Mộc lan chi duệ sa đường châu, Ngọc tiêu kim quản toạ lưỡng đầu. Mỹ tửu tôn trung trí thiên hộc, Tái kỹ tuỳ ba nhiệm khứ lưu. Tiên nhân hữu đãi thừa hoàng hạc,[1] Hải khách vô tâm tuỳ bạch âu. Khuất Bình[2] từ phú huyền nhật nguyệt, Sở vương đài tạ không sơn khâu. Hứng hàm lạc bút dao ngũ nhạc,[3] Thi thành tiếu ngạo Lăng Thương châu. Công danh phú quý nhược trường tại, Hán thủy[4] diệc ưng tây bắc lưu.
Dịch nghĩa:
Khúc ngâm trên sông
Con thuyền bằng gổ sa đường, lái bằng gỗ mộc lan, Có tiêu ngọc sáo vàng ở hai đầu. Với ngàn hộc rượu ngon đặt bên trên, Thuyền chở kỹ nữ, theo sóng tự do trôi đi. Xưa kia có vị tiên chờ cưỡi hạc vàng bay đi, Lại có người khách biển vô tâm theo chim âu trắng, Còn lâu đài của vua Sở ngày nay chỉ còn là núi gò. Khi cảm hứng sau sưa, hạ ngọn bút làm rung chuyển năm ngọn núi lớn; Lúc thơ làm xong, tiếng cười cợt, ngạo nghễ vượt qua bãi xanh. Nếu như công danh, phú quí mà còn tồn tại lâu dài, Thì dòng sông Hán Thuỷ hẳn phải chạy lên phía Tây bắc.
Các bản dịch thơ:
Khúc ngâm trên sông
Chèo lan, thuyền gỗ sa đường, Hai đầu, sáo ngọc, tiêu vàng giúp vui. Ngàn bình rượu đã sẵn rồi, Chở theo kỹ nữ, mặc trôi con thuyền. Có người cỡi hạc lên tiên; Vô tâm, khách biển theo chim quên dời. Khuất Bình văn rực gương trời, Lâu đài vua Sở chôn vùi cổ khâu. Hứng say, bút chuyển núi cao; Thơ xong, cười cợt rạt rào bãi sông. Giàu sang còn mãi không cùng, Thì sông Hán hẳn ngược dòng mà trôi.
Bản dịch: Trần Trọng San
1. Hoàng hạc: tương truyền tiên nhân Tử An cưỡi hạc qua chơi ghềnh đá Hoàng Hộc ở huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc; về sau có lầu Hoàng hạc ở đây. 2. Khuất Bình: tức Khuất Nguyên, người nước Sở, thời chiến quốc, là tác giả bài phú Ly tao. 3. Ngũ nhạc: năm núi lớn: Thái Sơn, Hoa Sơn, Hành Sơn, Hằng Sơn và Tung Sơn. 4. Hán Thủy: tên sông, phát nguyên tại tỉnh Thiểm Tây, chảy vào sông Trường Giang ở tỉnh Hoài Bắc.
Há Chung Nam Sơn, quá Hộc Tư Sơn, nhân túc, trí tửu
Mộ tòng bích sơn há, Sơn nguyệt tùy nhân quy. Khước cố sở lai kính, Thương thương hoành thúy vi. Tương huề cập điền gia, Ðồng trĩ khai kinh phi. Lục trúc nhập u kính, Thanh la phất hành y. Hoan ngôn đắc sở khế, Mỹ tửu liêu cộng huy. Trường ca ngâm tùng phong, Khúc tận hà tinh hy. Ngã túy quân phục lạc, Ðào nhiên cộng vong ki.
Dịch nghĩa:
Xuống núi Chung Nam, ghé qua nhà Hộc Tư Sơn, nhân ngủ đêm, bày cuộc rượu
Chiều xuống theo màu núi biếc, Ánh trăng trên non ngàn theo người đi về. Ngoái nhìn lối nhỏ vừa đi qua, Thấy giăng ngang một màu xanh xanh. Cầm tay nhau đến nhà trong xóm ruộng. Con trẻ mở chiếc cổng gỗ, Trúc xanh dẫn vào lối đi thâm u. Dây leo phơ phất chạm áo người đi. Vui mừng nói được chỗ nghĩ ngơi. Rượu ngon, chén khoan chén nhặt. Tiếng ca dài hoà tiếng gió thông. Hết khúc hát, ngân hà, tinh tú đã thưa thớt rời rạc. Tôi say, anh được vui vẻ. Hớn hở như nhiên quên hết chuyện đời.
Các bản dịch thơ:
Xuống núi Chung Nam, ghé qua nhà Hộc Tư Sơn, nhân ngủ đêm, bày cuộc rượu
Non xanh chiều tối xuống mau Theo người trăng núi trước sau cùng về. Ngoảnh đầu trông lại đường đi Chắn ngang một bức xanh rì xa xa Cùng nhau về đến điền gia, Tiểu đồng mở cửa bước ra đứng chờ. Đường vào bóng trúc dập mờ Cỏ xanh lướt áo cạnh bờ lôi thôi Vui mừng được chỗ nghỉ ngơi Rượu ngon lại dọn cùng mời uống say. Ngâm nga Tùng gió điệu hay Hát xong một khúc sao mây thưa rồi Ta say anh lại cùng vui, Đấy đây vui sướng việc đời bỏ quên.
Bản dịch: Trần Trọng Kim
Chiều hôm xuống núi biếc Trăng núi theo chân người Ngoảnh đầu trông lối cũ Hơi núi xanh chơi vơi Dắt nhau đến trang trại Trẻ nhỏ mở then mây Tre xanh vào ngõ thắm Dây leo chạm áo ai Vui được nơi nghỉ lại Rượu ngon cùng nhau say Hát vang khúc "Gió thông" Hát xong sao mờ phai Tôi say bạn cũng vui Hớn hở cùng quên đời
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian, Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn. Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú, Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.
Dịch nghĩa:
Tới Giang Lăng (Sáng rời thành Bạch Đế)
Buổi sáng từ biệt thành Bạch Đế, ở trong làn mây rực rỡ, Đi suốt một ngày, vượt qua ngàn dặm về tới Giang Lăng. Hai bên bờ sông tiếng vượn kêu mãi không thôi, Thuyền nhẹ đâu ngờ đã vượt qua muôn trùng núi non.
Các bản dịch thơ:
Tới Giang Lăng (Sáng rời thành Bạch Đế)
Sáng rời Bạch đế rực ngàn mây Nghìn dặm Giang Lăng, tới một ngày Vượn hót bên sông nghe rỉ rả, Thuyền qua muôn núi vượt như bay.
Kim tôn thanh tửu đẩu thập thiên, Ngọc bàn trân tu trị vạn tiền. Đình bôi đầu trợ bất năng thực, Bạt kiếm tứ cố tâm mang nhiên. Dục độ Hoàng Hà băng tắc xuyên, Tương đăng Thái Hàng tuyết ám thiên. Nhàn lai thuỳ điếu toạ khê thượng, Hốt phục thừa chu mộng nhật biên. Hành lộ nan! Hành lộ nan! Đa kỳ lộ? Kim an tại? Trường phong phá lãng hôi hữu thì, Trực quải vân phàm tế thương hải.
Dịch nghĩa:
Đường đi khó - kỳ 1
Chén quý, rượu ngon mười ngàn một đấu, Mâm ngọc, món ngon giá vạn tiền, Bỏ chén, quăng đũa không ăn nổi Rút kiếm nhìn quanh lòng ngơ ngác! Muốn vượt sông Hoàng Hà nhưng băng làm tắc sông. Định lên đỉnh Thái Hàng nhưng bị tuyết che tối trời, Lúc an nhàn ngồi câu cá trên khe suối Bổng lại ngồi thuyền mơ về phía mặt trời, Đường đi khó! Đường đi khó! Nhiều ngả ba biết đi phía nào? Gió mạnh rồi có lúc đè ngọn sóng lớn, Giương buồm mây thẳng tiến vượt vào biển xanh.
Các bản dịch thơ:
Đường đi khó - kỳ 1
Chén rượu quý mười ngàn một đấu Món ngon mâm ngọc giá muôn tiền Chén quăng đủa liệng không ăn nổi Rút kiếm bốn phương vẫn tự nhiên. Muốn vượt Hoàng Hà sông đóng giá Định lên đỉnh Thái tuyết triền miên An nhàn câu cá ngồi bên suối Mộng tưởng trời mây lướt chiếc thuyền. Đường đi khó! Đường đi khó! Nhiều ngỏ lạ! Sao an đây? Đúng lúc gió vù đè sóng dữ Biển xanh thẳng tiến cánh buồm mây.
Bản dịch: Nguyễn phước Hậu
Cốc vàng, rượu trong, vạn một đấu, Mâm ngọc, thức quý, giá mười ngàn. Dừng chén, ném đũa, nuốt không được, Rút kiếm nhìn quanh lòng mênh mang. Muốn vượt Hoàng Hà sông băng đóng, Toan lên Thái Hàng núi tuyết phơi. Lúc rỗi buông câu bờ khe biếc, Bỗng mơ thuyền lướt cạnh mặt trời. Đưòng đi khó! Đường đi khó! Nay ở đâu? Đường bao ngả? Cưỡi gió, phá sóng hẳn có ngày, Treo thẳng buồm mây vượt biển cả!
Đại đạo như thanh thiên Ngã do bất đắc xuất Tu trục Trường An xã trung nhi Xích kê bạch cẩu đổ lê lật Đàn kiếm tác ca tấu khổ thanh Duệ cứ vương môn bất xứng tình Hoài Âm thị tỉnh tiếu Hàn Tín[1] Hán triều công khanh kỵ Giả Sinh[2] Quân bất kiến: Tích thì Yên gia trọng Quách Ngỗi[3] Ủng trệ chiết tiết vô hiềm sai Kịch Tân[4] , Nhạc Nghị[5] cảm ân phân Thâu can phẫu đảm hiệu anh tài Chiêu Vương[6] bạch cốt oanh man thảo Thuỳ nhân cánh tảo Hoàng Kim đài?[7] Hành lộ nan! Quy khứ lai...
Dịch nghĩa:
Đường đi khó - kỳ 2
Bổ sung sau!
Các bản dịch thơ:
Đường đi khó - kỳ 2
Đường rộng như trời xanh Ta không ra đấy thật Thẹn với Trường An bọn trẻ trung Gà son chó trắng chèn lê lật Múa gươm đàn hát xót cho mình Vén áo sân vua chẳng hợp tình Hoài Âm, kẻ chợ cười Hàn Tín Triều Hán quan cao ghét Giả Sinh Anh chẳng thấy: Thuở trước vua Yên trọng Quách Ngỗi Khom mình nâng chổi, chẳng chê bai Kịch Tân, Nhạc Nghị nhờ ơn chúa Trung can một dạ dốc anh tài Xương trắng Chiêu Vương trong cỏ rối Nào ai lại quét Hoàng Kim đài ? Đường đi khó! Hãy về thôi!
Bản dịch: Lê Nguyễn Lưu Nguồn: http://www.thivien.net 1. Hàn Tín người ở Hoài Âm là đại nguyên soái của Hán tổ Lưu Bang. 2. Giả Sinh người đời Hán, nhiều tài năng sau làm quan đến chức đại phu. 3 & 4 & 5. Ba người này ở thời Chiến quốc cùng thờ Yên Chiêu Vương. 6. Tức Yên Chiêu Vương. 7. Hoàng Kim đài là do Yên Chiêu Vương cho xây dựng. Sau khi xây xong để ngàn vàng trên đài để đãi thiên hạ, anh hùng, đài hiện nay ở đông nam Bắc Bình.
Hữu nhĩ mạc tẩy Dĩnh Xuyên thuỷ Hữu khẩu mạc thực Thú Dương quyết! Hàm quang hỗn thế quý vô danh Hà dụng cô cao tỷ vân nguyệt! Ngô quan tự cổ hiền đạt nhân Công thành bất thoái giai vẫn thân Tử Tư ký khí Ngô giang thượng Khuất Nguyên chung đầu Tương thuỷ tân Lục Cơ hùng tài khởi tự bảo Lý Tư thuế giá khổ bất tảo Hoa Đình hạc lệ cự khả văn Thượng Thái thương ưng hà túc đạo? Quân bất kiến: Ngô Trung Trương Hàn xung đạt sinh Thu phong hốt ức Giang Đông hành Thả lạc sinh tiền nhất bôi tửu Hà tu thân hậu thiên tải danh ?
Dịch nghĩa:
Đường đi khó - kỳ 3
Bổ sung sau!
Các bản dịch thơ:
Đường đi khó - kỳ 3
Có tai đừng rửa nước sông Dĩnh Có miệng đừng ăn rau núi Thú Lẫn đời giấu sáng quý vô danh Thanh cao sao sánh trăng mây đủ ? Từ xưa ta thấy bậc hiền minh Công thành chẳng thoái phải hy sinh Ngô Giang Ngũ Tử đành tan xác Tương Thuỷ Khuất Nguyên cũng bỏ mình Lục Cơ tài lớn thân mang hại Lý Tư muộn nghỉ đời ngang trái Đâu còn nghe tiếng hạc Hoa Đình Thôi hết bàn loài ưng Thượng Thái Anh chẳng thấy: Trương Hàn thông đạt ở Ngô Trung Gió thu chợt nhớ về Giang Đông Hiện tại nên vui nâng chén rượu Nghìn năm chi để cái danh không!
Triệu khách mạn hồ anh Ngô câu sương tuyết minh Ngân an chiếu bạch mã Táp đạp như lưu tinh Thập bộ sát nhất nhân Thiên lý bất lưu hành Sự liễu phất y khứ Thâm tàng thân dữ danh Nhàn quá Tín lăng ẩm Thoát kiếm tất tiền hoành Tương chích đạm Chu Hợi Trì thương khuyến Hầu Doanh Tam bôi thổ nhiên nặc Ngũ nhạc đảo vi khinh Nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu Ý khí tố nghê sinh Cứu Triệu huy kim chuỳ Hàm Đan tiên chấn kinh Thiên thu nhị tráng sĩ Huyên hách Đại Lương thành Túng tử hiệp cốt hương Bất tàm thế thượng anh Thuỳ năng thư các hạ Bạch thủ Thái huyền kinh
Dịch nghĩa:
Bài hát về người hiệp khách
Bổ sung sau!
Các bản dịch thơ:
Bài hát về người hiệp khách
Khách nước Triệu phất phơ giải mũ Gươm Ngô câu rực rỡ tuyết sương Long lanh yên bạc trên đường Chập chờn như thể muôn ngàn sao bay Trong mười bước giết người bén nhạy Nghìn dặm xa vùng vẫy mà chi Việc xong rũ áo ra đi Xoá nhòa thân thế, kể gì tiếng tăm Rảnh rang tới Tín Lăng uống rượu Tuốt gươm ra, kề gối mà say Chả kia với chén rượu này, Đưa cho Châu Hợi, chuốc mời Hầu Doanh. Ba chén cạn, thân mình xá kể! Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng Bừng tai, hoa mắt chập chùng, Mống tuôn hào khí mịt mùng trời mây Chùy cứu Triệu vung tay khảng khái, Thành Hàm Đan run rẩy, kinh hoàng Nghìn thu tráng sĩ hai chàng Tiếng tăm hiển hách, rỡ ràng Đại Lương. Thân dù thác, thơm xương nghĩa hiệp; Thẹn chi ai hào kiệt trên đời. Hiệu thư dưới gác nào ai? Thái huyền, trắng xoá đầu người chép kinh.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Fri Dec 16, 2011 3:58 pm
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Nguyên tác chữ Hán:
黄鹤楼送孟浩然之广陵
故人西辞黄鹤楼, 烟花三月下扬州。 孤帆远影碧空尽, 惟见长江天际流。
Phiên âm:
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu. Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Dịch nghĩa:
Lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
Bạn cũ ra đi từ phía Tây lầu Hoàng Hạc Giữa mùa hoa khói tháng ba xuống Dương Châu Xa xa, bóng hình cánh buồm đơn độc lẫn vào mây biếc đã khuất Từ trên lầu chỉ còn thấy sông Trường Giang bên trời xuôi mãi đâu
Các bản dịch thơ:
Lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng. Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.
Bản dịch: Ngô Tất Tố
Phía tây bạn biệt Hạc lâu, Tháng ba trẩy xuống Dương châu thuận dòng. Cánh buồm bóng hút màu không, Trông xa trắng xóa nước sông bên trời.
Bản dịch: Trần Trọng Kim
Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc Lâu, Giữa mùa hoa khói xuống Dương Châu. Buồm ai mất hút trong mây biếc, Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy mau.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Fri Dec 16, 2011 4:38 pm
Hoành giang từ - kỳ 2
Nguyên tác chữ Hán:
橫江詞其二
海朝南去過尋陽, 牛渚由來險馬當。 橫江欲渡風波惡, 一水牽愁萬里長。
Phiên âm:
Hoành giang từ - kỳ 2
Hải triều nam khứ quá Tầm Dương,[1] Ngưu Chử[2] do lai hiểm Mã Đương.[3] Hoành giang dục độ phong ba ác, Nhất thuỷ khiên sầu vạn lý trường.
Dịch nghĩa:
Khúc hát sông Hoành - kỳ 2
Luồng nước biển đi về phía Nam vượt quá bến Tầm Dương Núi Ngưu Chữ hiểm trở hơn núi Mã Đương Muốn vượt sông Hoành lại gặp sóng lớn Chỉ một con sông đã kéo nỗi sầu dài vạn lý
Các bản dịch thơ:
Khúc hát sông Hoành - kỳ 2
Bổ sung sau!
1. Bến Tầm Dương thuộc huyện Cửu Dương tỉnh Giang Tây. 2. tên núi thuộc tỉnh An Trưng 3. tên núi thuộc tỉnh Giang Tây.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Sat Dec 17, 2011 9:56 am
Hoành giang từ - kỳ 5
Nguyên tác chữ Hán:
橫江詞其五
橫江館前津吏迎。 向余東指海雲生。 郎今欲渡緣何事。 如此風波不可行。
Phiên âm:
Hoành giang từ - kỳ 5
Hoành Giang quán tiền tân lại nghinh Hướng dư đông hải chỉ vân sinh Lang kim dục độ duyên hà sự Như thử phong ba bất khả hành
Dịch nghĩa:
Khúc hát sông Hoành - kỳ 5
Trước quán Hoành Giang,lính gác đến đón tiếp Nhìn ta,trỏ về đông nơi mây biển đùn lên Nay ông muốn qua sông để làm gì thế ? Sóng gió như thế này thì không thể đi được!
Các bản dịch thơ:
Khúc hát sông Hoành - kỳ 5
Lính coi bến Hoành Giang ra đón, Trỏ mây lên bộn-nhộn bể đông. Việc gì ông muốn sang sông, Đường kia sóng gió chớ hòng đi qua.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Sat Dec 17, 2011 10:09 am
Kết Miệt Tử
Nguyên tác chữ Hán:
結襪子
燕南壯士吳門豪, 築中置鉛魚隱刀。 感君恩重許君命, 太山一擲輕鴻毛。
Phiên âm:
Kết Miệt Tử
Yên Nam tráng sĩ Ngô môn hào, Trúc trung trí duyên ngư ẩn đao. Cảm quân ân trọng hứa quân mệnh, Thái sơn nhất trịch khinh hồng mao.[1]
Dịch nghĩa:
Gã đan vớ
Tráng sĩ miền nam nước Yên và hào kiệt đất Ngô Môn Dấu dao cùn trong đàn trúc, dấu đao trong bụng cá Cảm ơn vua nên đem tính mạng đền ơn Gieo núi Thái Sơn nhẹ như lông chim hồng.
Các bản dịch thơ:
Gã đan vớ
Yên Nam tráng sĩ, đất anh hào, Chứa độc trong tre, cá giấu dao. Hứa hẹn lo tròn, ơn chúa nặng, Thái Sơn coi nhẹ tựa hồng mao.
Bản dịch: Ngô Văn Phú
1. Tích cũ tráng sĩ ở Yên Nam giấu dao trong bụng cá, dâng vua rồi đâm chết vì cảm ơn người đã biết dùng mình.
Lan Lăng mỹ tửu uất kim hương, Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang. Đãn sử chủ nhân năng tuý khách, Bất tri hà xứ thị tha hương.
Dịch nghĩa:
Thơ làm nơi đất khách
Rượu ngon đất Lan Lăng thơm mùi hoa uất kim, Đựng trong chén ngọc sáng màu hổ phách. Nếu như chủ nhân biết làm cho khách say, Thì còn biết nơi nào là tha hương.
Các bản dịch thơ:
Thơ làm nơi đất khách
Trong quán Lan Lăng rượu ngát hương Đựng đầy chén ngọc rực hào quang Chủ nhân ví biết mời say khách Non nước đâu là chẳng cố hương.
Khẩu hiệu tặng trưng quân Lư Hồng công thì bị triệu
Đào lệnh từ Bành Trạch, Lương Hồng nhập Cối Kê. Ngã tầm cao sĩ truyện, Quân dữ cổ nhân tề. Vân ngoạ lưu đan hác, Thiên thư giáng tử nê. Bất tri Dương Bá khởi, Tảo vãn hướng Quan tây.
Dịch nghĩa:
Đọc tặng ông trưng quân Lư Hồng khi bị vua vời
Bổ sung sau
Các bản dịch thơ:
Đọc tặng ông trưng quân Lư Hồng khi bị vua vời
Giã từ Bành Trạch, Đào Tiềm, Lương Hồng thôi đã băng miền Cối Kê. Ta tìm cao sĩ tỉ tê, Xem ra bác cũng sánh kề cổ nhân. Ngoài mây, núi vẫn giàn hàng, Sách trời giăng giữa bãi non chữ bày. Dậy chưa, Dương Bá có hay? Quan Tây sớm muộn hãy quay trở về.
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Sat Dec 17, 2011 10:41 am
Khốc Triều Khanh Hành
Nguyên tác chữ Hán:
哭晁卿衡
日本晁卿辭帝都, 征帆一片繞蓬壺。 明月不歸沉碧海, 白雲愁色滿蒼梧
Phiên âm:
Khốc Triều Khanh Hành[1]
Nhật Bản Triều Khanh từ đế đô Chinh phàm nhất phiến nhiễu Bồng Hồ[2] Minh nguyệt bất quy trầm bích hải Bạch vân sầu sắc mãn Thương Ngô.[3]
Dịch nghĩa:
Khóc Triều Khanh Hành
Ông Triều Khanh, người Nhật, từ giã đế đô (Trường An về Nhật thăm nhà). Cánh buồm đi xa cứ quanh quẩn mãi ở đảo Bồng Hồ. Trăng sáng không theo ông về biển xanh sâu. Mây trắng (như màu tang) buồn vương khắp núi Thương Ngô.
Các bản dịch thơ:
Khóc Triều Khanh Hành
Bổ sung sau!
1. Triều Khanh Hành: họ Triều Khanh, tên Hành, người Nhật, nguyên tên là A bồi trọng ma lã. Năm 717 được 20 tuồi, sang Tàu học đại học mới cải danh như trên cho dễ xưng hô. Học xong, ông ở lại làm quan dưới triều vua Đường Huyền tông với chức Tư kinh cục hiệu thư Năm 753, nhân có sứ thần Nhật đi sứ sang Tàu, ông xin theo về nước thăm nhà, vua chuẩn y. Chẳng may thuyền gặp bão, ông mạng vong. 2. Bồng Hồ, hay Bồng Lai, là những tên gọi cho những đảo không có thật trên biển đông, tương truyền có thần tiên ở. 3. Thương Ngô, tên núi, di chỉ nay ờ phía đông nam huyện Ninh Viễn, tỉnh Hồ Nam, nơi tác giả LB được tin ông mất đã làm bài thơ truy điệu này. (đây cũng là nơi vua Thuấn thời thượng cổ chết khi đi tuần thú phương nam)
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Re: Lý Bạch Sat Dec 17, 2011 10:51 am
Khốc Tuyên Thành Thiện Nhưỡng Kỷ Tẩu
Nguyên tác chữ Hán:
哭宣城善釀紀叟
紀叟黃泉裏 還應釀老春 夜臺無李白 沽酒與何人
Phiên âm:
Khốc Tuyên Thành Thiện Nhưỡng Kỷ Tẩu[1]
Kỷ tẩu hoàng tuyền lý Hoàn ưng nhưỡng Lão Xuân[2] Dạ đài[3] vô Lý Bạch Cố tửu dữ hà nhân?
Dịch nghĩa:
Khóc Ông Lão Kỷ Cất Rượu Ngon Ở Tuyên Thành
Ông lão Kỷ đã xuống suối vàng, (chắc) vẫn còn cất rượu Lão Xuân. Ở dưới âm ti không có Lý Bạch, Vậy lão bán rượu cho ai?
Các bản dịch thơ:
Khóc Ông Lão Kỷ Cất Rượu Ngon Ở Tuyên Thành
Bổ sung sau!
1.Tuyên Thành, cố chỉ nay là huyện Tuyên Châu, tỉnh An Huy. 2. Lão Xuân, tên rượu. Thời xưa, tên rượu thường có chữ “xuân”. 3. Dạ đài, chốn âm ti, địa ngục.
Lưu thuỷ khứ tuyệt quốc, Phù vân từ cố quan. Thuỷ hoặc luyến tiền phố, Vân do quy cựu san. Hận quân Lưu Sa khứ Khí thiếp Ngư Dương gian. Ngọc trợ dạ thuỳ lưu, Song song lạc châu nhan. Hoàng điểu toạ tương bi. Lục dương thuỳ cánh phan? Chức cẩm tâm thảo thảo, Khiêu đăng lệ ban ban. Khuy kính bất tự thức, Huống nãi cuồng phu hoàn.
Dịch nghĩa:
Tình nơi khuê phòng
Dòng nước chảy tận miền xa khuất, Đám phù vân rời cửa ải xưa. Nước còn lưu luyến bến bờ xưa cũ, Mây còn trở lại chốn núi xưa. Giận chàng đi đến Lưu Sa, Bỏ lại thiếp một mình ở Ngư Dương Đũa ngọc đêm đêm tuôn chảy Đôi dòng lệ tràn trên vẻ mặt trẻ trung. Ngồi buồn thương cùng chim hoàng oanh, Cây dương liễu xanh kia còn ai vin nhánh? Dệt bức gấm mà lòng sao rối bời, Khêu ngọn đèn mà lệ đẩm chứa chan! Soi gương không còn nhận ra mình nữa, Huống chi lúc chàng trở về.
Các bản dịch thơ:
Tình nơi khuê phòng
Nước trôi hút tận biên thùy Mây bay từ tạ chuỗi ngày ải xưa Nước còn lưu luyến bến bờ Mây rồi có lúc lững lơ núi nhà Hận chàng đến bãi Lưu Sa Nở lòng bỏ thiếp lạc bờ Ngư Dương Đêm đêm mộng nhớ thương chàng Châu sa đũa ngọc, má hồng phôi phai Cùng hoàng oanh, nổi u hoài Nay ai vin cánh liễu ngời biếc xanh? Dệt hoa gấm, xót khuê tình Đèn khuya hiu hắt lung linh giọt sầu Khuê phòng đối ảnh mà đau Chàng về có lẻ nhìn nhau giụa giàn.....
Khách tự Trường An lai, Hoàn quy Trường An khứ. Cuồng phong xuy ngã tâm, Tây quải Hàm Dương thụ. Thử tình bất khả đạo, Thử biệt hà thời ngộ. Vọng vọng bất kiến quân, Liên sơn khởi yên vụ.
Dịch nghĩa:
Ở Kim Hương tiễn Vi Bát đi Tây Kinh
Bổ sung sau!
Các bản dịch thơ:
Ở Kim Hương tiễn Vi Bát đi Tây Kinh
Khách từ Trường An đến, Trở về Trường An ngay. Lòng ta dường gió bão, Hàm Dương bóng cây dày. Biệt nầy tình khó nói, Bao giờ gặp lại nhau? Ngóng trông chẳng thấy bạn, Ngàn non khói sương bay.
Lục đại[2] hưng vong quốc, Tam bôi vị nhĩ ca. Uyển phương Tần địa thiểu, Sơn tự Lạc Dương đa. Cổ điện Ngô hoa thảo, Thâm cung Tấn ỷ la. Tinh tuỳ nhân sự diệt, Đông thệ dữ thương ba.
Dịch nghĩa:
Thành Kim Lăng
Sáu triều đại khởi lên và mất đi tại đây Mời ông ba chén rượu và hát cho ông nghe So với đất Tần ít vườn hơn Nhưng nhiều núi như miền Lạc Dương Cung điện cổ đời Ngô có hoa và cỏ Trong cung cũ đời Tấn phơi lụa là Tất cả truyện xưa đã hết Chuyến đi chơi phương đông chỉ còn nhìn sóng xanh.
Các bản dịch thơ:
Thành kim Lăng
Thời Lục Đại còn mất, Ca vang, ba chén đầy. Đất Tần vườn thơm ít, Lạc Dương nhiều núi thay. Hoa cỏ đền Ngô cũ, Cung Tần lụa là đầy. Theo người rồi mất cả, Hãy đến miền sóng lay.
Bản dịch: Ngô Văn Phú
1. (Kim Lăng có 3 bài, bài này là bài thứ 3). Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay. 2.Lục đại: sáu triều đại đã đóng đô ở Kim Lăng gồm Đông Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương và Trần.
Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương, Ngô cơ áp tửu hoán khách thường. Kim Lăng tử đệ lai tương tống, Dục hành bất hành, các tận thương Thỉnh quân thí vấn đông lưu thuỷ, Biệt ý dữ chi thùy đoản trường ?
Dịch nghĩa:
Thơ lưu lại để từ biệt ở quán rượu Kim Lăng
Gió thổi hoa liễu làm hương thơm đầy quán, (Chủ quán) gọi các cô gái xinh đẹp ngồi bên rót rượu mời khách. Con em ở Kim Lăng đến đưa tiễn, Khi đã cạn chén, vừa muốn đi vừa muốn ở lại. Xin nhờ ai hỏi thử: dòng nước đang chảy về đông, So với tình ý ly biệt kia cái nào dài hơn?
Các bản dịch thơ:
Thơ lưu lại để từ biệt ở quán rượu Kim Lăng
Quán ngạt ngào hương gió liễu bay, Cô hàng rượu đẹp ép người saỵ Kim Lăng bạn trẻ ra đưa tiễn, Kẻ ở người đi cạn chén đầỵ Nhờ ai hỏi nước Trường Giang thử, Nước ấy tình kia ai vắn dài?
Tử Phòng vị hổ khiếu, Phá sản bất vi gia. Thương Hải đắc tráng sĩ, Truỳ Tần Bác Lãng Sa. Báo Hàn tuy bất thành, Thiên địa giai chấn động. Tiềm nặc du Hạ Bì, Khởi viết phi trí dũng. Ngã lai Dĩ kiều thượng, Hoài cổ khâm anh phong. Duy kiến bích lưu thuỷ, Tằng vô Hoàng Thạch công.[2] Thán tức thử nhân khứ, Tiêu điều Từ, Tứ không.
Dịch nghĩa:
Qua cầu Dĩ đất Hạ Bi nhớ Trương Tử Phòng
Chàng Tử Phòng hồi chưa gặp thời (hổ chưa gầm thét), Tiêu hết của cải không nghĩa gì đến cửa nhà. Nơi biển xanh gặp được người tráng sĩ. Vác chuỳ đánh Tần Thuỷ Hoàng ở Bác Lãng sa. Việc báo thù cho nước Hàn tuy không thành. Nhưng cả trời đất đều rung động. Trốn lẩn ở đất Hạ Bì. Ai bảo là không có trí dũng. Nay ta đi qua cầu Dĩ, Nhớ chuyện cũ, kính phục phong cách kẻ anh hùng. Chỉ thấy dòng nước biếc chảy xuôi, Chưa từng thấy ông già Hoàng Thạch. Than tiếc người xưa đã mất đi, Để cảnh châu Từ, châu Tứ tiêu điều vắng không.
Các bản dịch thơ:
Qua cầu Dĩ đất Hạ Bi nhớ Trương Tử Phòng
Thầy Lương hổ chửa ra oai. Phá tan của cải gia tài sạch không. Biển xanh được kẻ anh hùng, Vua Tần, đánh một dùi đồng thử coi. Cánh đồng Bác Lãng công toi, Thù Hàn chưa trả đất trời cũng kinh. Hạ Bi trốn lánh nương mình, Khôn ngoan mạnh bạo tài tình lắm thay! Ta nay cầu Dĩ chơi đây Nhớ ai thiên cổ lòng đầy kính yêu, Trong veo nước biếc xuôi chiều, Mà ông Hoàng Thạch đâu nào có đâu. Than rằng ai đó đi đâu, Vắng tanh Từ, Tứ để sầu nước non.
Bản dịch: Tản Đà
1. Cầu Dĩ thuộc Giang Tô ngày nay. Trương Tử Phòng tức Trương Lương, người nước Hàn, thuê tráng sĩ phục ở cầu Dĩ mưu giết Tần Thuỷ Hoàng nhưng không thành. Sau Trương Lương đến giúp Lưu Bang diệt Tần lập ra nhà Hán. 2. Hoàng Thạch công: Thầy của Trương Lương, gặp ở cầu Dĩ, trao binh thư cho để giúp Lưu Bang, sau khi giả cách rơi giày bắt Trương Lương ba lần xuống nhặt.
Ngô địa tang diệp lục, Ngô tàm dĩ tam miên. Ngã gia ký Đông Lỗ, Thuỳ chủng Quy Âm điền? Xuân sự dĩ bất cập, Giang hành phục mang nhiên. Nam phong xuy quy tâm, Phi đoạ tửu lâu tiền. Lâu đông nhất chu đào, Chi diệp phất thanh yên. Thử thụ ngã sở chủng, Biệt lai hướng tam niên. Đào kim dữ lâu tề, Ngã hành thượng vị toàn. Kiều nữ tự Bình Dương, Chiết hoa ỷ đào biên. Chiết hoa bất kiến ngã, Lệ há như lưu tuyền. Tiểu nhi danh Bá Cầm, Dữ tỷ diệc tề kiên. Song hành đào thụ hạ, Phủ bối phục thuỳ liên? Niệm thử thất thứ đệ, Can trường nhật ưu tiên. Liệt tố tả viễn ý, Nhân chi Vấn Dương Xuyên.
Dịch nghĩa:
Gửi hai con ở Đông Lỗ
Đất Ngô lá dâu đang xanh, Đất Ngô tằm đã nằm ăn ba. Nhà ta gửi ở đất Đông Lỗ, Ai là người trồng ruộng Quy Âm? Công việc mùa xuân đã không kịp, Hành trình trên sông lại dằng dặc. Gió nam gợi lòng muốn quay về, Thổi xuống trước cửa quán rượu. Lầu phía đông có cây đào quý, Lá cành bay trước khói xanh. Cây ấy do ta trồng, Xa cách ta đã ba năm. Cây đào đó đang ngóng bên lầu, Hành trình của ta còn chưa hết. Con gái đẹp tên là Bình Dương, Bẻ hoa đứng tựa bên đào. Bẻ hoa chẳng nhìn thấy ta, Nước mắt đổ như suối chảy. Cô em nhỏ tên là Bá Cầm, Kề vai đứng cùng chị. Cả hai đi dưới đào, Quay lưng lại đang nhớ ai? Nỗi nhớ ấy đã mất đi mấy lần? Gan ruột càng lo lắng bời bời. Xé lụa viết những ý xa, Nhân nghĩ đến sông Vấn Dương.
Các bản dịch thơ:
Gửi hai con ở Đông Lỗ
Đất Ngô mùa lá dâu xanh, Tằm Ngô giờ đã đang nằm ăn ba. Miền Đông Lỗ có nhà ta, Ruộng Qui Âm vỗ kịp mùa có ai? Mùa xuân ngày chẳng còn dài, Hành trình sông nước biết ngày nào xong. Quay về, gợi mở gió đông, Gió lùa quán rượu, chập chùng cơn say. Lầu đông, đào quý một cây, Khói xanh vờn dải lá bay giữa vườn. Cây đào ấy vốn ta trồng, Ba năm xa cách mà không trở về. Bên lầu đang ngóng, đào kia, Mà ta rong ruổi vẫn mê mải hoài... Nàng Bình Dương ấy đẹp thay, Bẻ hoa, thơ thẩn, gốc cây tựa vào. Bẻ hoa đâu thấy ta nào, Lệ hoa thôi đã ào ào suối tuôn. Bá Cầm, em gái bồn chồn Kề vai bên chị, thả hồn đi đâu? Hai chị em dưới hoa đào Nhớ ai tha thẩn ra vào vườn xuân? Nhớ ai, ai nhớ bao lần, Ruột gan the thắt, bước chân thẫn thờ. Xé lụa, ý gửi về xa Vấn Dương sông trắng hẳn là nhớ nhung.
Uyển khê[2] sương dạ thính viên sầu, Khứ quốc trường vi bất hệ chu. Độc liên nhất nhạn phi nam hải, Khước tiển song khê giải bắc lưu. Cao nhân lũ giải Trần Phồn tháp,[3] Quá khách nan đăng Tạ Diễu lâu.[4] Thử xứ biệt ly đồng lạc diệp, Minh triêu phân tán Kính Đình[5] thu.
Dịch nghĩa:
Gửi thị ngự Thô
Suối Uyển đêm sương nghe vượn kêu mà lòng buồn bã Đã lâu năm xa nước cũ không neo được chiếc thuyền (nỗi lòng nhớ xưa khi còn theo vua) Tự mình thương cảm như con chim nhạn bay về biển nam Nhưng lại muốn theo dòng suối ngược lên mạn bắc (kinh đô Trường An) Người tài nhiều lần đem giường Trần Phồn xuống (vì được tri kỷ đến thăm luôn) Khách vãng lai khó trèo lên lầu Tạ Diễu (dành riêng cho người thân) Ở xứ này xa nhau như lá cây rụng Sáng mai sẽ tản lạc theo mùa thu núi Kính Đình.
Các bản dịch thơ:
Gửi thị ngự Thô
Bổ sung sau!
1.Thị ngự: người theo hầu và bảo vệ vua. 2. Suối nằm phía đông phủ thành Ninh Quốc, An Huy. 3. Trần Phồn tháp: Giường Trần Phồn. Xưa Trần Phồn có bạn tri kỷ đến thăm, Trần Phồn dành riêng một cái giường để bạn nằm. Khi bạn đi rồi, Trần Phồn treo giường lên vách chờ bạn trở lại mới đem giường xuống. 4.Tạ Diễu lâu: Lầu của Tạ Diễu xây khi ông làm nội sử ở Tuyên Thành, phía bắc phủ Ninh Quốc, tỉnh An Huy hiện nay. 5. Kính Đình:Núi Kính Đình, phía bắc huyện Tuyên Thành, tỉnh An Huy.
Mỹ nhân tại thì hoa mãn đường, Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng. Sàng trung tú bị quyển bất tẩm, Chí kim tam tải văn dư hương. Hương diệc cánh bất diệt, Nhân diệc cánh bất lai. Tương tư hoàng diệp lạc, Bạch lộ thấp thanh đài.
Dịch nghĩa:
Gửi phương xa
Bổ sung sau!
Các bản dịch thơ:
Gửi phương xa
Người đẹp còn đây, hoa thắm tươi Người đi, giường trống, lá hoa rơi Trên giường chăn gấm y nguyên nếp Xuân Hạ ba lần hương chửa phai Hương thơm phảng phất còn đây mãi Người đẹp đi xa chẳng trở về Móc trắng, rêu canh cùng đẫm ướt Lá vàng lác đác nhớ thương hoài...
Tam điểu biệt Vương mẫu, Hàm thư lai kiến quá. Tràng đoạn nhược tiễn huyền, Kì như sầu tư hà. Diêu tri ngọc song lí, Tiêm thủ lộng vân hòa. Tấu khúc hữu thâm ý, Thanh tùng giao nữ la. Tả thủy san tỉnh trung, Đồng tuyền khởi thù ba. Tần tâm dữ sở hận, Kiểu kiểu vi thùy đa.
Thanh lâu hà sở tại, Nãi tại bích vân trung. Bảo kính quải thu thủy, La y khinh xuân phong. Tân trang tọa lạc nhật, Trướng vọng kim bình không. Niệm thử tống đoản thư, Nguyện nhân song phi hồng.
Bổn tác nhất hành thư, Ân cần đạo tương ức. Nhất hành phục nhất hành, Mãn chỉ tình hà cực. Dao đài hữu Hoàng hạc, Vi báo thanh lâu nhân. Chu nhan điêu lạc tận, Bạch phát nhất hà tân. Tự tri vị ứng hoàn, Li cư kinh tam xuân. Đào lí kim nhược vi, Đương song phát quang thái. Mạc sử hương phong phiêu, Lưu dữ hồng phương đãi.
Ngọc trợ lạc xuân kính, Tọa sầu hồ dương thủy. Văn dữ âm lệ hoa, Phong yên tiếp lân lí. Thanh xuân dĩ phục quá, Bạch nhật hốt tương thôi. Đãn khủng hà hoa vãn, Lệnh nhân ý dĩ tồi. Tương tư bất tích mộng, Nhật dạ hướng Dương đài.
Dương đài cách Sở thủy, Xuân thảo sanh Hoàng hà. Tương tư vô nhật dạ, Hạo đãng nhược lưu ba. Lưu ba hướng hải khứ, Dục kiến chung vô nhân. Diêu tương nhất điểm lệ, Viễn kí như hoa nhân.
Thiếp tại Thung lăng đông, Quân cư Hán giang đảo. Nhất nhật vọng hoa quang, Vãng lai thành bạch đạo. Nhất vi vân vũ biệt, Thử địa sinh thu thảo. Thu thảo thu nga phi, Tương tư sầu lạc huy.
Ức tạc đông viên đào lí hồng bích chi, Dữ quân thử thì sơ biệt li. Kim bình lạc tỉnh vô tiêu tức, Lệnh nhân hành thán phục tọa tư. Tọa tư hành thán thành Sở Việt, Xuân phong ngọc nhan úy tiêu hiết. Bích song phân phân hạ lạc hoa, Thanh lâu tịch tịch không minh nguyệt. Lưỡng bất kiến, Đãn tương tư, Không lưu cẩm tự biểu tâm tố, Chí kim giam sầu bất nhẫn khuy.
Trường đoản xuân thảo lục, Duyên giai như hữu tình. Quyển thi tâm độc khổ, Trừu khước tử hoàn sanh. Đổ vật tri thiếp ý, Hi quân chủng hậu đình. Nhàn thì đương thái xuyết, Niệm thử mạc tương khinh.
Lỗ cảo như ngọc sương, Bút đề nguyệt thị thư. Kí thư bạch anh vũ , Tây hải úy li cư. Hành sổ tuy bất đa, Tự tự hữu ủy khúc. Thiên mạt như kiến chi, Khai giam lệ tương tục. Lệ tận hận chuyển thâm, Thiên lí đồng thử tâm. Tương tư thiên vạn lí, Nhất thư trị thiên kim.
Ái quân phù dung thiền vận chi diễm sắc Nhược khả xan hề nan tái đắc Lân quân băng ngọc thanh hồi chi minh tâm Tình bất cực hề ý dĩ thâm Triêu cộng lang can chi khởi thực Dạ đồng uyên ương chi cẩm khâm Ân tình uyển luyến vật vi biệt Sử nhân mạc thác loạn sầu tâm Loạn sầu tâm, thế như tuyết Hàn đăng yếm mộng hồn dục tuyệt Giác lai tương tư sinh bạch phát Doanh doanh Hán thủy nhược khả việt Khả tích lăng ba bộ la vát Mỹ nhân mỹ nhân hề quy khứ lai Mạc tái triêu vân mộ vũ hề phi Dương Đài.
Dịch nghĩa:
11 bài Gửi phương xa - Bài 11
Bổ sung sau!
Các bản dịch thơ:
11 bài Gửi phương xa - Bài 11
Yêu ai, phù dung thướt tha ngời ngợi sắc Sắc lấy được chừ nan tái đắc Thương ai, ngọc lạnh trong màu soi sáng tâm Tình vô cùng chừ ý thâm trầm Sáng ngọc lang can rồi lộc lụa Đêm hợp uyên ương lại gấm chăn Ân tình quyến luyến sinh ly biệt Để người không lẫn loạn sầu tâm Loạn sầu tâm lệ như tuyết Đèn lạnh mộng thôi hồn muốn tuyệt Tương tư chợt đến sinh tóc bạc Sông Hán cuồn cuộn như sông Việt Đáng tiếc sóng băng trôi rời rạc Mỹ nhân mỹ nhân chừ về đi thôi Đừng đem triêu vân mộ vũ chừ bay Dương Đài.
Nam hồ thu nguyệt bạch Vương tể dạ tương du Cẩm phàm lang quan tuý La y vũ nữ kiều Địch thanh tuyên Miện Ngạc Ca khúc thượng vân tiêu Biệt hậu không sầu ngã Tương tư nhất thuỷ diêu.
(Tại Giang Ninh huyện nam thập ngũ lý - cổ tống biệt chi sở)
Kim Lăng lao lao tống khách đàng Man thảo ly ly sinh đạo bàng Cổ tình bất tận đông lưu thủy Thử địa bi phong sầu bạch dương Ngã thừa tố khả đồng khang lạc Lãng vịnh Thanh Châu phi dạ sương Tích văn Ngưu Chử ngâm ngũ chương Kim lai hà Tạ Viên gia lang Khổ trúc hàn thanh động thu nguyệt Độc túc không liêm quy mộng trường.
Ngã bản Sở cuồng nhân, Cuồng ca tiếu Khổng Khâu. Thủ trì lục ngọc trượng, Triêu biệt Hoàng Hạc lâu. Ngũ Nhạc tầm sơn bất từ viễn, Nhất sinh hiếu nhập danh sơn du. Lư Sơn tú xuất Nam Đẩu bàng, Bình phong cửu điệp vân cẩm trướng. ảnh lạc minh hồ thanh đại quang, Kim khuyết tiền khai nhị phong trường, Ngân hà đảo quải tam thạch lương. Hương Lư, Bộc Bố dao tương vọng, Hồi nhai đạp chướng lăng thương thương. Thuỷ ảnh hồng hà ánh triêu nhật, Điểu phi bất đáo ngô thiên trường. Đăng cao tráng quan thiên địa gian, Đại giang mang mang khứ bất hoàn. Hoàng vân vạn lý động phong sắc, Bạch ba cửu đạo lưu tuyết sơn. Hảo vi Lư Sơn dao, Hứng nhân Lư Sơn phát. Nhàn khuy Thạch Kính thanh ngã tâm, Tạ Công hành xứ thương đài một. Tảo phục hoàn đan vô thế tình, Cầm tâm tam điệp đạo sơ thành. Dao kiến tiên nhân thái vân lý, Thủ bả phù dung triều Ngọc Kinh. Tiên kỳ mãn hạn cửu cai thượng, Nguyện tiếp Lư Ngao du Thái Thanh.
Dịch nghĩa:
Bài hát Lư Sơn gửi thị ngự Lư Hư Chu
Ta vốn là người điên nước Sở Hát điên mà cười ông Khổng Khâu. Tay chống cái gậy ngọc xanh biếc, Buổi sớm rời lầu Hoàng Hạc. Đi tìm núi Ngũ Nhạc chẳng quản xa xôi, Suốt đời thích vào chơi núi non nổi tiếng. Lư Sơn hiện ra vẻ đẹp bên chòm Nam Đẩu, Chín vách luỹ bình phong mây giăng màn gấm, In bóng xuống nước hồ sáng lấp loáng xanh thẳm. Hai ngọn núi kéo dài mở ra trước cửa thành vàng, Ba chiếc cầu đá treo lơ lửng trên sông Ngân. Ngọn Hương Lư, thác Bộc Bố trông nhau xa xa, Sườn quanh co, vách chập chờn in hình lên trời xanh. ánh biếc, ráng hồng phản chiếu ánh nắng ban mai, Chim bay không thể vượt bầu trời Ngô dằng dặc. Lên cao phóng mắt trông khắp trời đất, Dòng sông lớn mênh mông chảy dài không quay lại. Mây vàng muôn dặm xao xuyến trước gió, Chín dòng nưới nổi sóng bạc chảy như núi tuyết. Thích thú mà làm ra bài hát Lư Sơn, Cảm hứng do Lư Sơn mà phát động. Thong thả xem hồ Thạch Kính khiến lòng trong sạch, Lối đi của Tạ Linh Vận nay rêu xanh trùm lấp hết. Buổi sớm uống thuốc tiên, tình đời sạch không, Luyện khí dồn vào ngực, vừa học thành đạo. Xa trông thấy người tiên trong áng mây rực rỡ, Tay cầm hoa sen đến chầu Ngọc Kinh. Đã hẹn trước sẽ dong chơi trên chín tầng trời, Xin đón ẩn sĩ Lư Ngao lên dạo cung Thái Thanh.
Các bản dịch thơ:
Bài hát Lư Sơn gửi thị ngự Lư Hư Chu
Ta vốn kẻ điên cuồng nước Sở Vổ kiếm ca cười cả Khổng Khâu Sớm từ lầu Hạc rời mau Chống cây gậy biếc sáng màu ngọc xanh
Non Ngũ Nhạc chênh vênh nào quản Cả một đời nhàn tản núi non Lư Sơn Nam Đẩu chập chờn Bình phong cửu điệp mây ngàn gấm thêu
Mây lững thững in soi đáy nước Mặt hồ thu óng mượt sáng xanh Non cao một dãy hoàng thành Cầu treo lơ lững bến tình sông Ngân
Ngọn Bộc Bố Hương Lư tương vọng Vách cheo leo gió lộng đỉnh cao Cầu vòng buổi sớm bảy màu Chim bay chẳng vượt qua bầu trời Ngô
Trèo lên đỉnh Lư Sơn nhìn lại Nước đại giang trôi mãi không về Mây vàng muôn dặm sơn khê Sóng cuồng chín nẻo bốn bề tuyết tan.
Ta thích thú hứng thời cảm tác Viết cho đời khúc hát Lư sơn Cảnh nhàn Thạch Kính tịnh tâm Tạ Linh lối cũ xanh trùm rêu phong
Ngày sương sớm linh đơn tiên luyện Vận ngũ hành tâm chuyển vô vi Thoáng xa ngọc nữ nhu mì Đón Lư ẩn sĩ viếng trời Thái Thanh.