có thể thực hiện một chuyến bay không cần tiếp tế dầu, các máy bay cực kỳ tinh vi này được trang bị một ra đa mới của hải quân, có thể bay ở độ thấp trên các đồi núi xung quanh Hà Nội và tự động thả lô bom xuống. Nhờ những máy điện toán tính toán chính xác đoạn đường bay và vị trí máy bay qua các vệ tinh, bom có thể thả xuống vào thời điểm mong muốn không cần thiết phi công phải trông thấy mục tiêu.
Chuẩn tướng Maxwell D.Taylor thời kỳ làm đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã công nhận những trận ném bom ấy như sau: "Tôi chấp nhận việc sử dụng không quân của chúng ta tối thiểu có 3 cái lợi. Thứ nhất tinh thần của quân miền Nam Việt Nam: điều đó cho họ cái cảm giác được đáp lại những cú đánh của đối phương, điều đó rất đáng kể đối với họ. Sau đó miền Bắc đã đưa một số lượng lớn người và vật liệu quân sự vào miền Nam. Tôi không bao giờ nghĩ rằng chúng ta có thể chấm dứt việc đó, nhưng chúng ta ít nhất có thể gây cho hộ những tổn thất-Và do đó làm chậm quá trình này. Cuối cùng, tôi có cảm giác rằng không quân được sử dụng từng bước và quyết định, có thể buộc Hà Nội chấp nhận trả giá cao hơn. Chúng ta thực hiện những cuộc không tập mật độ tăng dần đến điểm mà họ (người miền Bắc Việt Nam) phải chịu để thủ đô tiêu tan nếu không ngồi vào bàn thương lượng tìm một giải pháp".
Nói về "tinh thần", thật đáng nghi ngờ đa số người Việt Nam thực sự tin tưởng vào những trận ném bom ấy, hoặc họ lo nghĩ về một biện pháp khác; họ quan tâm đến chuyện gì đang xảy ra đối với họ. Cái việc làm chậm việc tiếp tế vào miền Nam từ miền Bắc, hiệu quả không mấy hữu ích. Linebacker I phá huỷ nặng nề mạng lới đường sắt miền Bắc Việt Nam; dù sao mọi biện pháp khẩn cấp vẫn đưa hàng vào. Nam bằng đường bộ. Cuối cùng, mức độ ném bom tăng dần lên có thể hiệu quả và như người Mỹ hy vọng nó sẽ đưa đến cuối cùng những sự thương lượng và một hiệp định hoà bình.
Mùa thu năm 1972 cuộc tấn công nhân dịp lễ phục sinh ông Giáp bắt đầu bị đứt hơi, thứ nhất vì những sự tàn phá của B52 trong đội hình bộ binh. Mỗi khi chính phủ Bắc Việt Nam dự định một cuộc đàm phán hoà bình, các cuộc không tập từ tháng 10 được giới hạn đến các mục tiêu nam vĩ tuyến 20; nói cách khác cuộc không tập nhằm vào các mục tiêu là những chuyến hàng ở vùng phụ cận giới tuyến tạm thời. Tính đến một sự ngừng bắn, tư lệnh Mỹ giữ giới hạn đó cho đến tháng 12 năm 1972. Ngày 18 tháng 12 năm 1972, trong khi các thương lượng một lần nữa nối lại, trong khi các lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục xâm nhập vào miền Nam, tổng thòng Nixon lệnh tiếp tục ném bom Bắc vĩ tuyến 20. Linebacker II kế hoạch tác chiến của không quân Mỹ quan trọng từ chiến tranh thế gởi lần thứ 2, nhằm tấn công qui mô lớn vào hệ thống giao thông, các trung tâm điện lực, và các kho tạm giữ hàng hoá trong vùng Hà Nội và Hải Phòng. Các cuộc không tập nối tiếp nhau 24/24 giờ, ban đêm có F111 và B52, ban ngày eo máy bay ném bom chiến thuật.
Những vụ ném bom ban đêm có lợi là tiêu trừ hiệu quả của những máy bay miền Bắc Việt Nam và cản trở việc quan sát bằng mắt thường đối với tên lửa đất đối không. Các cuộc không tập này phức tạp đến từng phút từng giây.
Một lực lượng không quân tập hợp ở tầng cao, rồi như một chuyến bay khổng lồ của chim đại bàng có chim cắt xung quanh, vượt biên giới để đánh vào những mục tiêu đã chọn do chụp ánh và ra đa trên máy bay xác định. Máy bay F4 hộ tống B52 sử dụng những phi đội ECM để gây nhiễu và đánh lừa ra đa đối phương. Những phi đội EB66 ECM đi vào quỹ đạo xung quanh B52 làm dày đặc thêm hàng rào điện tử, còn F4 được các F4 khác hộ tống thả xuống một trận mưa mảnh kim loại như kiểu tín hiệu của một máy bay đang bay để làm mất phương hướng ra đa đối phương; chúng có thể tạo thành như vậy một lối rộng 8 km và dài hơn 150 km, đủ để ngụy trang những máy bay ném bom trong hành trình. Những F4 khác bay phía trên hoặc xung quanh các máy bay ném bom bảo vệ chống những máy bay tấn công ban đêm (máy bay MIG). Máy bay FI05G báo đảm bảo vệ dự bị nhờ những tên lửa đặc biệt do các giàn ra đa đối phương dẫn đường (nói chung, chúng phi phá hoại những giàn ra đa cơ động đặt ở trung tâm trận địa, mà không phải bản thân tên lửa SAM). Những máy bay tiếp dầu bay trên toàn bộ đội máy bay đã sẵn sàng đáp ứng yêu cầu. Lực lượng không quân khổng lồ này hoàn toàn nhằm thẳng mục tiêu gồm Hà Nội, Hải Phòng xác định mục tiêu và tấn công. Kế hoạch này là một sáng tác tập thể chưa bao giờ có trong lịch sử không quân.
Trước hết máy bay F111 tấn công các trận địa tên lửa SAM và các căn cứ không quân trong khi nhiệm vụ mà các phi công gọi là "một chuyến bay đơn ở độ rất thấp". Sử dụng những ra đa mới của hải quân chúng đến ở tầm thấp, đánh vào mục tiêu và bay đi ngay, và bay rất thấp (các súng ra đa không đi theo độ cong của trái đất, máy bay có thể bay dưới tầm ra đa). Vài phút sau, máy bay B52 mở hầm bom. Rõ ràng, F111 bắt buộc cao xạ Việt Nam hạ thấp tầm bắn cho đến pháo hạng nặng đến.
Máy bay F111 đánh suốt đêm, trước và sau đợt B52 kèm theo lớp bảo vệ trên không của họ. Thông thường trong một đêm, ba đợt sóng kế tiếp nhau của B52 đánh vào những mục tiêu khác nhau: hệ thống đường sắt, trung tâm điện lực, kho, trận địa tên lửa SAM, các khẩu cao xạ... Sau đó những máy bay hộ tống nạp đầy xăng và lại đến những phi công mới để bảo đảm che phủ các kế hoạch nửa đêm.
Các vụ không tập giữa đêm là "Tacair" do các máy bay F4 và A7 thực hiện mang theo một khối lượng bom và tên lửa nặng. Khi không nhìn rõ, chúng được Fa Pathfinders trang bị một hệ thống LORAN của hải quân dẫn đường. Khi thời tiết tốt, máy bay F4 mang bom được laze dẫn đường đánh vào những mục tiêu được ưu tiên. (Đội bay nhằm vào mục tiêu với một tia laze đặt trên máy bay, thắp ánh sáng của laze dẫn bom đến mục tiêu cực kỳ chính xác. Nhờ kỹ thuật này, 5 cầu đường sắt bị phá hoại trong một ngày tháng 5 năm 1972 chỉ với 24 quả bom; với những phương tiện thông thường phải mất hơn (2.000 quả bom). Yểm trợ các chuyến không tập nửa đêm cũng như các chuyến bay đêm, trừ khâu chống MIG do các phi công hải quân bảo đảm và không phải phi công, không lực Hoa Kỳ.
Trong thời gian 11 ngày "ném bom dịp Noel" năm 1972 đã thực hiện 700 lần cất cánh, và máy bay F111 khoảng 1.000 lần. (Một dẫn chứng loại trang bị của B52: 84 bom 500 livres trong hầm, cộng 24 bom 750 livres cố định dưới cánh tay, tất cả 27 tấn chất nổ. Máy bay ở độ cao đến mức muốn bảo đảm ném bom chính xác, cái máy tính điện tử, phải tính đến vòng quay của trái đất). Ngày 18 tháng chạp phi đội máy bay ném bom gồm 120 B52, suốt đợt tấn công, số lượng máy bay không bao giờ xuống dưới con số 100.
Ngày 29 tháng chạp 100.000 quả bom đã được ném xuống kể từ đầu kế hoạch. Theo tin tức của không quân Mỹ, các lực lượng của ông Giáp đã phóng 1.242 tên lửa SAM chống lại máy bay của họ.
Các phi công Mỹ đã bắn rơi 8 MIG và mất 26 B52 trong đó có 3 chiếc bị MIG bắn rơi, số còn lại là tên lửa. Quân Việt Nam chết 1.318 người ở Hà Nội, nhưng không tuyên bố con số ở những địa phương khác. Ngày 18 tháng riêng năm 1973, ngừng bắn. Sau đó là những cuộc đàm phán nối tiếp nhau không dứt để đạt được những điều chi tiết trong hiệp định hoà bình.
Không có gì khẳng định rằng kế hoạch Linebacker II đã chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Ông Giáp muốn thảo luận thêm về sự giải thích này. Chắc chắn các cuộc không tập đã phá hoại nặng miền Bắc nhưng Hà Nội vẫn mạnh mẽ chắc chắn rằng nhân dân có thể đương đầu với những vụ ném bom và chấp nhận cuộc chiến tranh có thể kéo dài. Theo phân tích của Bộ Chinh trị Đảng Cộng sản Việt Nam, những vụ ném bom nhân dịp Noel là một cố gắng cuối cùng đầy thất vọng của Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh. Bây giờ, phải chăng họ tin rằng, người Mỹ đã sẵn sàng đàm phán; đã đến lúc gặt hái những giá trị cố gắng lớn và tránh được sự đổ máu tiếp theo.
Một trong những lý do thể hiện lòng dũng cảm của nhân dân là chính phủ đã có những biện pháp cụ thể để đối mặt với ném bom-tháng 12 hầu như toàn thể học sinh và những người lao động không căn bản cùng các cơ quan hành chính đã rời khỏi thành phố. Nhiều hầm trú ẩn đã được xây dựng từ thời kế hoạch Thunder; hơn nữa trên phần lớn đường phố Hà Nội và Hải Phòng đều có vô số hố cá nhân, là những ống bê tông đơn giản ở hai bên vệ đường. ở Hà Nội trung bình có 3 hố cá nhân cho một người dân, theo nguyên tắc: một ở gần nhà, một gần nơi làm việc và một nữa ở trên đường đi. .Chúng cũng có thể đậy kín bởi tấm bê tông dày; khi còi báo động vang lên, hầu như toàn thể nhân dân không còn bóng dáng ai. Một biện pháp khác là cho trẻ con mang ngụy trang xanh; khi có báo động trên đường tới trường, các em chạy trốn trên những cánh đồng. Hơn nữa trên khắp miền Bắc Việt Nam, các cấp lãnh đạo đã tổ chức những đội "thanh niên xung phong” tập trung ít nhất hai triệu thanh niên, phụ nữ đến sửa chữa khắc phục những hậu quả của các trận ném bom-nhất là trên đường sắt và đường bộ. Khẩu hiệu của họ-và của công nhân công nghiệp-là "đánh và xây dựng. Vì phần lớn nam thanh niên đã vào bộ đội, các đội này gồm 70% là phụ nữ. Kể cả các dân quân tự vệ các làng mạc 50% phụ nữ được huấn luyện để thao tác các khẩu cao xạ, phóng tên lửa, lựu đạn và vũ khí cá nhân. (Những phụ nữ trẻ buộc tóc thật chặt thành một túm cho khỏi vướng khi thao tác vũ khí) Các đơn vị sản xuất phân tán vào một số lớn địa hình có lợi có khi đến hàng chục, để giảm đến tối thiểu hậu quả của bom đạn. Vì lý do ấy, các gia đình cũng phân tán trong nhiều làng mạc.
Mọi người đều chia sẻ mối nguy hiểm, mọi người đều bằng lòng với chế độ ăn uống cơ bản. Khẩu phần gạo hàng ngày ít hơn 1kg. Mỗi người được tiêu chuẩn 5 mét vải mỗi năm-đủ để may 2 áo sơ mi và 1 quần. Mọi người lao động kể cả ủy viên Bộ Chính trị, cùng hưởng một chế độ phụ cấp tương đương 10 đô la một tháng.
Vũ khí hiện đại, được sử dụng cho phép người miền Bắc Việt Nam với tới những máy bay Mỹ từ độ cao gần 3.000 mét-tầm tối đa của SAM 2. Tên lửa được điều khiển bằng ra đa; MIG được đặt dưới đất điều khiển đến máy bay địch. Thông thường như trường hợp tấn công dịp Tết Mậu Thân những nhân viên tình báo cài trong các tổng hành dinh quân Mỹ ở gần căn cứ không quân thông báo cho hà Nội, số lượng, mục tiêu và cả thời gian các lực lượng không quân Mỹ xuất phát. Khi thiếu những tin tức ấy, việc phân tích các tín hiệu do ra đa thu được và sự quan sát của các lực lượng đã bố trí cung cấp những hướng dẫn khá chính xác về hành trình của các máy bay nêm born, về mục tiêu chúng đến, và thời gian các cuộc ném bom bắt đầu tiều đó cho phép sử dụng những biện pháp phòng ngừa. Các đài ra đa bám sát gọi là GCI cho lệnh báo động trước 45 phút-đủ thời gian cho máy bay MIG có thể tấn công lực lượng địch xa mục tiêu, cho nên những máy bay ném bom và chở dầu giảm bớt tính dễ sử dụng.
Vũ khí kém hiện đại cũng có nhiệm vụ quan trọng, những hàng rào đạn cỡ nhỏ bắn tương đối chính xác chống những máy bay bay thấp thể hiện hiệu quả đáng chú ý. Một lỗ xuyên nhỏ vào vỏ máy bay đang bay với tốc độ tiếng nói cũng đủ làm máy bay tan xác. Ông Giáp bình luận: "Các lực lượng tự vệ và dân quân có một nhiệm vụ to lớn trong chiến tranh". "Tay cày, tay súng” đàn ông và đàn bà, thanh niên và phụ lão, các thành phố và làng mạc, đều tham gia tích cực vào việc bắn máy bay địch và đã hạ được nhiều máy bay; các lực lượng này đã tạo thành một lưới lửa chống máy bay tầm thấp bao trùm trên toàn bộ đất nước, nhưng tập trung vào những mục tiêu chủ chốt. Sử dụng các loại vũ khí cá nhân, các đội viên tự vệ và dân quân du kích đã bắn rơi nhiều máy bay hiện đại và bắt được nhiều giặc lái Mỹ. Họ cũng đã tháo ngòi nổ hàng chục nghìn tấn bom và mìn các loại tiên tiến nhất. Bắn máy bay địch đang bay thấp không còn nghi ngù gl nữa đã tạo thành một hình thức phòng ngự chống máy bay mới của nhân dân ta. "Ông Giáp phê phán mạnh mẽ chiến thuật của không quân Mỹ: chúng đã nhằm vào một số lớn mục tiêu điều đó phân tán lực lượng. Chúng sử dụng những máy bay giá hàng triệu đô la để tấn công một cái cầu nổi bằng tre!" .
Những chiến thuật cổ điển ấy chỉ thực hiện một nhiệm vụ tối thiểu. Việc phòng ngự chống không quân Mỹ đặt ra trước ông Giáp một vấn đề rất phức tạp: năm 1972, những người lão luyện nhất thế giới trong lĩnh vực này kể cả người Mỹ tin rằng nó tương đương với sự bố trí phức tạp mà khối Bắc đại đương đã sử dụng để phòng ngự châu Âu phía tây và còn hơn cả sự bố trí sử dụng để phòng ngự Ruhr năm 1945.
Ông Giáp rất tự hào về tên lửa SA.2 do Liên Xô chế tạo dài khoảng 8m với hệ thống dẫn đường của nó. Ông nhận được những tên lửa đầu tiên này ít lâu sau khi các cuộc không tập của Mỹ đánh miền Bắc; vài tuần sau hơn hai trăm trận địa phóng tên lửa sẵn sàng tác chiến. Mặt khác MIG 21 đến là những máy bay tiêm kích nhanh mà phi công Việt Nam đã được đào tạo ở Liên Xô (ông Giáp đã nhận được những máy bay MIG đầu tiên năm 1965). Máy bay được khoảng 4.000 khẩu pháo các cỡ từ 23 đến 100 mm-yểm trợ dưới mặt đất, trong đó 2.000 để bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng. Hoạt động của máy bay và tên lửa được 200 giàn ra đa điều khiển, việc hiệp đồng được bảo đảm bằng 3 trung tâm chỉ huy lớn ở Bạch Mai, Phúc Yên và Kép. Toàn bộ tổ chức phòng ngự chống máy bay phụ thuộc một trung tâm chỉ huy đặt ở căn cứ không quân Bạch Mai, gần Hà Nội. Ông Giáp chuyên gia lớn về sử dụng lượng lớn nhân công, đã bố trí trong việc phòng ngự chống máy bay tổng số 125.000 đàn ông và đàn bà không kể hàng nghìn cố vấn Liên Xô bố trí ở những điểm chủ chốt.
Theo tiêu chuẩn hiện nay của chúng tôi, SA.2 chỉ là con thằn lằn kinh khủng; vào thời kỳ đó là một loại vũ khí hiệu quả. Các trận địa phóng tên lửa rất cơ động có thể di chuyển nửa giờ sau khi nổ súng; một giờ sau, nó lại bước vào trận chiến đấu mới. Sự cơ động lớn đó làm cho việc dò tìm các tên lửa rất khó khăn, trở thành con chủ bài quan trọng, kể cả cao độ đạt được của SA.2.
Suốt trong thời gian kế hoạch Linebacker I và II, cả hai phía đều sử dụng một loạt chiến thuật định loại đối phương ra ngoài cuộc chơi. Một trong những mưu mẹo của những người sử dụng SA.2 là phóng một tên lửa không điều khiền, rồi dựa vào sự điều khiển của ra đa ở thời điểm cuối cùng để tên lửa có thể tiếp cận mục tiêu để cho tên lửa chống SA trang bị cho các máy bay không đủ thời gian điều chỉnh hành trình trên sóng ra đa để tiêu diệt tên lửa được phóng đi. (Ngày 22 tháng 11 một tên lửa SAM đã hạ một máy bay B52. Đối với quân Mỹ, một trong những bài học của vụ rắc rối này là những lối bay nhỏ hẹp của máy bay ném bom không được bảo vệ khi gió đẩy các băng kim loại sử dụng đề phá rối ra đa đi xa). Một mẹo khác là phóng ít nhất hai tên lửa đuổi theo một máy bay. Trong khi các khí tài điện tử đang tập trung bảo vệ chống tên lửa thứ nhất, thì tên lửa thứ hai và những tên lửa khác có thể đánh trúng mục tiêu và phá huỷ máy bay.
Song người Việt Nam phải tính đến hiệu quả lợi hại của những tên lửa chống tên lửa và bom chùm của không quân Mỹ: ra đa điều khiển SAM chỉ có thể sử dụng trong những thời kỳ rất ngắn để không bị phát hiện; do đó cũng phải di chuyển tên lửa luôn, điều đó giảm hiệu quả của hệ thống.
Sau đây là những con số bom Mỹ ném xuống miền Bắc Việt Nam trong kế hoạch Linebacker I và II: B52 ném 35.544 quả bom vào 734 mục tiêu; F111 ném 1.424 quả bom vào 139 mục tiêu; F4 ném 2.271 quả vào 254 mục tiêu; A7 ném 1.702 bom vào 226 mục tiêu, tất cả 40.941 quả bom.
Trong 3 tháng 4, 5 và 6 nậm 1972 thời Nixon làm tổng thống, ông đã thả xuống Việt Nam một số lượng nhiều hơn cả năm trời dưới thời tổng thống Johnson. Trong thời kỳ Nixon, nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào bị ném bom dày đặc hơn cá nhiệm kỳ chính phủ Johnson.
Từ năm 1964 đến năm 1971, 6,2 triệu tấn bom được trút xuống toàn Đông Dương thuộc Pháp: 150 kilô bom/mỗi người dân kể cả đàn bà và trẻ con; 8,6 tấn bom/một kilômét vuông. Thêm vào những trận ném bom của kế hoạch Linebacker thì tổng cộng gồm 8.000.000 (8 triệu) tấn, gấp 4 lần toàn bộ số tấn bom sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai tất cả quân đội và tất cả kế hoạch tác chiến lẫn lộn.
Ngoài việc ném bom, không quân Mỹ còn thực hiện hơn 19.000 vụ rải chất độc hoá học ở một phần lớn miền Nam Việt Nam và một số vùng ở Campuchia và Lào; chất độc "màu da cam" làm trụi lá rừng và cây sú vẹt; chất độc màu trắng phá huỷ các bụi cây và chất độc màu xanh đốt cây non trên đồng ruộng.
Tổn thất của không quân Mỹ như sau: trực thăng: 4.869 chiếc (12 chiếc ở miền Bắc Việt Nam), máy bay 3.726 (trong 2.651 chiếc ở miền Nam-1.100 ở miền Bắc). Khối lượng vật chất ấy có giá trị tất cả 225,2 tỷ đô la. Hơn 8.000 phi công bị chết.
Sau đây là hai nhân chứng của không lực Hoa Kỳ bị người Bắc Việt Nam bắt và giam giữ ở “Hilton" HàNội viết:
"Tôi đã ngủ được hai hoặc ba giờ thì thức giấc vì tiếng còi báo động. Tôi hoàn toàn quên mất cái đêm ngon giấc của lính Mỹ, cái đêm sau một lần đi ném bom xuống những tên ngu ngốc này. Tôi mừng hớn hở. Tôi vui sướng đến điên dại! Tiếng còi báo động tiếp tục 15 phút, rồi đến một khoảnh khắc im lặng như chết. Cả đến những tiếng động nhỏ thường ngày trong tù cũng im tiếng. Sau đó, cao xạ bắt đầu bắn, càng ngày càng dữ dội. Vài tiếng nổ gần, những tiếng nổ khá xa; tiếng nổ khắp nơi cùng đến một lúc. Tiếp theo, tôi nghe thấy tiếng rùng rợn hơn mà tôi chưa bao giờ được nghe Kablamm-whoom! Và vài giây sau một tiếng Whoom khác? Theo bản năng, tôi biết có hai F111 vừa bay qua rất gần, bay thấp, với tốc độ nhanh hơn âm thanh. Kính cửa rung. Vôi và bụi từ trần nhà rơi trúng tôi. Vài giây sau Bo um, boum, boum, boum, boum... tôi nghe được tiếng bom F111 nổ. Không thể đứng tại chỗ, tôi nhảy múa xung quanh phòng và kêu lên những tiếng kêu thắng lợi. Đạn cao xạ càng ngày càng xa, và irn lặng lại đến. Tôi biết cái gì sẽ đến.
Khoảng 10 phút sau, tiếng còi báo động lại vang lên và cao xạ lại bắn. Rồi tiếng còi im bặt, nhưng cao xạ tiếp tục bắn từng đợt. Tôi không còn đủ kiên nhẫn nữa. Bỗng nhiên, có một tiếng động mới, một tiếng nổ dữ dội chắc là SAM. Sau đó những tiếng nổ lớn khác và những phát đạn cao xạ cỡ lớn. Và cuối cùng, điều tôi đang đợi: tiếng động, trước hết từ xa sau càng ngày càng gần những chùm B52 thả xuống nổ liên tiếp nhanh chóng, có thể vùng phụ cận Hà Nội. Mỗi đợt nổ kéo rất dài; thỉnh thoảng lại trùm lên. Người ta bảo rằng God zilla nghiền nát thành phố. Ba trùm bom rơi xuống khá gần; những tiếng nổ nối tiếp nhau ngày càng gần; bom nổ mạnh đến nỗi rung cả tường phòng tôi, khung cửa kính và cửa lắc lư như thể sắp rời ra. Vôi và cát rơi xuống quanh tôi. trong đời tôi chưa bao giờ tôi nghe tiếng ồn ào inh ỏi ghê sợ như vậy. Tôi nhớ lại hy vọng những phi công đang sửa đổi hướng. Đạn cao xạ dày đặc và tiếng nổ của SAM thường xuyên hơn. Tôi vừa nhảy múa vừa kêu lên vui vẻ...
Trong vài ba tháng tiếp theo, tôi không bao giờ cảm thấy cô đơn. Đó là deus ex machina cuối cùng. Tôi cầu nguyện cho các đội bay và máy bay. Đối với tôi, họ là bàn tay chúa vừa cho tôi sự thanh thản bên trong và sức thạnh cần thiết để vượt qua khỏi cái đất nước hung dữ này.
Nhân chứng Nguyễn Thị Huỳnh:
“Tôi 31 tuổi, chưa có chồng và tôi là người con gái duy nhất của gia đình. Tôi là đại úy trong quân đội; tôi làm việc ở Bảo tàng quân sự. Cha mẹ tôi còn sống cả; họ trồng rau ở ngoại ô Hà Nội và bán bên lề đường những vùng lân cận.
Năm 1972 bấy giờ tôi mới mười bốn tuổi-quân Mỹ đã ném bom Hà Nội ròng rã 10 ngày cả ngày và đêm, trừ đêm Noel. Ngày hôm sau Mỹ ném một khu phố đông dân ở đường Khâm Thiên. Tôi học lớp 8, nhà trường xa 7 km; tất cả mọi ngày, trừ chủ nhật, tôi đi xe đạp. Vì Mỹ ném bom tôi chỉ có thể đến trường một số ngày, và tôi phải mang một cái túi thuốc cấp cứu trường hợp bị thương. Tôi phải đội cái mũ rơm để tránh mảnh bom đạn từ trên trời rơi xuống sau khi cao xạ bắn.
Mỗi khi máy bay ném bom đến, các bạn cùng lớp và tôi phải trú ẩn trong những hầm xung quanh trường đó là những cái hố dưới đất, mỗi hố chứa được vài người học sinh. Trên tất cả các đường phố Hà Nội, người ta đào những hố cá nhân để mọi người có thể trú ẩn khi máy bay ném bom đến. Ke cả khi tôi ngủ ở nhà, tôi cũng phải xuống hầm. Tất cả gia đình đều đi tản cư, trừ cha tôi, hình như ông không sợ, vẫn ngủ khi máy bay ném bom. Mẹ tôi vô cùng lo lắng cho ông.
Đài Hà Nội phát tin báo động máy bay cách thành phố 80 km phải vội vàng xuống hầm trú ẩn. Em trai út của tôi mới 1 tuổi, nó cũng phải đi tản cư. Cha mẹ tôi nghĩ đến chuyện ổn định ở nhà quê, nhưng chúng tôi không muốn rời khỏi cái bếp của chúng tôi. Do đó, gia đình xây dựng một hầm trú ẩn dưới một bụi tre và sắp xếp trong đó như ở nhà. Cũng có những tranh đẹp trên tường, và cả một cái đèn dầu hoả. Thình thoảng chúng tôi ngủ ở đó cả đêm, vì có nhiều lần báo động kế tiếp nhau.
Nhiều người đã tản cư rời khỏi thành phố, nhưng còn một số khác ở lại để làm việc hoặc vì họ ở trong lực lượng dân quân tự vệ; một số phục vụ ở các khẩu cao xạ. Không ít người rời thành phố và bị bom dọc đường.
Chúng tôi vô cùng may mắn, không có quả bom nào đúng nhà chúng tôi, nhưng chúng tôi nghe bom nổ và tiếng ồn của khẩu pháo ngay bên cạnh. Máy bay đã nén bom trạm phát đài Hà Nội, và những mục tiêu khác. Thỉnhthoảng ba ngày chúng tôi có thể nhìn rõ máy bay Mỹ thả bom từ trên cao; có một lần tôi thấy máy bay rơi trong bầu trời và một giặc lái mặc đồ đỏ ở đầu một cái dù. Chắc nó là cấp cao vì mặc đồ đỏ.
Không có ai thích chiến tranh, chiến tranh làm ngừng trệ mọi hoạt động, và tiến bộ xã hội bị hãm lại. Đối với nhiều người mất người thân, thật khổ. Tôi và tất cả bạn bè đều biết có nhiều người chết.
Chúng tôi không căm thù nhân dân Mỹ. Đa số người Mỹ là bạn của chúng tôi và đa số họ biểu tình chống lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Không phải lỗi của nhân dân mà là lỗi của chính phủ”.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 4:45 pm
Chương 23: Những trận chiến đấu cuối cùng
Quân đểu giả vẫn còn chưa bao giờ bị ném bom thì lần này chúng sẽ bị.
Richard Nixon
Trong cuộc tấn công dịp lễ Phục sinh Cuộc tấn công nhân dịp Tết và chiến tranh ở Khe Sanh đã đánh dấu một bước ngoặt mấu chốt của cuộc chiến tranh. Người Mỹ không tin tưởng vào khả năng tìm một giải pháp quân sự cho cuộc chiến tranh. Việt Cộng đã bị suy yếu, nhiều người sống sót đã trở về gia đình, mất tinh thần vì những năm chiến tranh không nghỉ, chiến tranh chẳng thấy kết thúc. Tướng Trần Văn Trà người chỉ huy thời kỳ vùng quân sự ở trên cao nguyên miền Trung đã viết: "Cán bộ chiến sĩ của chúng ta đã kiệt sức. Chúng ta không có thời gian để củng cố quân số, tất cả các đơn vị đều hỗn loạn; chúng ta thiếu người, thiếu lương thực và đạn dược". Để bù vào những tổn thất dịp Tết, ông Giáp đã vội đưa vào 80 đến 90 nghìn người, nhưng số quân này không đáng kể: 40% số này đã phục vụ 6 tháng và 50% mới vào được 3 tháng kể cả thời gian đi trên đường mòn. Phải hàng năm trời, quân giải phóng miền Nam mới có thể hoạt động lại như thường lệ; và không có sự yểm trợ của quân giải phóng miền Nam Quân đội nhân dân Việt Nam không thể tiếp tục tác chiến ở miền Nam như trước đây.
Sau Tết, ông Giáp đã đi đến kết luận về phương diện quân sự, chiến tranh. đã đến ngõ cụt. Không thể cân bằng được với lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, nhưng họ cũng không thắng nổi quân đội của ông vì phần lớn lực lượng của họ có nhiệm vụ bảo vệ những căn cứ khổng lồ của họ.
Tháng 5 năm 1968 Trường Chinh một trong những người giúp ông Giáp trong trận Điện Biên Phủ, trở thành một ủy viên quan trọng của Bộ Chính trị bảo vệ sự cần thiết phải thay đổi chiến lược. Ông nói: Thứ nhất cuộc tấn công dịp Tết đã phạm một sai lầm: trái với những điều đã dự đoán trước, nhân dân chưa sẵn sàng nổi dậy; Trung ương Cục miền Nam chưa thiết lập được những căn cứ cần thiết. Thứ hai là cuộc tiến công dịp Tết đã làm thay đổi cán cân lực lượng có lợi cho Mỹ. Trong tình trạng tương tự, Lênin đã quyết định chuyển từ tấn công sang phòng ngự: kéo dài chiến tranh để "giành lấy thời gian, củng cố lực lượng, làm mất tinh thần quân địch". Thứ ba là, miền Bắc phải ra sức tăng cường kinh tế để cho miền Nam tiếp tục cuộc chiến tranh của họ.
Lê Duẩn và những ủy viên khác của Bộ Chính trị không đồng ý lập luận của ông Trường Chinh, khăng định cần tiếp tục tấn công, nhưng họ bị thiểu số. Do đó phải quyết chơi con bài thời gian: chắc chắn hoa Kỳ không đủ ý chí để theo đuổi chiến tranh đến cùng. Đến một thời cơ thuận lợi, phải thay đổi chiến lược, chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến tranh thông thường (ông Giáp nói: "Bây giờ chưa có khả năng tiến bộ thực sự để tiến hành chiến tranh thông thường với những trận tập trung lực lượng quan trọng), còn phải một thời gian lâu dài mới có khả năng đó. Trong khi chờ đợi, phải tiếp tục chiến tranh tâm lý chống lại Hoa Kỳ. Ông Giáp khuyến khích Trung ương Cục miền Nam tiếp tục chiến tranh du kích với quy mô nhỏ, vì ông không bao giờ có ý định bỏ cuộc.
Cho đến cuối tháng 5 năm 1968, Trung ương Cục tổ chức một cuộc tiến công nhỏ "minh tít" nhưng nhanh chóng bị bóp nghẹt. Tháng 8, một đợt hoạt động khác nhưng còn ít thắng lợi. Những người có trách nhiệm đã có ý nghĩ không có lực lượng để tiếp tục hoạt động khá hơn, họ giới hạn trong vòng 4 năm tiếp theo duy trì những hoạt động du kích của những đơn vị nhỏ về phía mình, quân đội cộng hoà miền Nam và quân đồng minh càng ngày càng ít dần, cố gắng không cần thắng lợi xoá đi những vùng quân giải phóng miền Nam kiểm soát và "bình định" vùng nông thôn.
Ông Giáp và cộng sự đã thành công thực hiện chiến lược có hiệu quả lớn: bằng con đường kéo dài đàm phán hoà bình, đồng thời giết các binh sĩ và lái máy bay Mỹ khi có dịp thuận lợi, Hà Nội làm cho dư luận Mỹ càng căm ghét chiến tranh. Trong một lời nhận xét nổi tiếng, Karl von Clausewit, đã nói: "Chiến tranh là tiếp tục của chính trị bằng các phương tiện khác"; Hà Nội tiến hành hội đàm là để tiếp tục chiến tranh bằng các phương pháp khác.
Ở Hội nghị hoà bình, Henry Kissiger là đại biểu của Hoa Kỳ. Kissiger là một người Đức nhập tịch Hoa Kỳ năm 1938, sau khi phục vụ ở châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã được bằng tiến sĩ học ở trường đại học Haward. Cố vấn cho các tổng thống Kennedy và Johnson trong thống lĩnh vực kiểm soát quân đội và chính sách ngoại giao, ông được Nixon cử làm trợ lý cố vấn an ninh quốc gia. Bắc Việt Nam có đại diện không lay chuyển được Lê Đức Thọ.
Trong khi các cuộc thương lượng "công khai" tiếp tục ở Paris, từ tháng 8 năm 1969 Kìssiger tiến hành đàm phán bí mật với Lê Đức Thọ ở một vùng ngoài ô. Ông định giải pháp "nước đôi" công nhận sự rút quân của Mỹ và miền Bắc Việt Nam, miền Nam Việt Nam phải ngang hàng với Việt Cộng. Hà Nội bác bỏ giải pháp này và yêu cầu tổng thống Thiệu từ chức. Hoa Kỳ từ chối bỏ Thiệu. Năm 1971 các áp lực chấm dứt chiến tranh tăng lên. Lợi dụng bất đồng trong quan hệ Liên Xô và Trung Quốc, Kissiger đến Bắc Kinh để chuẩn bị cho chuyến thăm của tổng thống vào năm sau.
Từ tháng chạp năm 1965 đến tháng 5 năm 1968, Hoa Kỳ từng thời kỳ ra lệnh ngừng ném bom để buộc Bắc Việt Nam đàm phán một thoả thuận chấp nhận được nhưng phải đợi đến tháng 1 năm 1964 bầu Tổng thống Nixon để cho Hà Nội tính đến chuyện cũng như những người tiền nhiệm, ông không xác định thắng lợi trong cuộc chiến tranh, điều đó chấm dứt hy vọng Hoa Kỳ thay đổi thái độ.
Những người Bắc Việt Nam bắt đầu nghiêm túc nghĩ đến tìm biện pháp chấm dứt chiến tranh. Yếu tố mấu chốt làm nghiêng hẳn cán cân là sự kiện: tổng thống Nixon thăm Bắc Kinh, điều chắc chắn là Trung Quốc không tiếp tục ủng hộ Bắc Việt Nam nhiều như trước.
Năm 1972 Washington cũng như Hà Nội chấp nhận dần những vị trì đã được cải thiện: tháng 10, các điều khoản của hiệp nghị đã được thiết lập, nhưng tổng thống Thiệu phê phán không chấp nhận. Tháng chạp, tổng thống Nixon ra lệnh thực hiện "đợt ném bom Noel". Tháng giêng 1973 thoả hiệp được ký công khai. Lần này chấp nhận các lực lượng miền Bắc Việt Nam được ở lại miền Nam, cũng như tổng thống Thiệu vẫn tồn tại. Không có lúc nào trong những cuộc thương lượng, Kissiger được một con chủ bài cao hơn. Mục đích của Mỹ là muốn cho miền Nam Việt Nam tiếp tục tồn tại như một nước độc lập. Mặc dù những lời hứa của Hà Nội, ông Kissiger cũng nghĩ rằng Sài Gòn sẽ tiêu tan sau khi quân Mỹ rút về nước.
Vì những cố gắng của họ đưa đến một kết quả ngừng bắn, Henry Kissiger và Lê Đức Thọ đều được giải thưởng Nobel về hoà bình. Lê Đức Thọ từ chối không nhận giải thưởng.
Đây là một thí dụ khác về chiến lược quy mô lớn mà ông Giáp áp dụng. Đã nhiều lần trong những năm dài chiến tranh, ông đã buộc quân địch sang Campuchia và Lào, như vậy họ phải phân tán nguồn lực đáng lẽ phải tập trung cho vùng chủ chốt miền Nam Việt Nam. Hơn chục nghìn người đàn ông và đàn bà của đường mòn Hồ Chí Minh đã cùng các đơn vị khác tiến hành những trận đấu hoặc độc lập hoặc hiệp đồng với Pathet Lào; khi quân địch hạ thấp sự bảo vệ, họ tăng cường các trận chiến đấu; Sài Gòn và Washington luôn luôn phải tính đến sườn Tây.
Tháng 3 năm 1969, địch chấm dứt việc tiếp tế cho lực lượng của ông Giáp và quân giải những miền Nam qua cảng Sihanon Kville, và phản ứng với những hoạt động trở lại của cộng sản ở Nam Việt Nam, Tổng thống Nixon ra lệnh ném bom Campuchia; kế hoạch đặc biệt bí mật này lấy tên là Menu. Campuchia về nguyên tắc là một nước trung lập, cho nên chỉ có Tổng thống, Henry Kissiger và Bộ trưởng Bộ quốc phòng Melvin Laird, thêm vài thành viên của Quốc hội được biết về kế hoạch này. Tổng tư lệnh Không quân cũng không được báo tin. Tính đến phần lớn binh sĩ và những người tham dự vào kế hoạch; phải giữ tuyệt đối bí mật đến lúc tờ New York tim đặt bó hoa hồng tháng 5 năm 1969. Lúc ban đầu kế hoạch Menu không được kéo dài quá vài tuần lễ, nhưng sang tháng 5, họ quyết định mở rộng kế hoạch đê yểm hộ cho quân đội Campuchia chống lại Khơmer đỏ-Cho đến kế hoạch kết thúc tháng 8 năm 1973, B52 đã phải cất cánh 16.527 lần, ném bom 400.000 tấn bom.
Đầu năm 1969, ông Giáp đã lệnh cho quân đội tăng cường tác chiến trong vùng biên giới và thực hiện xâm nhập sâu vào lãnh thổ Campuchia. Cũng thời kỳ này; Hoa Kỳ cắt viện trợ cho Campuchia, vì thái tử Xihanuc theo đường lối của Trung Quốc. Tiếp theo quyết định này và quân miền Nam Việt Nam đe doạ đất nước, chinh phủ Campuchia phải hạ bệ Xihanuc và thực hiện những biện pháp chống Cộng kịch liệt. Quân đội Campuchia hoạt động trên biên giới phía đông để đuổi quân miền Nam Việt Nam ra khỏi những căn cứ chúng ta đã thiết lập; đầu 1970 ông Giáp đã đưa một lực lượng khoảng 50.000 người vào Nôm Pênh để đáp lại.
Ở Washington người ta sợ rằng quân của ông Giáp sẽ làm chủ Campuchia. Ngày 17 tháng 4 năm 1970, 15.000 lính Mỹ lợi dụng yểm trợ mạnh mẽ của máy bay đã vào Campuchia. Kế hoạch hành quân nhằm 3 mục tiêu: giảm áp lực của Bắc Việt Nam lên quân đội Campuchia còn yếu ớt; tấn công những căn cứ ở biên giới của ông Giáp; nếu có thể, chiếm tổng hành dinh của Trung ương Cục miền Narn Việt Nam. Bắt đầu bằng những vụ không tập khổng lồ, các đơn vị quân Mỹ tiến hành về phía Tây và phía Nam nhưng không phải giao chiến: đối phương vừa đánh và lùi sâu về phía Nam, gần 9.000 quân Việt Nam cộng hoà gặp một vài sự chống trả, nhưng đối phương rút lui sau 2 ngày chiến đấu. Nhưng một lần nữa Trung ương Cục miền Nam vẫn tồn tại; sau đó người ta được tin họ đã trở về phía Bắc sông Mêkông ngày 13 tháng 3. Các cuộc hành quân chấm dứt ngày 30 tháng 6 và các lực lượng rút quân.
Cuộc đột nhập vào Campuchia được mạo xưng là đúng để chống lại các kế hoạch của ông Giáp và ngăn trở việc rút quân của các lực lượng Mỹ. Cuộc hành quân ấy không có tác dụng đó, vì lí do ông Giáp không bao giờ phản đối việc rút quân. ông Giáp đang bận tổ chức lại và tập hợp lại quân giải phóng miền Nam và im lặng chờ đợi cho đến khi quân Mỹ rời khỏi miền Nam- ở Hoa Kỳ, trái lại kế hoạch Free dom Deal kích động một làn sóng chống chiến tranh mạnh hơn; các sân bãi trường đại học là nơi diễn ra những cuộc biểu tình mãnh liệt, đồng thời những lời chỉ trích mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng đặt chính phủ Nixon vào trong tình thế không vững chắc hơn bao giờ hết. Lấy làm phiền lòng vì không kiểm soát được những sự kiện này. Quốc hội chấp nhận một quyết định cấm các lực lượng Mỹ hoạt động ở Lào hoặc ở Thái Lan.
Tháng 2 năm 1971, tám tháng sau khi đột nhập vào Campuchia, các đơn vị quân cộng hoà miền Nam lợi dụng một lần nữa sự yểm trợ quan trọng của không quân Mỹ, xâm nhập vào Lào trong kế hoạch hành quân như Henry Kissinger nói "thụ thai trong ngờ vực và bị nghi hoặc dày vò Có đến gần 30.000 quân đưa sang Lào, song họ đã nhận chỉ thị của Sài Gòn phải kết thúc cuộc hành quân với hơn 3.000 người thiệt mạng. Đó là trường hợp họ dừng lại nửa đường đến mục tiêu và trở về trong tình trạng hoàn toàn lộn xộn. kế hoạch Lam Sơn 719 không làm chậm hoạt động trên đường mòn Hồ Chí Minh; tệ hại nhất quân cộng hoà miền Nam đã thất bại thảm hại ngay trận ra quân đâu tiên không có sự yểm trợ của bộ binh Mỹ. Điều đó không ngăn cân Tổng thống Nixon tuyên bố với đất nước ngày 7 tháng 7 rằng Việt Nam hoá đã thành công. Chắc chắn đó không phải là trường hợp sự tan vỡ lớn hơn trong tinh thần mọi người và làm tăng gay gắt hơn áp lực lên những lực lượng ốm yếu của quân Mỹ hiện còn ở miền Nam.
Mùa xuân năm 1972, ông Giáp đã sẵn sàng. Để lại một sư đoàn dự bị ở lại miền Bắc Việt Nam, ông đưa phần lớn lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, kể cả những đơn vị từ Lào về, vào một cuộc chiến tranh thông thường qui mô lớn. Một lực lượng khoảng 125.000 người chia thành 20 sư đoàn hơn cả lực lượng của tướng Patton chỉ huy trong chiến tranh thế giới thứ hai-vượt qua vùng giới tuyến khu phi quân sự.
Sau hội nghị lần thứ 19 họp cuối năm 1970, ông Giáp đã phân tích tình thế: theo ông, chính sách Việt Nam hoá của Mỹ đã tiến triển cũng như công việc bình định. Theo quan điểm của ông, tình thế tích cực là các lực lượng Mỹ đã rút khỏi miền Nam Việt Nam năm 1972. Sự đột nhập của quân ngụy miền Nam vào Lào đã bị thất bại, chỉ ra rằng quân ngụy miền Nam chỉ chống cự yếu ớt trước một cuộc tấn công qui mô lớn. Ông đề nghị và hội nghị chấp nhận vào mùa xuân năm 1972 tiến hành một cuộc tấn công lớn nhằm gây những tổn thất nặng nề cho quân Mỹ trong năm bầu cử tổng thống với sự thất bại có thể của Nixon.
Kế hoạch Nguyễn Huệ, đặt tên một vị anh hùng dân tộc Việt Nam thế kỷ 17, như ông giải thích có mục đích "thay đổi tương quan lực lượng nhờ những trận chiến đấu thông thường kết hợp với đấu tranh chính trị". Không giành được thắng lợi quyết định các lực lượng tác chiến cóthể tạo thành một luận chứng quan trọng đầy sức nặng ở các cuộc thương lượng.
Kế hoạch của ông Giáp chia làm 3 khu vực tác chiến đồng thời với nhau. Hai sư đoàn cộng với 3 trung đoàn bộ binh phải vượt qua vùng giới tuyến theo hướng Quáng Trị còn một sư đoàn khác tấn công vào Huế theo hướng Tây; cũng như trong cuộc tấn công dịp Tết năm 1968, một cuộc nghi binh lớn phải tiến hành ở miền Bắc, nhằm chia cắt 2 tỉnh phía Tây và đánh chiếm lấy 2 tỉnh. Một khu vực tiến công thứ hai từ các cao nguyên miền Trung chiếm Pleiku và Kontum nhằm cắt đôi miền Nam. Còn sâu hơn về phía Nam, một lực lượng thứ ba phải đánh vào Sài Gòn theo quốc lộ số 13. Mỗi khu vực tác chiến đều chia thành 2 đợt, khi đợt sóng thứ nhất bắt đầu lắng xuống, những đơn vị mới lại tiếp tục tấn công.
Đây là một kế hoạch táo bạo nhưng không phải độc đáo: tính đến điều kiện địa hình, các mục tiêu đều quan trọng, và tính đến việc bố trí lực lượng của hai phía, một đợt tấn công như vậy trên ba mặt trận là có thể dự kiến được. Hơn nữa ông Giáp không thực sự được chọn. Lúc nào cũng có một yếu tố mới, hy vọng thắng lợi quyết định. Lần thứ nhất ông bố trí một lực lượng lớn xe tăng T54 và T72 của Liên Xô. Ông có thể trở thành một vi tướng của thế kỷ 20 về mọi phương diện; chỉ có ông thiếu máy bay tấn công để yểm trợ các lực lượng dưới mặt đất.
Trên mặt trận phía Bắc trận tấn công bắt đầu ngày 30 tháng 3 được pháo bắn chuẩn bị yểm trợ dày đặc. Ngày 2 tháng 4, phần lớn các đơn vị của quân đội cộng hoà miền Nam đang ở giới tuyến quân sự tạm thời vừa chiến đấu vừa vội vàng rút lui. Tuy nhiên lực lượng của ông Giáp không vượt qua được; ngày 9 tháng 4 các đơn vị phải quay lại để củng cố. Ngày 1 tháng 5 các đơn vị mới chọc thủng tuyến phòng ngự và chiếm được thành phố Quảng Trị.
Ở miền Trung, trận tấn công bắt đầu ngày 1 tháng 4. Các đơn vị cộng hoà miền Nam thường được lợi thế địa hình; đến cuối tháng có khả năng những trận công tiến ra đến biển, chia đôi đất nước. Từ 15 đến 25 tháng 5 các lực lượng cộng sản tạm ngừng để tiếp thêm và củng cố lại quân số; sau đó, họ tiến lên Kontum. Washington lo lắng theo dõi sự tiến quân của các lực lượng của ông Giáp; nhưng tính đến lực lượng Mỹ còn lại ở Việt Nam đã giảm đi nhiều, chỉ còn các cuộc không tập có thể bảo đảm yểm trợ cho quân cộng hoà miền Nam. Một lần nữa, máy bay lém bom hạng nặng đã giúp quân ngụy miền Nam khỏi thua trận. Sau một thời hạn nhất định quân miền Nam vừa đánh vừa rút lui.
Ở phía Nam, trận tấn công bắt đầu ngày 2 tháng 4. Cũng như ở phía Bắc, quân bộ binh của ông Giáp bắt đầu giành được trận địa, nhưng những đợt không tập chiến thuật và B52 đã làm chậm bước tiến của họ. Các sĩ quan chỉ huy đã không hợp đồng chặt chẽ giữa xe tăng và bộ binh. Các xe tăng phải dồn vào vùng An Lộc và không thể tiếp tục tiến về Sài Gòn. Ngày 18 tháng 4, một lính ngụy miền Nam Việt Nam bắt được của đối phương kế hoạch của trận tấn công tiếp theo, điều đó cho phép quân phòng ngự đẩy lùi đợt tấn công. Cho đến ngày 15 tháng 5, các đợt tác chiến ở miền Nam Việt Nam đã thực sự kết thúc. Đó là lần cuối cùng ông Giáp tấn công trực tiếp vào những đơn vị bao gồm cả lực lượng Mỹ.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 4:49 pm
Chương 24: Cuối cùng là hoà bình
Đúng, chúng ta đã thắng Hoa Kỳ. Nhưng bây giờ chúng ta đang bị rung chuyển trước nhiều vấn đề. Chúng ta không đủ ăn. Chúng ta là một nước nghèo, kém phát triển. Tiến hành chiến tranh, thật đơn giản; nhưng quản lý một đất nước, thật cực kỳ khó khăn.
Phạm Văn Đồng
Về mặt tài chính, cái giá của chiến tranh Việt Nam thật đồ sộ đổi với Hoa Kỳ nhưng nhỏ nhoi đối với Bắc Việt Nam. Vì người Liên Xô và người Trung Quốc thanh toán phần lớn hoá đơn. Đến cuối cùng, người Mỹ tốn mỗi năm 30 tỷ đô la; Liên Xô và Trung Quốc mỗi nước khoảng 1 tỷ đô la.
Năm 1965, Alexei Kossyguine Thủ tướng chính phủ Liên Xô đến Hà Nội và hứa viện trợ mỗi năm tương đương một tỷ đô la ngoài những triệu đô la mà Liên Xô đã chấp nhận cho Việt Nam. (Ông cũng đề nghị, không được hoan nghênh, chế độ Hà Nội tìm kiếm một giải pháp hoà bình với Hoa Kỳ). Trung Quốc cũng vậy tỏ ra rất hào hiệp suốt những năm dài chiến tranh; ngoài việc viện trợ vật chất và tài chính, Trung Quốc đã gửi sang hàng nghìn chuyên gia và cố vấn; ở miền Bắc Việt Nam đã có trên 40.000 huấn luyện viên và kỹ thuật viên Trung Quốc.
Về mặt con người, chiến tranh Việt Nam còn đắt giá hơn nhiều khi Nixon vào ghế tổng thống, khoảng 30.000 quân Mỹ đã chết ở Việt Nam; một năm sau, còn thêm 10.000 người chết. Kết thúc chiến sự, những con số công khai về tổn thất của Mỹ trong toàn bộ thời gian chiến tranh là như sau: Khoảng 46.000 chết trong chiến đấu (trong đó 13.000 lính chuyên nghiệp khoảng 13%) cộng thêm khoảng 10.000 binh sĩ chết vì tai nạn máy bay hoặc tai nạn khác; khoảng 300.000 binh sĩ bị thương. Các lực lượng liên quân hơn 5.200 người chết: 4.407 Nam Triều tiên, 469 Úc và Niu Zilân, 350 Thái Lan.
Tổn thất trong quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam được phân phối như sau: khoảng 137.000 chết và 300.000 bị thương. Đối với dân thường miền Nam Việt Nam, những con số đáng tin cậy là từ 355.000 đến 415.000 chết và gần 750.000 bị thương.
Về phía cộng sản, Quân đội nhân dân Việt Nam và quân giải phóng miền Nam không tính những người không chiến đấu-đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Ông Giáp cho là có 600.000 người chết (bao gồm những người hy sinh trong chiến đấu, và tất cả những người bị sốt rét và các bệnh nhiệt đới khác); về phía mình, Washington đưa tin quân cộng hoà miền Nam Việt Nam có 800.000 người chết và Việt Cộng, một triệu.
Ở miền Bắc chiến tranh đã gây nên 400 triệu đô la tổn thất về vật chất kỹ thuật (nhưng người ta thấy khó lòng mà thống kê được những con số thiếu chính xác này). Với một tổng thu nhập hằng năm là 1,7 triệu đô la (năm 1972) vào loại thấp nhất châu Á, Hà Nội chắc chắn phải nhiều năm mới khôi phục được.
Khi ngừng bắn đã được thực hiện ở miền Nam Việt Nam đã có hơn nửa triệu người tị nạn. Trợ cấp hàng năm của chính phủ cho những người tị nạn chỉ đạt được chưa đầy một nửa ngày chi tiêu trong chiến tranh của Hoa Kỳ. Lyndon Johnson đã chết ngày 23 tháng giêng năm 1973 trước khi ký Hiệp định Paris 5 ngày. Hiệp định qui định:
Ngừng bắn tôn trọng hiện trạng, các lực lượng quân đội của hai bên phải ở lại trên những vị trí họ đang đóng ngày này.
Rút hết quân Mỹ khỏi miền Nam.
Trao đổi tù binh chiến tranh trong phạm vi 60 ngày.
Cấm đưa thêm lực lượng vào miền Nam Việt Nam đối với cả 2 bên.
Hai hội đồng chịu trách nhiệm kiểm tra tiệc tôn trọng lệnh ngừng bắn.
Nói cách khác, sau những năm thương lượng, Hoa Kỳ phải chấp nhận một tối thiểu tuyệt đối: rút hết toàn bộ quân đội, đổi lấy sự trở về của tù binh chiến tranh. Tất cả những nỗ lực của họ, những thương vong của họ không phục vụ cho ai hết, vì quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam không suy chuyển ở lại tại chỗ, sẵn sàng để tiếp tục chiến đấu.
Ngày 9 tháng 8 năm 1974 Tổng thống Nixon (được bầu lại năm 1972) phải từ chức sau vụ Watergate; Phó Tổng thống Gerald Ford thay thế. Một chi tiết nhỏ về lịch sử thú vị, những người có trách nhiệm trong vụ trộm Watergate là nhóm quan chức chính phủ đã giấu dư luận những vụ ném bom bí mật ở Campuchia.
Chiến tranh chống Mỹ đã khép lại, nhưng Võ Nguyên Giáp không có ý định nghỉ ngơi. Đối với ông, đó chỉ là một thời gian ngắt quãng ngắn ngủi trong cuộc marathon cho đến khi nước Việt Nam thống nhất mới kết thúc.
Ở hội nghị lần thứ 21 họp tháng 10 năm 1973, các nhà lãnh đạo miền Bắc quyết định ưu tiên cho một cuộc tấn công quân sự, chiến tranh tâm lý chuyển xuống hàng thứ hai. Tất cả cho hành động cuối cùng mà họ gọi là "giải phóng” miền Nam.
Ông Giáp là Tổng tư lệnh đã gần 20 năm và đảm nhiệm thêm trách nhiệm chinh trị cao. Các lực lượng quân đội Bắc Việt Narn không ngừng được tăng cường; quân đội của ông bây giờ đứng thứ ba thế giới với 800.000 người. Ông cũng phải để tâm dành thời gian cho không quân và hải quân. Đó là một gánh rất nặng cho riêng một người.
Bên ngoài có nhiều lý do để nghĩ rằng miền Nam giữ quyền độc lập sau khi quân Mỹ rút. Quân đội cộng hoà miền Nam gồm 450.000 binh sĩ, hơn 100.000 thuộc lực lượng hải quân và không quân. Ngoài ra, còn một nửa triệu quân địa phương và dân quân, một dạng địa phương của lực lượng du kích của ông Giáp: Nên nhớ rằng có rất nhiều người dân thường Nam Việt Nam phản đối các hình thức thống nhất với miền Bắc.
Tất nhiên một trong những nhóm người sợ nhất việc thống nhất là các thành viên của lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam trước đây cũng như hiện nay, nếu quân cộng sản đến, thì chắc chắn họ là những người đầu tiên bắt vào tù hoặc hành quyết. Sau đó là những nhà buôn đã làm giàu vì có quan hệ với Hoa Kỳ; khi người ta giơ ngón tay lên cho họ, tiền của của họ sẽ không có cách gì cứu vãn được. Và vô số các công chức, cũng như nhiều người đã làm việc cho quân Mỹ, những người ít nhiều đã giúp đỡ Hoa Kỳ giữ lấy miền Nam; nhiều người trong số họ chẳng được lợi lộc gì nhiều về kinh tế, nhưng không thể qua mắt những kẻ tố cáo. Cuối cùng là những công dân bình thường, họ biết rằng khi những người miền Bắc tới đây đời sống họ càng xuống thấp, vì bóc lột miền Nam để kích thích nền kinh tế nghèo nàn của miền Bắc. Tính đến sự phản đối mạnh mẽ ấy, ý thích chống lại quân cộng sản đủ mạnh để đẩy lùi họ (lý lẽ cuối cùng là số phận của họ trông chờ vào quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam).
Về mặt tổ chức tốt, huấn luyện tốt, được trang bị một học thuyết quân sự tiến bộ trong những năm dài chiến đấu bên cạnh quân Mỹ, quân đội miền Nam phải chứng tỏ họ có bản lĩnh cao. Mặc dầu vậy, các đơn vị chiến đấu chỉ còn nửa quân số còn lại là bộ phận dư thừa. Năm 1974 tiếp theo những khó khăn về kinh tế, tổng thống Thiệu đã giảm mạnh ngân sách quốc phòng, ông đã phải cắt bớt lương, những phụ tùng thay thế, xây dựng trận địa, đạn dược cho huấn luyện; binh lính chỉ có quyền hưởng hai đôi giày một năm mà không phải ba đôi như trước... và yếu tố quan trọng nhất, tấm lòng không ở đấy.
Sự ra đi của quân Mỹ không làm gì để tăng thêm hư hỏng, hủ hoá, gian lận, và chính sách gia đình trị có mặt ở khắp nơi. Tinh thần, hiệu quả, kỷ luật không ngừng xuống cấp. Phần lớn những người lính mới ra đi từ những gia đình theo chính sách phân loại từ nhiều năm nay: những người thanh niên có anh ruột đang chiến đấu trong hàng ngũ Việt Cộng được gọi vào lính cộng hoà miền Nam; các thành viên của Việt Cộng lẫn vào trong quân đội cộng hoà vì không có công ăn việc làm nơi họ sinh sống. Thật không đáng ngạc nhiên khỉ những người cộng sản chuyển sang tấn công, quân đội cộng hoà miền Nam tan rã trong vòng vài ngày. Một số đơn vị hoặc cá nhân chiến đấu kịch liệt-những người tích cực nhất hoặc những người không có gì để mất-nhưng họ chỉ là một thiểu số.
Văn Tiến Dũng ngày 5 tháng giêng 1975 được cử giữ chức tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn, tổ chức cuộc tấn công ngày 8 tháng 4 năm 1975 trên 5 mặt trận khác nhau với 22 sư đoàn chia thành 5 quân đoàn. Ngày 25 tháng 3 Huế thất thủ; ngày 30 đến Đà Nẵng (ngày 7 tháng 4 Lê Đức Thọ người đã đàm phán hoà bình ở Paris, đến miền Nam Việt Nam để quan sát trận tấn công). Ngày 17 sự kiện đưa đến những hậu quả khắc nghiệt và khủng khiếp Phnom Penh thủ đô Campuchia rơi vào tay Khơme đỏ Pol Pot. Ngày 29, những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Sài Gòn; ngày 30 đại tá Bùi Tín nhận sự đầu hàng của thủ đô miền Nam. Tất cả đã kết thúc. Để đến lúc này, phải chiến đấu 30 năm.
Quân đội cộng hoà miền Nam không thể chống cự nổi trận tấn công cuối cùng. Vân Tiến Dũng kể: "Sau khi chiến thắng quân Mỹ và quân ngụy, chúng ta đã chiếm được một số lượng vũ khí và vật chất kỹ thuật. Chúng ta đã bố trí một lực lượng vũ trang mạnh và một số trang bị kỹ thuật hiện đại để giải phóng miền Nam".
Đúng như điều họ đã làm.
Mai Thế Chính người đã phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã kể cho tác giả nghe câu chuyện sau đây:
“Tôi cưới vợ tháng 4 năm 1967, vợ tôi rất lo lắng cho tôi. Trong 6 tháng, chúng tôi có quyền gửi và nhận những bức thư, nhưng không bao giờ tôi cho vợ tôi biết hoàn cảnh thiếu thốn của chúng tôi, tôi không bao giờ nói rằng chúng tôi thiếu ăn, chúng tôi bị ngập lụt, và bom bỏ như mưa xung quanh. Trái lại tôi lại nói với cô ấy rằng nếu tôi chết, cô vẫn chưa đến 30 tuổi, cô phải đi tái giá. Tôi cũng nói với cô rằng, nếu cô đã quá 30 tuổi, thì tuỳ cô quyết định ở lại với các con hoặc đi bước nữa. Đó là điều tôi viết cho vợ tôi.
Tôi đã tham dự cuộc tổng tấn công vào Sài Gòn. Năm quân đoàn tấn công theo 5 hướng khác nhau. Tôi ở Quân đoàn 3 tấn công Sài Gòn từ hướng Tây. Đơn vị tôi đã bắt đầu chiến đấu trên Tây Nguyên, trước khi theo đường 17 và phía Đông. Phần lớn thời gian quân địch, quân ngụy bỏ chạy, nhưng ở một vài nơi, chúng chiến đấu dữ dội. Hàng nghìn lính ngụy bị bắt làm tù binh. Ở nhiều nơi quân địch bỏ lại hàng đống lớn quần áo, mũ và vũ khí bên vệ đường, mà họ vứt bỏ để làm người thường dân.
Có sự thi đua tích cực xem ai là người đầu tiên cắm lá cờ trên dinh Độc Lập, tất cả phải lỗ lực để đạt được vinh dự đó. Cuối cùng, Quân đoàn 2 là những người đầu tiên. Rất tiếc đã không phải là chúng tôi.
Sau thắng lợi, mọi gia đình chiến sĩ đều mong đợi người thân trở về. Lúc này, vợ tôi đang học Đại học ở Hà Nội. Họ bảo cô rằng nếu bỏ trường đại học về đi gặp chồng thì mất một năm học hoàn toàn, nhưng cô ấy cứ đi, hy vọng chồng cô trở về.
Khi mọi chuyện đã kết thúc, tôi theo đường bộ từ Sài Gòn ra Hà Nội, mất ba ngày. Ngày 1 tháng 6 tôi đã trở về và đã gặp vợ tôi.
Phải hơn một năm để thực hiện thống nhất miền Nam và miền Bắc-một năm khủng khiếp vì lo sợ và lộn xộn. Đối với nhân dân Mỹ, hình ảnh trên truyền hình về những người vừa móc vào mắt xích trực thăng vừa kêu la vừa rơi xuống mái nhà đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn là khúc tưởng mềm cho thời kỳ dai dẳng và thảm hại của lịch sử nước Mỹ. Đối với những người khác, không phải là kết thúc mà là một sự bắt đầu mới.
Sau khi thống nhất, một triệu người đàn ông, đàn bà và trẻ con rời miền Nam Việt Nam: những người Boat people đầu tiên. Khoảng 100.000 người ở lại được tập trung vào những trại "cải huấn". Một số ít bị cầm tù trong 3 năm hoặc hơn; ban ngày, nói chung họ đi chặt tre trong rừng, buổi tối dành cho những buổi huấn luyện làm cho họ nhận rõ sai lầm. Nói chung không đến nỗi dễ sợ như người ta tưởng. Những bài học của chiến dịch cải cách ruộng đất 1956 còn chưa quên; mục tiêu bây giờ là xoá đi và cải tạo mà không phải tiêu diệt.
Ít lâu sau việc giải phóng miền Nam, ông Giáp và các ủy viên Bộ Chính trị khác đã vào Sài Gòn để thưởng thức thành quả của thắng lợi. Nhưng họ chưa thể kết thúc, chưa thể.
Ở Campuchia, Pônpôt trở thành người chủ đất nước tổ chức một vụ khủng bố trắng toàn xã hội. Đa số dân thành thị bị đuổi về làm việc ở nông thôn bằng vũ lực. Ai chống lại sẽ giết, gần như tất cả những nhà tri thức, kể cả bác sĩ, nhà khoa học và công chức phải suy nghĩ, tổ chức lại và lãnh đạo họ là mối nguy hiểm cho chế độ mới. Các thành phố suy sụp và chết-cũng như vậy trong những vùng nông thôn đối với mùa màng, và những người nông dân đói không hy vọng cày cấy trở lại.
Cái kinh nghiệm tàn nhẫn ấy của chủ nghĩa xã hội khoa học trả giá bằng sinh mệnh của 2 hoặc 3 triệu người dân Campuchia không ai biết con số chính xác: có quá nhiều đầu lâu để mà đếm. Cuộc diệt chủng chấm dứt khi lực lượng quân giải phóng miền Nam tràn sang đất Campuchia tháng 12 năm 1978, một kế hoạch hành quân do ông Giáp đề xuất và lãnh đạo (họ phải ở lại cho đến tháng 12 năm 1989).
Năm 1980 Văn Tiến Dũng kế tục sự nghiệp của ông làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông Giáp vẫn còn ở lại Bộ Chính trị, và phụ trách công tác Khoa học và Kỹ thuật; nhiều năm ông làm Phó Thủ tướng.
Tháng 7 năm 1991 một tháng trước ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80, Võ Nguyên Giáp không còn ở trong Bộ Chính trị.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Tue Dec 25, 2012 4:55 pm
Chương 25: Ông Giáp - Bản tổng kết
Chúng tôi muốn sống trong hoà bình và hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới.
Ông Giáp với Tác giả
Cuốn sách này đã thuật lại cuộc đời của Võ Nguyên Giáp và lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự thật không phải quân đội, mà chinh nhân dân đã thắng trong cuộc chiến tranh, nhưng làm sao có thể tách đôi? Nhân dân là quân đội: tất cả đều là chiến sĩ...
Đàn ông và đàn bà Việt Nam là những người thực sự đã gây dựng nên thắng lợi; Tổng tư lệnh xuất chúng. Cụ Hồ Chí Minh là người lái con thuyền, nhưng ông Giáp là người chỉ huy các lực lượng vũ trang.
"Của cải dành riêng” của Cụ Hồ Chí Minh là Đảng Cộng sản, nhưng của ông Giáp là quân đội, và là quân đội nhân dân đã giành thắng lợi trong chiến tranh. Trong giới hạn này, ông Giáp có thể tự hào đã giành hai thắng lợi to lớn và là nguồn gốc của thống nhất và độc lập của đất nước ông. Rất nhiều thắng lợi của ông đã làm cho ông trở thành một trong những người chỉ huy vĩ đại nhất của tất cả các thời đại.
Ông Giáp đã thật sự là một nhà chiến lược vĩ đại? Vì bốn lý do không dễ dàng gì để trả lời câu hỏi đó:
Dưới chế độ ông phục vụ, mọi quyết định được tiến hành tập thể; trong phạm vi quân sự, ông là người đứng đầu trong số những người ngang hàng (Primus inter pares) nhưng chỉ mình ông là trọng tài.
Nước Việt Nam còn là một xã hội đóng kín, có khả năng mở hơn cách đây vài năm, nhưng những người từ phương Tây tư bản chủ nghĩa đến đã quan tâm đến quá khứ rất gần đây, không đánh giá cao.
Tôi có thể đến Hà Nội vì cánh cửa đã mở, vì tôi là một tác giả nổi tiếng, vì tôi đã là một người lính và như vậy đối với ông Giáp trong lúc trò chuyện dễ chấp nhận hơn một nhà văn không có kiến thức quân sự và cũng vì tôi là một công dân Anh quốc, có thể khách quan hơn một người Pháp hoặc một người Mỹ.
Cuối cùng, người Việt Nam là những người rất kín đáo; nói công khai những vấn đề cá nhân là không chấp nhận được-nên để tấm lòng ngay thẳng trước những người không quen biết; những chi tiết của đời tư, những tư tưởng và tình cảm sâu kín đều cấm ky. Một quyển tiểu sử "cho Tây phương” là không phù hợp.
Nhưng bản thân những sự việc đủ sức thuyết phục và chúng đã tập trung đủ những chỉ số để có một sự đánh giá.
Từ năm 1944 đến năm 1975, mọi người biết đến cuộc đời của ông Giáp không thể tách khỏi những trận chiến đấu những trận tấn công và những sáng kiến khác của ông. Trong nhiều công trình ông đã tham gia, hoặc với tư cách Đại tướng, hoặc với tư cách thành viên của Chính phủ. Ông Giáp đã giữ chức Tổng tư lệnh quân đội ròng rã ba mươi năm và đã tham dự vào những cuộc thảo luận chính trị ở cấp cao trong gần 50 năm: hai sự việc chưa bao giờ có trong lịch sử. Ngoài ra rất khó so sánh với các vị tướng khác, sự kết hợp giữa hoạt động du kích ở phạm vi lấy tác chiến thông thường cũng là việc chưa bao giờ có.
Ông Giáp đã tỏ rõ những đức tính xuất chúng trong tất cả mọi lĩnh vực lớn nhất của chiến tranh. Về chiến lược, ông đã có một tầm quan sát sâu sắc các sự kiện và đã khoanh vùng những vấn đề chủ yếu; ông đã làm lung lay đối phương bằng sử dụng sáng suốt những lực lượng từ nhiều điểm: ở Lào, ở Campuchia, trong vùng châu thổ sông Cửu Long, trên các cao nguyên Tây Nguyên, vùng đồng bằng ven biển, hai bên bờ vùng giới tuyến phi quân sự.
Về chiến thuật, ông Giáp là bậc thầy trong nghệ thuật chiến tranh du kích; về mặt này, ông là người chỉ huy vĩ đại nhất của mọi thời đại. Trong lĩnh vực chiến tranh thông thường, ông biết cách đổi mới: ví dụ ở Điện Biên Phủ ông đã sử dụng giao thông hào tiếp cận xói mòn những lực lượng phòng ngự, phá huỷ từ vị trí phòng ngự này đến vị trí phòng ngự khác trước khi vượt qua số còn lại. Hơn ai hết, ông đã làm cho chiến sĩ của ông hiểu được sự cần thiết và những nguyên tắc của một "timing” tốt, tác dụng của bất ngờ, ngụy trang và động tác giả; ví dụ các đơn vị của ông đã ẩn nấp kín đáo đến nỗi quân địch chỉ phát hiện được họ khi người đứng đầu bị loạt đạn ngay sát gần; so sánh với những hầm hố của quân Mỹ như Khe Sanh có thể chụp ảnh được qua vệ tinh.
Trong lĩnh vực hậu cần, ông thật xuất sắc suốt cuộc chiến tranh Đông Dương, không có một sự làm chủ hoàn hảo hơn về công tác hậu cần mà không thể thực hiện đượctrong chiến dịch Điện Biên Phủ. Cũng như vậy, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đường mòn Hồ Chí Minh đã cung cấp tiếp tế cho Quân đội nhân dân Việt Nam và quân giải phóng miền Nam ròng rã mấy năm trời.
Chỉ có ít người chỉ huy quân sự tỏ ra có tinh thần làm chủ được mọi yếu tố làm nên thắng lợi. Hơn nữa, ông Giáp biết phái đi điều gì cơ bản cho cấp này; mặt khác làm sao ông có thể đảm nhiệm lâu dài như vậy những trách nhiệm cao cấp? ông khuyến khích "những con người trên trận địa, những người biết rõ dịa điểm, tình trạng và thời gian thích hợp nhất để hành động, được quyền quyết định.
Khi tôi hỏi tướng Marcel Bigeard bình luận về năng lực quân sự của ông Giáp, tướng Bigeard trả lời rất khâm phục ông Giáp. "Ông đã học thuộc những bài học sai lầm và không lặp lại chúng" và "ông đã chỉ huy thắng lợi những đơn vị của ông trong thời gian dài đáng chú ý; trong vòng 30 năm đã lập nên một kỳ tích chưa từng có". Bất kỳ lúc nào "đối với Giáp, đời sống bản thân không đáng gì". Bigeard cũng rất tôn trọng những người Việt Nam. "Họ là những người dũng cảm, ngay thăng, thông minh, lao động" ông thành thật xúc cảm thêm: "người Việt Nam yêu chúng ta, và chúng ta, những người Pháp cũng yêu họ. một ngày nào đó, chúng ta sẽ cưới nhau...".
Về phần mình, tướng William C. Westmoreland cũng rất khâm phục người Việt Nam. Họ tin tưởng những người cùng làm việc ở miền Nam, nhưng "vấn đề lớn là những người nông dân ở xa thành phố không tôn trọng chính phủ trung ương chút nào: dưới con mắt họ, không có gì hơn là chế độ thuộc địa kéo dài, do đó chúng ta khó mà liên minh với họ trong cuộc chiến tranh này", hơn nữa "có rất nhiều dân tộc thiểu số; không phải là một xã hội đồng nhất."
Còn về phẩm chất của một người chỉ huy quân sự lỗi lạc: khả năng ra những quyết định, sức mạnh tinh thần, khả năng tập trung, không quên trí thông minh đã gắn bó tất cả các phẩm chất trên- Westmoreland tin tưởng ông Giáp "có tất cả các phẩm chất đó". Đó là một con người rất "quyết tâm, một vì tướng vĩ đại". Song ông "mắc lỗi vì lạc quan: mặc dù mọi nỗ lực suốt trong cuộc tấn công nhân dịp Tết, ông không thấy dấu hiệu nào của tổng khởi nghĩa mà ông đã tính toán".
Xung quanh vấn đề nhận xét con người Westmoreland nghĩ rằng ông Giáp "không có sự lựa chọn, những tài năng thường hiếm. Westmoreland nhận xét ông Giáp làm chủ được bản thân: "Mọi người chỉ huy quân sự ở cấp cao phải có phẩm chất ấy, nếu không không thể lâu dài được". Ông Giáp là người táo bạo quyết tâm, ông có "khả năng chi phối những người của ông vì những câu chuyện huyền thoại xung quanh ông và vầng sáng lạc quan của ông". Ông Giáp "tin vào sức thuyết phục của ông; ông tưởng rằng điều người ta muốn nói với ông vì họ nghĩ rằng điều đó ông muốn nghe". Chắc rằng ông cũng luôn luôn đối xử như thế với những cán bộ cao cấp, hoặc là linh hoặc là chính khách.
Trả lời một câu hỏi về cuộc đời chính trị kéo dài của ông Giáp, Westmoreland hăng hái cho rằng đối với một vị tướng, điều đó phụ thuộc dư luận công chúng: "Nếu không được sự nâng đỡ của dư luận, không vị tướng nào có thể tự đặt ra cho mình, dù cho uy lực của niềm tin bản thân đến thế nào". Và sở dĩ Hoa Kỳ không thắng được là vì "các mặt tiêu cực của cuộc chiến tranh đã là đối tượng cho công luận quá khích (vì các loại thông tin đại chúng), còn các mặt tích cực thực tế không được tỏ rõ". Hơn nữa nếu Hoa Kỳ đã sử dụng ngay từ năm 1968 một lực lượng máy bay B52 như năm 1972, thì Hà NộI đã phải ngồi lại bàn đàm phán từ ngày đó; chiến tranh sẽ không kéo dài và hàng nghìn sinh mạng của Mỹ và Việt Nam đã được cứu vớt". Song câu trả lời ấy cho rằng dư luận công chúng Mỹ ở thời kỳ ấy đã tha thứ cho một sáng kiến như vậy ư? Hoàn toàn không chắc chắn như thế. Năm 1968, đất nước bị chia rẽ hơn bao giờ hết kể từ cuộc chiến tranh ly khai; còn 1972, trái lại Tổng thống Nixon có thể dựa vào ý chí thất vọng của nhân dân Mỹ để tìm một giải pháp với bất kỳ giá nào, hoặc gần như thế.
Khi nói về chiến tranh sức mạnh của nhân cách ông xuất hiện thật rõ như trong trang bài có quan hệ đến Điện Biên Phủ.
Thường xuyên, công tác hậu cần đặt ra những vấn đề khó khăn không kém những khó khăn về tác chiến. Chính vì vấn đề cung cấp khó khăn như vậy, cho nên quân địch đã không bao giờ tưởng tượng được rằng chúng ta có thể khắc phục khó khăn ấy...
Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các Hội đồng cung cấp tiền phương, đã đem một tinh thần anh dũng và gian khổ rất cao ra phục vụ mặt trận. Từng đoàn xe hơi anh dũng đã vượt suối băng ngàn… Từng đoàn xe đạp thồ, hàng vạn chiếc, từ khắp các nơi tiến ra mặt trận, mang lương thực đạn dược để cung cấp cho quân đội giết giặc. Từng đoàn thuyền lớn nhỏ hàng nghìn chiếc, từng đoàn bè mảng, hàng vạn chiếc, vượt thác ghềnh mang lương thực đạn dược ra mặt trận...
Từng đoàn ngựa thồ từ trên vùng dân tộc Mèo, Mán xuống, từ các địa phương lại, lũ lượt tiến ra mặt trận... Hàng vạn anh chị em dân công, thanh niên xung phong, lấy sức người mà chuyển lương thực, đạn dược, ngày đêm trèo đèo lội suối mặc máy bay của địch, mặc bom nổ chậm...
Chưa bao gờ, người thanh niên ta đã đi đến nhiều nơi như vậy... Từ đồng bằng đến rừng núi, trên các đường lớn và các đường con, trên các dòng sông, các con suối, đâu đâu cũng nhộn nhịp hẳn lên...".
Rõ ràng, một sự ồn ào náo nhiệt được phản ánh trong bài này.
Từ buổi thiếu niên, ông Giáp đã nuôi chí cộng sản. Khốn khổ những quan niệm của ông rất ít thay đổi theo năm tháng-khốn nỗi vì với trí thông minh của mình, ông có thể trông thấy những tội lỗi của hệ thống chính trị và bảo đảm một cuộc đời tốt đẹp hơn cho những người yêu nước. Hình như lúc nào ông cũng tìm thấy kinh thánh treo trên cây ấy ở An Xá. Như một người cộng sản ở thời kỳ Trung đại sợ hãi những hậu quả ghê gớm của một biểu hiện tà giáo nho nhỏ, ông đã lệ thuộc đi theo con đường mác xít-lêninnít mà Cụ Hồ Chí Minh truyền lại. Trong những tác phẩm của ông, ngoài chủ nghĩa cộng sản, bản thân ông không có gì để nói nhưng ông không có thể tự giải phóng khỏi sự gò bó của Bộ Chính trị.
Thật thú vị nếu biết được ông Giáp nghĩ gì về sự sụp đổ của hệ thống cộng sản ở Đông âu, sự tan rã của hiệp ước Varsovie, sự chia thành từng mẩu của Liên Xô. Tóm lại sự tan rã của trật tự xã hội chủ nghĩa thế giới mà ông đặt hy vọng vào đó.
Quan điểm của cá nhân tôi thì ông là người khiêm tốn nhưng thiếu kiên nhẫn, thân mật nhưng dư uy nghiêm: sức nặng của lịch sử vẫn luôn luôn tồn tại. Có lẽông thiếu cái chân thành nhưng đó là nét đặc điểm Việt Nam: không bao giờ bộc lộ, luôn giữ lại cái gì đó dự bị. ông là người thay đổi tính khí đột ngột nhưng là người rất duyên dáng, và hóm hỉnh. Và ông dễ bị cuốn hút, khi đã lao vào một đề tài gì đó khó mà dừng lại.
Còn về “thích ăn diện" thì mỗi lần tôi gặp ông, ông đều mang một bộ quân phục ka ki cũ không huân chương hoặc huy hiệu trừ hai phù hiệu đỏ trên ve áo. Cổ và cánh tay áo đã sờn; mỗi lần ra đi người giúp việc giúp ông mặc cái áo bông cừu mà phần da đôi chỗ đen vì dùng nhiều.
Về những gì có liên quan đến sức khoẻ và những bệnh tật của ông, chỉ có dấu hiệu không bình thường mà tôi quan sát được là chứng máy mắt trái thỉnh thoảng.
Không có gì chứng tỏ ông ốm đau; ông còn đặc biệt nhanh nhẹn đối với một người ở lứa tuổi ông. Cho đến mùa hè 1991, ông đã hoàn thành một ngày dài làm việc với tư cách Chủ tịch hội đồng Khoa học kỹ thuật mà nhiệm vụ là thoát khỏi sự chậm chế trong Khoa học kỹ thuật của Việt Nam.
Tổng số bài gửi : 1056 Points : 1144 Thanks : 17 Join date : 05/11/2011
Tiêu đề: Re: Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương Wed Dec 26, 2012 7:31 am
Chương 26: Đoạn kết
Một số người đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ không còn nữa. Decastries mất năm 1991 ở tuổi 85 với bao kỷ niệm. Già nua, bệnh tật và mất trí, Langlais đã thực hiện một bước nhảy cuối cùng từ cửa sổ cao tầng năm 1988. (Khi biết tin, các chiến hữu của ông đã đến dự lễ tang đúng theo nghi lễ của ông). Tràn ngập vinh quang và uy tín, Bigeard sống dưới bóng nhà thờ Toul: ở tuổi 65, cặp mắt vẫn linh lợi, ông ta vẫn tiếp tục đi bộ hàng ngày 7 km và bơi 10 lần chiều dài bể bơi.
Hàng triệu và hàng triệu cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn sống mãi với ít mếu vinh quang. Nụ cười của Nixon vẫn còn đó. Westmoreland cũng vậy vốn là lính nhảy dù, thọ 77 tuổi, đôi mắt đầy nghị lực trước những lời chỉ trích nặng nề mà ông là đối tượng. ông ngồi yên như một người lính già. (Westmoreland được khen thưởng trên mức ông ta đáng được nhận ở Việt Nam: ông ta đã chơi khá hay nước cờ và ông chấp nhận thua trận).
Mac Namara cũng vậy vẫn còn mãi, yên lặng như một nấm mồ. Lyndon B.Johnson chết năm 1973 ở tuổi 65, bối rối và cô đơn: một người hết sức cố gắng để hành động đúng, nhưng ông đã nhầm.ông Giáp vẫn luôn luôn còn đó, tràn đầy nhiệt tình và nghị lực. Thắng lợi là một trường lực mạnh mẽ của tâm hồn. Về nhiều phương diện, ông đã đúng.
Bây giờ tôi chuẩn bị tạm biệt Hà Nội, người ta yết cầu tôi gửi một chai Uytki làm quà chia tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi thực hiện với một nỗi lo lắng khôn nguôi: vì điều đó đối với tôi, là một sự xúc phạm đối với ông, một trong những nhân vật vĩ đại của thế kỷ 20, chắc gì ông đã cần đến một người ngoại quốc vãng lai tặng một chai rượu.
Mặt tích cực là những con người mà tôi đã gặp đã làm việc với họ thì thật thân tình và cởi mở, lịch lãm và hợp tác. Khắp nơi người ta trông thấy hàng trăm trẻ em ăn mặc sạch sẽ, tươi cười trò chuyện ồn ào.
Nhưng đối với tôi, quyển sách này tràn đầy kịch tinh, những bộ xương của hàng triệu người của nhiều quốc gia khác nhau, nhưng phần lớn là Việt Nam, đang yên nghỉ trong những rừng rậm bị cày xới vì bom đạn ở Đông Dương. Tên tuổi của hàng chục nghìn người trong số học được khắc vào bia đá của nhiều vùng ở nước Pháp, ở đảo Coóc ở khu phố trung tâm của lính lê dương, được khắp lên trên một vòng cung dài bằng đá cẩm thạch đen, cái biển trưng của thất bại gồm tượng đài Lincoln ở Washington, và trong trái tim, khối óc của tất cả những ai đã phải chịu mất mát họ.