November 2024 | Mon | Tue | Wed | Thu | Fri | Sat | Sun |
---|
| | | | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | | Calendar |
|
feeds | |
|
| Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Join date : 04/11/2011
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:15 am | |
| Bạch Vân gia huấn
12. Do mệnh
Bài mười một dạy câu số mệnh Mọi điều đều do tiền định cả rồi. Giầu sang cũng bởi tại trời, Công danh có mệnh, có thời dở hay. Đồ ăn uống xưa nay sản xuất. Cũng đều do trời đất khởi sinh. Người khôn làm đúng phận mình, Tiểu nhân mạo hiểm hiếu danh, khoe tài. * * * Nói thẳng thường trái tai chẳng thích, Hãy xét suy, có ích hãy làm. Ở đời lắm thói đa đoan, Thuốc đắng giã tật, thế gian tỏ tường. Thấy người tốt chớ nên xem thường, Hãy nghiêm suy ngẫm tìm đường mà theo.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Join date : 04/11/2011
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:19 am | |
| Bạch Vân gia huấn
13. Thành sự
Bài mười hai lo toan sự nghiệp Muốn thành công phải biết lo xa. Mưu sự là ở người ta, Thành công tốt đẹp suy ra tại trời. Có trường hợp ở nơi nguy bại, Được trời phù nên lại thắng to. Hoặc khi tai nạn gay go, Gặp may lại được trời cho an toàn. * * * Có đức mà nghèo hèn cơ cực, Hẳn là do nghiệp chướng từ lâu. Bất lương mà được giầu sang, Chắc là kiếp trước bắc cầu thiên duyên. * * * Nếu phận nghèo thì nên nghèo trước, Chớ dã tâm, bạo ngược khởi đầu. Biết mệnh là bởi hiểu sâu, Sống yên vô sự khác nào thần tiên. * * * Muốn sống lâu phải rèn luyện tốt, Từ lao động ăn uống thuốc men… Giữ gìn chừng mực cho quen,.. Một ngày vui khoẻ là tiên một ngày. * * * Không thuốc nào chữa bệnh khanh tướng thọ, Có tiền đâu mua được con hiền. Vợ ngoan chồng chẳng ưu phiền, Có con hiểu thảo cha yên cõi lòng. * * * Bởi uống say, nói không tử tế, Vì tiền tài, huynh đệ từ nhau. Nên xuống ngựa lúc qua cầu, Có đường bộ chớ rủ nhau đi thuyền. Áo trắng thì bụi đen dễ dính, Khó an toàn bởi tính kiêu căng. * * * Lòng người hiểm hơn núi rừng, Hãy suy luận, để coi chừng đó nghe. * * * “Bọ ngựa bắt con ve tưởng bở Sẻ lại rình bọ ngựa kề bên; Người săn tặng sẻ mũi tên; Hổ lang rình sẵn xông lên vồ người. * * * Hổ đắc ý lên rồi định biến, Ngờ đâu xa xuống giếng mạng toi! Mới hay mạnh yếu ở đời, Nhãn tiền báo ứng rạch ròi phân minh”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Join date : 04/11/2011
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:23 am | |
| Bạch Vân gia huấn
14. Trí giả
Bài mười ba dạy điều trí giả. Bậc trí giả trọng mình hơn hết, Bởi học nhiều hiểu biết càng sâu. Chẳng cần đấu lý với nhau, Chẳng cần đấu lực, đối đầu với ai. Giữ danh dự trong ngoài kính nể, Bảo vệ cho thân thể an toàn Biết tự kiềm chế thì yên. Không bị nhục cũng chẳng phiền đến thân. * * * Có những chuyện người trần khó biết, Mà trời cao nghe thấy mọi điều. Bảo rằng lỗi nhỏ chẳng sao, Nhiều lỗi góp lại lớn lao khó lường. * * * Một mình chớ đi đường nguy hiểm, Thuyền chở tham sinh chuyện đắm đò. Chuyện người ta chớ tò mò, Có trách thì trách lỗi to của người. Thù oán cũ thì thôi quên tuột Trước khoan hòa sau được điều hay. Yêu đừng yêu quá đắm say. Ghét đừng ghét đắng ghét cay sinh thù. * * * Có người chẳng được như ý muốn, Nên bảo ban đại lượng thì hơn. Trọng danh tiết như Thái sơn, Người không thì chẳng giản đơn việc nào. Giàu sang chẳng tự cao cậy thế, Nghèo hèn không luồn lụy cúi đầu. Kẻ vụng chẳng thấy việc đâu. Người khéo thì việc bù đầu, luôn tay. Bậc trí giả trước đây đúc kết Ta nên tìm học biết mà theo Luật ông Tiêu Hà dạy sáu điều Lễ, ông Phu Tử cũng nêu ba phần.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Join date : 04/11/2011
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:29 am | |
| Bạch Vân gia huấn
15. Minh châu
Ngọc Minh châu là thiên mười bốn Ngợi ca đức khiêm tốn sáng trong. Ngọc là vật quý vô cùng, Minh châu nổi sáng trong vùng tối tăm. Ngọc muốn đẹp phải năng mài giũa, Cố nâng niu gìn giữ kẻo hoài. Trời cho ta tấm hình hài, Phải lo tự giác mà bồi bổ thêm. * * * Con hay, cha chớ nên khen, Cha mắc lỗi, con chớ nên nói nhiều. Thành công chẳng được tự kiêu, Hưởng phúc, càng phải biết điều đừng tham.[1]
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1. Nguyên chữ Hán là: "Thành công bất dĩ tự căng, Thụ phúc khả thái hóa". | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Join date : 04/11/2011
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:33 am | |
| Bạch Vân gia huấn
16. Học vấn
Bài mười lăm răn đường học hỏi, Có tư duy mạnh giỏi hơn người. Trước là đẹp đạo đất trời, Sau là xây dựng tình người đẹp hơn. * * * Hiếu với cha thời con hiếu lại, Kính trọng người người lại trọng ta. Chớ tin những thuyết tà ma, Nó làm chìm đắm xấu xa lòng người. * * * Người xưa bảo tiền tài – phấn đất, Nghĩa nhân kia mới thật là ngàn vàng. Đường dài thử sức gian nan, Sống lâu mới biết ruột gan tình người. Biết giữ phận thì đời nhàn hạ, Không gian tham tai họa khó vào. Vận đen vàng hóa ra thau, Vận đỏ sắt cũng ra màu vàng tươi. Rượu trắng nhuốm đỏ mặt người Bạc vàng dễ nhuộm lòng người tối đen.[1] * * * Nghèo giữa chợ ai thèm thăm hỏi, Giàu trên rừng có khối người thương. Vẽ hổ khó vẽ bộ xương, Biết người biết mặt khó lường lòng ai. Không đáng sợ sức hai con hổ, Chỉ sợ người ăn ở hai mang Sống đại lượng phúc huy hoàng. Mưu sâu tai họa ắt càng thêm sâu. Vợ chồng hiệp sức nhau bàn bạc, Có tiền mua nhiều lạng vàng dòng. Vợ chồng ăn ở khác lòng Có tiền đâu dễ sắm cùng cái kim. * * * Trị nhà như cầm cương ngựa dữ, Trị nước như dạo thử cung đàn. Cho nên học hiểu và làm, Lẽ trời với lẽ dân gian hài hòa, Muốn xây phú quý vinh hoa, Cái nền học vấn phải là đâu tiên.
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1. Nguyên chữ Hán là: "Bạch tửu hồng nhân diện, Hoàng kim hắc thế tâm" | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:39 am | |
| Bạch Vân gia huấn
17. Tu đức
Bài mười sáu thường xuyên tu đức, Phải chuyên tâm nỗ lực hàng ngày. Học rồi thực tế làm ngay, Rút ra kinh nghiệm dở hay sự tình. Tu đức tốt tướng sinh ra tướng, Con thảo hiền sinh được cháu ngoan. Nhà nghèo nhờ vợ đảm đang, Nước loạn cầu tướng giỏi giang, trung thành.
* * * Âm dương hòa không sinh lụt bão, Vợ chồng hòa thì đạo nhà nên. Tránh điều nghi kỵ hờn ghen, Đàn bà tiếp khách phải nên nhớ rằng: Cử chỉ đẹp, nói nhẹ nhàng, Khi đưa tiễn khách xin đừng quá chân. Bốn đức tính Công, Dung, Ngôn, Hạnh, Người đàn bà gánh nặng lo toan. Đừng kiêu sa, chớ lăng loàn, Đừng ghen ghét chớ giận hờn với ai. Gái yêu chồng đẹp vui mọi vẻ, Giúp chồng nuôi con khỏe con ngoan. Dựng xây tôn thống họ hàng, Sáng trong như ngọc, nết càng đẹp ra. Khi lòng dục dâm tà đã mở, Quên yêu thương bỏ cả lễ nghi. Nết hư dù chỉ một ly, Tiếng tăm đồn đại bay đi khắp vùng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:43 am | |
| Bạch Vân gia huấn
18. Cát nhân
Rèn người tốt là chương mười bẩy, Sống nhân từ ai nấy mến thương. Trời cho Phúc, Lộc, Thọ trường, Sống vui thanh thản đời thường gặp may.
* * * Cha dạy con từ khi còn nhỏ, Chồng khuyên vợ từ khi mới về. Không quá vui đến đam mê. Bài bạc, nghiện hút, rượu chè, gian dâm. Tình dục chớ tham lam buông thả, Sức suy tàn rệu rã, ai thương. Của quý chớ có phô trương, Bạc vàng phải khóa trong dương trong hòm.
* * * Buồng the chớ để ai nhòm Của còn nguyên vẹn, tình còn dài lâu.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:46 am | |
| Bạch Vân gia huấn
19. Lương tài
Bài mười tám răn chữ lương tài Lương là đạo cao đức trọng Có lương tài chết sống thơm danh. Người tài lành có bạn lành, Người ác bạn ác kết thành tai ương. Người lương tài nên thường nói thẳng, Kẻ xấu xảo nịnh chẳng thương yêu. Người lành nói ít làm nhiều, Tiểu nhân múa mép, lắm điều ba hoa.
* * * Người lành không gian tà uẩn khúc, Hành động luôn chính trực, phân minh. Kiệm cần có lý có tình, Để không mang tiếng rằng mình kiêu sa. Vụng may áo gấm cũng hỏng, Làm bậy thì phá hỏng cơ ngơi. Biết ít thì sống thảnh thơi, Biết nhiều lắm chốn, lắm điều thị phi. Người giúp việc cần chi đẹp xấu, Cần chọn người trung hậu, chăm ngoan. Lòng người, nọc rắn khó phân, Mặt trời ai biết chuyển vần như xe.
* * * Của xóm Đông lấy về hôm trước, Đến hôm sau nó ngược xóm Đoài Việc hôm nay, việc ngày mai. Hãy đem hai chữ Lương Tài mà xem.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:48 am | |
| Bạch Vân gia huấn
20. Lập thân
Bài mười chín dạy đạo lập thân. Đạo lập thân muốn bền muốn vững, Phải khôn ngoan trong cứng ngoài mềm, Phúc nhà thuận dưới kính trên.
* * * Kiệm cần kiên nhẫn là nền trị gia, Làm quan phải giỏi và liêm khiết, Cẩn trọng luôn và biết thương dân. Mới hay bí quyết lập thân, Kiên trì: Liêm chính kiệm cần thì nên.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:50 am | |
| Bạch Vân gia huấn
21. Thịnh đức
Bài hai mươi là thiên thịnh đức Một số điều đã được rút ra. Người thực tài chẳng ba hoa, Thường khi dung mạo cứ là như ngây. * * * Có ruộng không cấy cày thì đói, Có sách không học hỏi thì ngu. Trai không dạy, khác chi lừa, Gái ngu thì cũng giống như lợn sề. * * * Trai sợ vợ bởi vì nhu nhược, Gái kính chồng vì được nết ngoan. Phải dè xẻn bởi thiếu ăn, Sống xa xỉ bởi nguyên nhân của thừa. * * * Vừa lười nhác, lại vừa ngu xuẩn, Thì giầu sang đâu đến mà mơ. Hay đến thân cũng thành sơ, Ngồi dai chủ chẳng bao giờ thích đâu. * * * Uống rượu đấu khẩu nhau ít chứ, Mới là người quân tử phòng thân. Thóc tiền sòng phẳng đồng cân, Mới là đức độ, tinh thần trượng phu. Con cá bị giật lên bờ Có hối cũng chẳng bao giờ được tha. Làm việc xấu đã sa pháp luật, Hối ba lần cũng thật muộn mằn. Nước loạn chớ đến dung thân Nơi nguy hiểm chớ bước chân lần vào. * * * Phép quyền biến làm sao biết trước, Phải đắn đo mong được an toàn, Lò lửa ví như phép quan, Lòng người như sắt như gang trong lò. * * * Người yếu phải nương nhờ người mạnh, Giúp được người là hạnh phúc thay, Không thù dai chẳng hại ai, Tuy nhiên vẫn phải nhớ bài phòng thân. * * * Trên lượng cả, chẳng cần phạt dưới, Kẻ trịch thượng từ chối đừng chơi. Nước trong ít cá lội bơi, Sống nhiều khe khắt, ít người mến thân.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:54 am | |
| Bạch Vân gia huấn
22. Hiếu hoàn
Bài hai mươi mốt hai chữ hiếu hoàn. Hiếu hoàn luật xoay vần vay trả, Báo ứng nhanh gương đã nhiều rồi. Nhạt nồng khéo ở lòng người, Dở hay đã có đạo trời phân minh. * * * Trời mưa gió thình lình bất chắc, Người có khi dồn dập tai ương. Có đức dễ được thọ trường, Tu nhân tích đức, phúc thường dầy thêm. Lừa dối người là mầm tai họa, Phúc dầy nhờ lượng cả bao dung. Cẩn thận chẳng sợ khốn cùng, Nhẫn thì chẳng nhục, vạ không đến mình.[1] * * * Sống bình tĩnh được yên lành mãi Biết kiệm cần đỡ phải reo neo. Trên sông tùy khúc bơi chèo, Vào nhà tùy lúc liệu chiều tuân theo.[2] * * * Dạy con cháu bằng điều từ thiện, Lấy khoan dung điều khiển người theo. Một năm kế hoạch ăn tiêu, Không gì bằng cấy trồng nhiều lúa khoai.[3] Kế mười năm dài hơn một chút, Không gì bằng trồng được nhiều cây. Còn như kế hoạch lâu dài, Là trồng cây đức dẻo dai liền liền. Dù lắm tiền thuốc men tẩm bổ, Chẳng bằng đêm nằm ngủ riêng giường. Dạy con lần mở văn chương, Ở trong vùng bạc kim cương có thừa. * * * Một con được ơn vua lộc nước, Để cả nhà cũng được thơm lây. Siêng năng học tập đêm ngày, Để mà chiêm nghiệm lời này khuyên răn. * * * Việc đúng cứ tiến hành đừng sợ, Trời sẽ cho phúc ở tầm tay Lấy điều đạo lý xưa nay, Truyền cho con cháu đời này đời sau.
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1. Nguyên chữ Hán là: "Khi nhân thị hoạ, Nhiêu nhân thị phúc, Cẩn tắc vô ưu, Nhẫn tắc vô nhục". 2. Nguyên chữ Hán là: "Bình tĩnh thường an, nhã kiệm thường túc ,Nhập giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục". 3. Nguyên chữ Hán đoạn sáu câu này là: "Nhất niên kế mạc như chủng cốc. Thập niên chi kế mạc như chủng mộc; Của viễn chi kế mạc như chủng đức".
Được sửa bởi Vân Nhi ngày Thu Jun 14, 2012 9:13 am; sửa lần 1. | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 10:57 am | |
| Bạch Vân gia huấn
23. Năng tĩnh
Bài hai mươi hai dạy người điều năng tĩnh. Biết đắn đo sống hẳn yên lành. Biết suy nghĩ việc dễ thành, Cầu đâu được đấy vui lành biết bao. * * * Khi sống biết lo sau tính trước. Lúc lâm chung hẳn được yên lành. Tuổi già lắm bệnh phát sinh, Đều do lúc trẻ tự mình làm ra. * * * Lúc thịnh đạt gian tà trái đạo, Khi tuổi già quả báo coi chừng! Sợ thay “Đốm lửa thiêu rừng”, Nửa câu nói trái, sau đừng khoe khôn.[1] * * * Biết điều thiện ôn tồn nhắc bạn, Chỉ nơi nguy cho người khách lánh xa. Khi lòng hiểm độc gian tà, Niệm kinh gõ mõ quả là vô duyên. Đem bố thí bằng tiền bất chính, Cũng chỉ là vô ích mà thôi. Chỉ một hành động xấu chơi, Nói khôn nói khéo, ai người còn tin. * * * Sống thừa mứa bạc tiền nhung lụa, Chắc đâu bằng sống đủ mà vui. Gần mực thì ắt phải đen thui Gần son thì đỏ sự đời chẳng sai. Gần người ngu biến hay thành dốt, Gần người hiền càng tốt thêm ra. Người quân tử đức nở hoa, Tiểu nhân tìm cách xấu xa học đòi. Ngẫm xem muôn sự ở đời, Ác thì gặp ác, nhân thời gặp nhân. Con ngựa cùng, vung chân đập phá, Chim cùng đường, liều mổ đòi bay, Thú cũng muốn xổng chạy dài, Bản năng tự vệ muôn loài bẩm sinh. * * * Người giả dối thì đừng bắt chuyện, Gái lẳng lơ thì biến cho xa. Những người ngay thẳng hiền hoà, Kiên tâm gần gũi để mà học theo. * * * Kẻ nghiện ngập lêu têu, hợm hĩnh. Hãy coi chừng! Cố tránh đừng chơi. Mới hay hậu bạc ở đời Trắng, đen cũng bởi lòng người mà ra.
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1. Nguyên chữ Hán là: "Nhất tinh chi hoả năng thiêu vạn lý chi sơn. Bán cũ chi ngôn ngộ Tổn bình sinh chi đức" | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Wed Jun 13, 2012 11:00 am | |
| Bạch Vân gia huấn
24. Thư tất
Bài hai mươi ba là bài thư tất Sách Bạch Vân kết luận dạy rằng: Muôn việc khởi tự cái Tâm, Nếu lòng buông thả, lỗi lầm đến ngay. * * * Học điều hay tỏ bài chân lý Bảo tồn Chân-Thiện-Mỹ sáng trong Thánh nhân trợ giúp bao dung, Tiến–lui, còn-mất mới mong tinh tường. * * * Không để mất kỷ cương chính đạo, Lời thánh hiền dạy bảo thiêng liêng: Hiếu-Trung-Cần-Kiệm-Chính-Liêm Xa gần kính trọng, dưới trên thuận hòa. Sự kính nhường coi là cái gốc, Lấy học hành tri thức nâng lên. Chân thành học hỏi thường xuyên, Muốn tu cái đức phải nghiêm với mình. * * * Những điều giáo huấn anh minh, Thành tâm bái phục, ân tình chẳng quên.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Thu Jun 14, 2012 8:21 am | |
| Sấm Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán Lịch sử khoa cử Việt Nam có hàng chục trạng nguyên, nhưng ít có ông trạng nào mà tên tuổi lại được nhắc tới với nhiều giai thoại kỳ bí như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585). Là một nhà thơ lớn của dân tộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao tư tưởng nhân nghĩa, hòa bình. Chính ông là người đầu tiên nhắc tới hai chữ Việt Nam trong các tác phẩm của mình. Là một người thầy lớn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Học trò của ông, người theo nhà Mạc, người theo nhà Lê. Ngoài triều Mạc, cả họ Trịnh, họ Nguyễn, những người thuộc các phe đối lập, cũng đều tôn kính ông, thường xin ý kiến ông về nhiều vấn đề hệ trọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ cho tất cả. Họ đều thấy sự chỉ dẫn của ông là đúng, nên ông được xem như bậc đại hiền, một ông trạng tiên tri... Những lời khuyên làm nên sự nghiệp- Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh ruột là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm (anh rể) giết, bèn sai người đến xin ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời trực tiếp, ông dẫn sứ giả ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và nói: "Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân"(Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được) Hiểu được ý ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái xin với anh rể Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, từ đó lập ra nhà Nguyễn ở phương nam. Về sau sử nhà Nguyễn sửa thành "vạn đại dung thân", hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi. - Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm cũng muốn bỏ Vua Lê để tự xưng vương. Khi cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông không trả lời mà dẫn sứ giả ra chùa, thắp hương mà nói: "Mấy năm nay mất mùa, nên tìm thóc giống cũ mà gieo". Rồi lại bảo chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản". Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám phế bỏ nhà Lê mà phò Vua Lê để lập nghiệp Chúa. - Phùng Khắc Khoan đến gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm, với ý muốn nhờ thầy cho một lời khuyên: Có nên bỏ nhà Mạc để vào Thanh Hóa với triều đình Lê - Trịnh? Cả buổi chiều trò chuyện, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ hỏi tình hình, nói chuyện văn chương chứ không trả lời. Đêm ấy Phùng Khắc Khoan ngủ lại tại nhà thầy. Sang canh tư, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến phòng ngủ của học trò, đứng ngoài gõ cửa và nói vọng vào: "Gà đã gáy rồi, trời đã sáng, sao không dậy, ngủ mãi ử"Phùng Khắc Khoan nghe xong, suy nghĩ, và đoán rằng thầy gián tiếp bảo thời cơ đã đến, có thể vào giúp nhà Lê. Ông vội vàng thu xếp hành lý, đợi đến lúc mặt trời mọc thì vào giã từ thầy. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không nói gì, chỉ cuốn một chiếc chiếu ngắn ném theo. Phùng Khắc Khoan nhặt lấy chiếu, vừa đi vừa nghĩ: "Phải chăng đây là ý dặn mình cần hành động gấp và dứt điểm như cuốn chiếu" - Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần mất, nhà Mạc cho người đến hỏi ông về kế lâu dài. Ông đáp: "Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế" (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời). Sau quả đúng như vậy. Những lời sấm cho nhiều đời sauDân gian lưu truyền nhiều bản Sấm ký được cho là của ông. Hiện nay ở kho sách Viện nghiên cứu Hán - Nôm còn giữ được bốn bản. Tuy nhiên các bản này đều không có tên người chép, chép từ bao giờ và chép ở đâu? Do vậy, chúng ta cần phải làm rõ vấn đề đâu là khả năng dự báo xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm do kiến thức và kinh nghiệm đã đem lại, đâu là những điều mà người đời đã gán ghép cho ông? Mặc dù là "tồn nghi" nhưng chúng tôi cũng xin trích ra để bạn đọc cùng khảo cứu. - Truyện kể lại rằng, trước khi qua đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ: "Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn(Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta) Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế. - Đến đời Vua Minh Mệnh (1820 - 1840) trong dân gian lưu truyền một câu sấm: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương" (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mệnh vốn tính đa nghi. Biết được mấy câu sấm ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ Trạng Trình. Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đình cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa trình chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh giấy đề chữ: "Minh Mệnh thập tứ Thằng Trứ phá đền Phá đền thì lại làm đền Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai".Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn cấp tâu về triều đình, xin làm lại đền thờ Trạng Trình. Ở một tập sấm mở đầu có các câu: "Nước Nam thường có thánh tài Sơn hà vững đạt mấy ai rõ ràng Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho Học cách vật mới dò tới chốn..."Có người cho rằng những lời thơ ấy đã khẳng định đất nước có nhiều người tài giỏi, cùng với nhân dân giữ vững đất nước qua biết bao nguy biến. Đất nước cũng có nhiều tài nguyên phong phú cần được khai thác. Đảo Sơn phải chăng là Vũng Tàu - Côn Đảo? Nơi có tiềm năng về dầu khí và có vị trí kinh tế chiến lược? Những lời sấm ấy cũng khẳng định phải có khoa học - kỹ thuật (học cách vật) mới có thể khai thác tốt và sử dụng tốt những tài nguyên đó, những âu vàng trời cho. Tập sấm còn đề cập tới một bậc Thánh giúp đời: "Một đời có một tôi ngoan, Giúp chung nhà nước dân an thái bình Ấy điềm sinh Thánh rành rành chẳng nghi" ……Trong tập sấm cũng ghi một lời rất đặc biệt: "Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ Hưng tộ diên trường ức vạn xuân" (Đất nước Hồng Lam này sau ta 500 nămsẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân) Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585, thọ 94 tuổi. Ba trăm năm sau, trong bộ sách lớn "Lịch triều hiến chương loại chí", nhà văn hóa Phan Huy Chú đã coi Nguyễn Bỉnh Khiêm là "Một bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở". Không rõ tác giả | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Thu Jun 14, 2012 8:25 am | |
| Sấm Trạng Trình Sấm ký I Khỉ hú trời Nam cá hoá rồng, Gà kêu Nam Bắc hội Hoa Long, Lần tay đếm lại Năm Ba Chín, Mới thấy điềm may giống Lạc Hồng. Chăm chỉ chờ ngày sang Mậu Ngũ, Ước ao đặng thấy buổi Canh Thân, Cho hay bốn bể ba đào dậy, Cù rống kêu vang giống Lạc Hồng. Nguyễn Bỉnh Khiêm
| |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Thu Jun 14, 2012 8:57 am | |
| Sấm Trạng Trình
Sấm ký II
Vận lành mừng gặp tiết lành Thấy trong quốc ngữ lập tành nên câu Một câu là một nhiệm màu Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao. Trải vì sao mây che Thái Ất Thủa cung tay xe nhật phù lên Việt Nam khởi tổ gây nên Lạc Long ra trị đương quyền một phương Thịnh suy bĩ thái chẳng thường Một thời lại một nhiễu nhương nên lề. Ðến Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngủ Mở bản đồ rủ áo chắp tay Ngự đao phút chốc đổi thay[1] Thập bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên[2] Ðông A âm vị nhi truyền[3] Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh[4] Chấn cung hiện nhật quang minh[5] Sóng lay khôn chống trường thành bền cho. Ðoài cung vẻ rạng trăng thu Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật.[6] Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen Sửa sang muôn vật cầm quyền Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho Kìa liệt vương khí hủ[7] đồ ủng Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn. Trời sinh ra những kẻ gian Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài Áo vàng ấm áp đà hay Khi sai đắp núi khi sai xây thành Lấy đạc điền làm công thiên hạ Ðược mấy năm đất lở riếng[8] mòn Con yết ạch ạch tranh khôn Vô già mở hội mộng tôn làm chùa Cơ trời xem đã mê đồ Ðã đô lại muốn mở đô cho người Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn Suốt vạn dân cưu giận nhạn[9] than Dưới trên dốc trí lo toan Những đua bán tước bán quan làm giàu Thống ru nhau làm mồi phú quí Mấy trung thần có ý an dân Ðua nhau làm sự bất nhân Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non Dư đồ chia rẽ càn khôn[10] Mối giường[11] man mác khiếp mòn lòng nhau. Vội sang giàu giết người lấy của Sự có chăng mặc nọ ai đôi[12] Việc làm bất chính tơi bời Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ Xem tượng trời đã gia[13] ra trước Còn hung hăng bạc ngược quá xưa Cuồng phong cả sớm liền trưa Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết Ðể vạn dân dê lại giết dê Luôn năm chật vật đi về Âm binh ở giữa nào hề biết đâu Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng Cũng một lòng trời chống khác nào Xem người dường vững chiêm bao Nào đâu còn muốn ước ao thái bình Một góc thành làm tám chúng quỷ Ðua một lòng ích kỷ hại nhân Bốn phương rỡ rỡ hồng trần Làng khua mỏ cá , làng phân điếm tuần[14] Tiếc là những xuất dân làm bạo Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau Nhân danh trọn hết đâu đâu Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê Hùm già lạc dấu khôn về Mèo non chi chí tìm về cố hương Chân dê móng khởi tiêu tường Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình Nội thành hoảng hốt hư kinh[15] Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang Bở mồ hôi Bắc giang tái mã Giữa hai xuân bỗng phá tổ long Quốc trung kinh dụng cáo không Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng Gà đâu sớm gáy bên tường Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không Thủy binh cờ phất vầng hồng Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng Ðứng hiên ngang đố ai biết trước Ấy Bắc binh sang việc gì chăng? Ai còn khoe trí khoe năng Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi Chưa từng thấy đời nào sự lạ Bỗng khiến người giá họa cho dân Muốn bình sao chẳng lấy nhân Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán[16] Ðúc tiền ra bán tước cho dân Xun xoe những rắp cậy quân Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ Lòng báo thù ai dễ đã nguôi[17] Thung thăng tưởng thấy đạo trời Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra[18] Cát lầm bốn bể can qua Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về[19] Quân hùng binh nhuệ đầy khe Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời Bấy giờ càng khốn ai ôi Quỉ ma chật vật biết trời là đâu? Thương những kẻ ăn rau ăn rới[20], Gặp nước bung[21] con cái ẩn đâu Báo thù ấy chẳng sai đâu Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn Xin những kẻ hai lòng sự chúa Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân Cho nên phải báo trầm luân Ai khôn mới được bảo thân đời này. * * * Nói cho hay khảm cung rồng dấy Chí anh hùng xem lấy mới ngoan Chữ rằng lục thất nguyệt gian Ai mà nghĩ được mới gan anh tài Hễ nhân kiến[22] đã dời đất cũ Thì phụ nguyên mới chổ (trổ)[23] binh ra Bốn phương chẳng động can qua Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi Bấy giờ mở rộng qui khôi Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn * * * Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh Hoàng phúc xưa đã định tây phong Làu làu thế giới sáng trong Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương Rõ sinh tài lạ khác thường Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài Xem ý trời có lòng khải thánh Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai Chọn Đẩu, Thai[24] những vì sao cả Dùng ở tay phụ tá vương gia Bắc phương chính khí sinh ra Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai Song thiên nhật rạng sáng soi Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường Ðời này thánh kế vi vương Ðủ no đạo đức văn chương trong mình Uy nghi trạng mạo khác hình Thác cư một gốc kim tinh phương đoài Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân Binh thơ mấy quyển kinh luân Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu Ở đâu đó anh hùng hẳn biết Xem sắc mây đã biết thánh long Thánh nhân cư có thụy cung Quân thần đã định gìn lòng chớ tham Lại dặn đấng tú nam chí cả Chớ vội vàng tất tả chạy rông Học cho biết lý kiết hung Biết phương hướng hội có dùng lầm chi. Hễ trời sinh xuống phải thì Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông Kìa những kẻ vội lòng phú quí Xem trong mình một tí[25] đều không Ví dù có gặp ngư ông Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng Xin khuyên đấng thời trung quân tử Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh. Âm dương cơ ngẫu ngô sinh Thái nhâm thái ất trong mình cho hay Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh Võ thông yên thủy, thần kinh Ðược vào trận chiến mới rành biến cơ Chớ vật vờ quen loài ong kiến Biết ray tay miệng biến nói không Ngõ hay gặp hội mây rồng Công danh choi chói chép trong vân đài Bấy giờ phỉ sức chí trai Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình Nặng lòng thật có vĩ kinh Cao tay mới gẩm biết tình năm nao Trên trời có mấy vì sao Ðủ no hiền tướng anh hào đôi nơi Nước Nam thường có thánh tài Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường So mấy lời để tàng kim quỉ Chờ hậu mai có chí sẽ cho Trước là biết nẻo tôn phò Sau là cao chí biết lo mặc lòng. * * * Xem đoài cung đến thời bất tạo Thấy vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau Nguôi lòng tham tước tham giàu Tìm nơi tham ( tam?) hiểm mới hầu bảo thân Trẻ con mang mệnh tướng quân 190.Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường Ai lấy gương vua U thủa trước Loạn ru vì tham ngược bất nhân. Ðòi phương ong khởi lần lần Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn Man mác một đỉnh Hoành Sơn[26] Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù Ấy là những binh thù thái thái Lòng trời xui ai nấy biết ru? Phá điền đầu khỉ cuối thu[27] Tái binh mới động thập thò liền sang Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa Lưu tinh hiện trước đôi thu Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh Loài bất bình tranh mạnh hung hăng Thành câu cá, lửa tưng bừng Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm Chiến trường chốn chốn cát lầm Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông Sang thu chín huyết hồng tứ giả Noi đàn dê tranh phá đôi nơi Ðua nhau đồ thán quần lê Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương Kẻ thì phải thửa hung hoang Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan Kẻ thì mắc thửa hung tàn Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình Muông vương dựng tổ cắn tranh Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành Bời bời đua mạnh tranh giành Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày Bể thanh cá phải ẩn cây Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù Nào ai đã dễ nhìn u Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn Cây bay lá lửa đôi ngàn Một làng còn mấy chim đàn bay ra Bốn phương cùng có can qua Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân Ðoài phương thực có chân nhân Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người Tìm cho được chốn được nơi Thái nguyên một giải lần chơi trú đình[28] Bốn bề núi đá riễu quanh Một đường tiểu mạch nương mình đấy an Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tặc Lánh cho xa kẻo mắc đao binh Bắc kinh mới thật đế kinh Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào Chim hồng vỗ cánh bay cao Tìm cho được chốn mới vào thần kinh. Ai dễ cứu con thơ sa giếng Ðua một lòng tranh tiếng giục nhau. Vạn dân chịu thửa âu sầu Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho Cấy cày thu đãi thời mùa Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai Nhân ra cận duyệt viễn lai Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm. Xem tượng trời biết đường đời trị Gẫm về sau họ Lý xưa nên Giòng nhà để thấy dấu truyền Gẫm xem bốn báu còn in đời đời Thần qui cơ nổ ở trời Ðể làm thần khí thửa nơi trị trường Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh Sông Bảo Giang thiên định ai hay Lục thất cho biết ngày dầy (rày) Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày)Tào khê[29] Có thầy Nhân thập[30] đi về Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời Ra tay điều đỉnh hộ mai Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân Lọ là phải nhọc kéo quân Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh Ân trên vũ thí vân hành Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài Bản đồ chảng sót cho ai Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn Vững nền vương cha truyền con nối Dõi muôn đời một mối xa thư Bể kình tăm lặng bằng tờ Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân Âu vàng khỏe đặt vững chân Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài. * * * Vừa năm nhâm tý xuân đầu Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời Quyển vàng mở thấy sấm trời Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian[31] Một thời có một tôi ngoan Giúp trong việc nước gặp an thái bình Luận chung một tập kim thời Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi Trượng phu có chí thời coi Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng Tài nầy nên đấng vẻ vang Biết chừng đời trị biết đường đời suy Kể từ nhân doãn mà đi[32] Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra Tiếc thay hiền sĩ bao già Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công Thử cho tay giúp ra dùng Tài này so cùng tài trước xem sao Trên trời kể chín tầng cao Tai nghe bằng một ti hào biết hay[33] Hiềm vì sinh phải thời này Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời. Hợp đà thay thánh nghìn tài Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời Nói ra thì lậu sự đời Trái tai phải lụy tài trai khôn luần Nói ra ám chúa bội quân Ðương thời đời trị xoay vần đặng đâu. Chờ cho nhân doãn hết sau , Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn Trời xui những kẻ ắt (34) gian Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay Vua nào tôi ấy đã bày Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn Ðua nhau bội bạn nghịch vi Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay Tiếc tài gẫm được thời hay Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng Tài trai có chí anh hùng Muốn làm tướng súy lập công chưng đời Khá xem nhiệm nhặt tộ trời Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng Ði tìm cho đến đế cung Rấp phù xuất lực đế cung được toàn. Bảo nhau cương kỷ cho tường Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài Chờ cho động đất chuyển trời Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng Còn bên thì náu chưa xong Nhân lực cướp lấy thiên công những là Ðời ấy những quỉ cùng ma Chẳng còn ở thật người ta đâu mà Trời cao đất rộng bao xa Làm sao cho biết cửa nhà đế vương Dù trai ai chửa biết tường Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này Ý ra lục thất gian nay, Thời vận đã định thời nầy hưng vương Trí xem nhiệm nhặt cho tường Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy Vua ngự thạch bàn xa thay Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng Gà kêu vượn hót vang lừng Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò Nhân dân vắng mạt bằng tờ Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay Vua còn cuốc nguyệt cày mây Phong điều vũ thuận thú rày an dân Phong đăng hoà cốc chứa chang Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây Chính cung phương khảm vần mây Thực thay thiên tử là nay trị đời Anh hùng trí lượng thời coi Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi Tìm lên đến thạch bàn khê Có đất sinh thánh bên kia cuối làng Nhìn đi nhìn lại cho tường Dường như chửa có sinh vương đâu là Chảng tìm thì đến bình gia Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình Nhìn xem phong cảnh cũng xinh Tả long triều lại có thành đợt vây Hửu hổ uấn khúc giang này Minh Ðường thất diệu trước bày mặt ta. Ở xa thấy một con voi Cúi đầu quen bụi trông[35] hồ sau Ấy điềm thiên tử về chầu Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời Song thiên nhật nguyệt sáng soi Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu Ðến thời thịnh vượng còn lâu Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam Muốn làm tướng súy thì xem trông này * * * Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn Tiền sinh cha mẹ đà cách trở Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn * * * Kìa cơn gió thổi lá rung cây[36] Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây Tan tác kiến kiều an đất nước Xác xơ cổ thụ sạch am mây Sơn lâm nổi sóng mù thao cát Hưng địa tràng giang hóa nước đầy Một gió một yên ai sùng bái Cha con người Vĩnh Bảo cho hay. * * * Con mừng búng tít con quay Vù vù chong chóng gió bay trên đài Nhà cha cửa đóng then cài Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân Tiếc tám lạng thương nửa cân Biết rằng ai có dù phần như ai Vắt tay nằm nghỉ dông dài Thương người có một lo hai phận mình. * * * Canh niên tàn phá Tuất hợi phục sinh Nhị ngũ dư bình * * * Long hổ xà đầu khởi chiến tranh Can qua tứ xứ khởi đao binh Mã đề dương cước anh hùng tận Thân dậu niên lai kiến thái bình.[37] * * * Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu Có một đàn xà đánh lộn nhau Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng Lợn kia làm quái phải sai đầu Chuột nọ lăm le mong cắn tổ Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu Hùm ở trên rừng gầm mới dậy Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu. * * * Cửu cửu kiền khôn dĩ định[38] Thanh minh thời tiết hoa tàn Trực đáo dương đầu mã vĩ Hồ binh bát vạn nhập trường an. * * * Bảo Giang thiên tử xuất Bất chiến tự nhiên thành Lê dân đào bão noãn Tứ hải lạc âu ca Dục thức thánh nhân hương Qua kiều cư Bắc phương Danh vi Nguyễn gia tử Kim tịch sinh ngưu lang * * * Thượng đại nhân bất nhân Thánh ất dĩ vong ân Bạch hổ kim đai ấn Thất thập cổ lai xuân. * * * Bắc hữu kim thành tráng Nam tạc ngọc bích thành.[39] Hỏa thôn đa khuyển phệ Mục giả dục nhân canh. * * * Phú quí hồng trần mộng Bần cùng bạch phát sinh Anh hùng vương kiếm kích Man cổ đổ thái bình Nam Việt hửu Ngưu tinh Quá thất thân thủy sinh Ðiạ giới sĩ vị bạch Thủy trâm nhi bắc kinh Ký mã xu dương tẩu Phù kê thăng đại minh Chư thử giai phong khởi Thìn mão xuất thái bình. * * * Phân phân tùng Bắc khởi Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh Bảo sơn thiên tử xuất Bất chiến tự nhiên thành. * * * Thủy trung tàng bảo cái Hứa cập thánh nhân hương Mộc hạ châm châm khẩu Danh thế xuất nan lường * * * Danh vi Nguyễn gia tử Tinh bản tại Ngưu lang Mại dữ lê viện dưỡng Khởi nguyệt bộ đại giang Hoặc kiều tam lộng ngạn Hoặc ngụ kim lăng cương Thiên dữ thần thực thụy Thụy trình ngũ sắc quang Kim kê khai lựu điệp Hoàng cái xuất quí phương Nhân nghĩa thùy vi địch. Ðạo đức thùy dữ đương Tộ truyền nhị thập ngũ Vận khải ngũ viên trường Vận đáo dương hầu ách Chấn đoài cương bất trường Quần gian đạo danh tự Bách tính khổ tai ương Can qua tranh đấu khởi Phạm địch thán hung hoang. Ma vương sát đại quỉ Hoàng thiên tru ma vương Kiền khôn phú tái vô lường Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40) Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân Ta hồ vô phụ vô quân Ðào viên tán lạc ngô dân thủ hành. Ðoài phương phúc điạ giáng linh Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân. Phá điền thiên tử giáng trần Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm. Trần công nãi thị phúc tâm Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du Tướng thần hệ xuất y chu Thứ ky phục kiến Ðường ngu thi thành Hiệu xưng thiên hạ thái bình Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1. Đao: chỉ họ Lê có chữ đao. Họ Lê lên thay họ Đinh. 2. Thập bát tử: họ Lý nối ngôi. 3. Đông A là nhà Trần. Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng. 4. Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi. 5. Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc, vì trong chữ Mạc có chữ nhật. 6. Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh chữ Trịnh có chữ nhật. Kìa liệt vương khí hủ đồ ủng Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn Trời sinh ra những kẻ gian Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài. Họ Trịnh là cường hầu, lấn áp vua Lê, thay đổi mọi khuôn phép. 7. Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác ghi là hư. 8. riếng: chữ giếng viết sai chính tả. Người Bắc viết sai d,g,r như tự ro, rân chủ, Khánh Giư . . 9. Cưu, nhạn là chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân. 10. Dư đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh. 11. Mối giường: mối giềng. 12. Đôi: đôi chối, đôi co: nghĩa là cãi cọ, tranh luận. 13: Gia: giơ 14. Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn quê ngày xưa dùng báo hiệu. Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi rtrong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh để xem xét kẻ gian phi. 15. Từ câu 75-86 nói năm mậu thân 1788, vua Lê và hoàng thái hậu chạy sang Trung Quốc cầu viện, rồi quân nhà Thanh sang Thăng Long. Năm kỷ dậu 1789, Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh. 16. Câu 89-99: Nhà Trịnh mua quan bán tước, làm khổ dân như hai vua Hoàn Đế (146-168) , và Linh Đế 156 – 189) tin dùng hoạn quan, giết hại trung thần, khiến chế độ suy tàn. 17. Báo thù: Lê Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị về, báo ơn báo oán, gây nhiều việc thất đức. Xem Hoàng Lê Nhất Thống Chi và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. 18. Câu 100: Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra. Cát lầm bốn bể can qua ... Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về. Nói việc Nguyễn Huệ ra Bắc lấy cớ phù Lê diệt Trịnh xong lại vào Nam, sau đem quân ra Bắc đánh tan quân Tôn Sĩ Nghị. 19. Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về: Nguyễn Huệ ra Băc lại về Thuận Hóa.. 20. Ăn rau ăn rới: có bản ghi “giới”. Giới là rau, là đồ hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi). 21. Bung: phát ra, nổ ra, tràn ra. 22. Nhân kiến: Chỉ Lê Chiêu Thống, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm trong có chữ Kiến. Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó một thời gian thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước. 23. Chổ viết sai, ch/tr, trổ là lộ ra, nở ra (trổ bông, trổ mã), nghĩa là kéo binh ra. 24. Đẩu, Thai: tên hai ngôi sao. Nói về triều Nguyễn quần thần tốt đẹp. 25. Có bản ghi một thí. Một tí, hay một thí: là một chút (ngôn ngữ miền Trung). 26. Đỉnh Hoành sơn: nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn tại miền Trung. 27. Câu 199-200: Phá điền đầu khỉ cuối thu / Tái binh mới động thập thò liền sang. Phá điền là quốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền giống chữ Quốc , cả hai chữ thuộc bộ vi . Tái binh là binh ngoài biên cương, binh ngoại quốc Nói việc quân Pháp xâm chiếm Việt Nam, đánh Gia Định, Đà Nẵng trong năm canh thân (1860). 28. Câu 231-240: ”Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người /Tìm cho được chốn được nơi/Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình / . ,. . . . . . ,. .Bắc kinh mới thật đế kinh / Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào: Thái Nguyên là nơi núi rừng ở biên giới, đời Mạc, anh em Vũ Văn Mật đã xây dựng thành một vùng trù phú. Sau Hoàng Hoa Thám trong khoảng 1900 đã lập chiến khu tại đây, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng muốn giúp sức Hoàng Hoa Thám. Việt Nam Quang Phục hội sau khi Hoàng Hoa thám thảm bại vẫn hoạt động cho đến 1913. Năm 1917, Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến khởi binh chống Pháp... 29. Giầy, dầy: Rầy, rày. | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Thu Jun 14, 2012 9:36 am | |
| Sấm Trạng Trình Sấm ký III [1]Phiên âm Hán Việt:Thái hoà vũ trụ bất Ngu Chu, Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù. Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu, Uyên ngư tùng trước vị thuỳ khu. Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã, Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu. Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước, Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du. Nguyễn Bỉnh KhiêmDịch thơ:Thái hoà chẳng thấy cảnh Ngu Chu, Hai phái thù hằn chém giết nhau. Nhuộm máu phơi xương đà khắp chốn, Xua chà đuổi sẻ vị ai đâu ? Trùng hưng duỗi ngựa qua sông trước, Hậu hoạn phòng beo tiến cửa sau. Ngán nỗi việc đời thôi phó mặc, Say rồi dạo suối hát vài câu. Không rõ người dịch 1. Những năm Quang Thiệu (1516-1526), gặp lúc loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm về ẩn cư để dạy học trò, lấy Đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng, nhưng sang đến thời đầu niên hiệu Thống Nguyên (tức Lê Hoàng Đệ Thung) thì Trịnh Tuy và Mạc Đăng Dung cũng đều có ý hiếp chế Thiên tử để sai khiến chư hầu, hai bên gây cuộc nội chiến, khiến trong nước chịu cảnh lầm than, lúc ấy ông có cảm hứng bài thơ này.
Sở dĩ có bài thơ trên vì ông biết rõ nhà Lê sẽ được trung hưng, dẫu rằng ngày nay tạm phải tìm kế an thân, nhưng rồi sau đây tất nhiên sẽ lại khôi phục được nước, mà câu: Beo tiến cửa sau, chỉ là nói kín đó thôi. Quả nhiên về sau, nhà Lê trung hưng, bốn phương trở lại yên tịnh, bấy giờ bạn hữu đều khuyên ông ra làm quan, đến năm 44 tuổi ông mới chịu ra ứng thí, khoa hương thi ấy, ông được đỗ đầu, rồi năm sau, tức là năm thứ 6 đời nhà Mạc (1535), lại ra tỉnh thì được đỗ thứ nhất, khi vào đình đối, lại đỗ Tấn Sĩ đệ nhứt danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư, trong thời Thái Tông nhà Mạc, ông có làm 2 bài thơ "Xuân thiên ngự tửu", đều được hạng ưu, rồi thăng chức Hữu Thị Lang Hình Bộ, sau thời gian ngắn lại thăng chức Tả Thị Lang, kiêm chức Đông Các Đại Học Sĩ. | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Thu Jun 14, 2012 9:42 am | |
| Sấm Trạng Trình Sấm ký IV [1]1. Cảm đề 1- Thanh nhàn vô sự là tiên Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi Cơ tạo hoá Phép đổi dời Đầu non mây khói tỏa Mặt nước cánh buồm trôi Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời Tuổi già thua kém bạn 10- Văn chương gửi lại đời Dở hay nên tự lòng người cả Nghiên bút soi hoa chép mấy lời Bí truyền cho con cháu Dành hậu thế xem chơi. 2. Sấm ký15- Nước Nam từ họ Hồng Bàng Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước Đã bao lần ngôi nước đổi thay Núi sông thiên định đặt bày Đồ thư một quyển xem nay mới rành. 21- Hoà đao mộc lạc, Thập bát tử thành. Đông A xuất nhập Dị mộc tái sinh. 25- Chấn cung xuất nhật Đoài cung vẫn tinh. Phụ nguyên trì thống, Phế đế vi đinh. 29- Thập niên dư chiến, Thiên hạ cửu bình. Lời thần trước đã ứng linh, Hậu lai phải đoán cho minh mới tường. 33- Hoà đao mộc hồi dương sống lại Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương. Hà thời biện lại vi vương, Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn. 37- Lê tồn, Trịnh tại, Lê bại, Trịnh vong. Bao giờ ngựa đá sang sông, Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng. Hà thời thạch mã độ giang. Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu. 43- Chim bằng cất cánh về đâu? Chết tại trên đầu hai chữ quận công. Bao giờ trúc mọc qua sông, Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây. 47- Đoài cung một sớm đổi thay, Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn. Đầu cha lộn xuống chân con, Mười bốn năm tròn hết số thời thôi. 51- Phụ nguyên chính thống hẳn hoi, Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê. Dục lòng chim chích u mê, Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm. 55- Để loại quỷ bạch Nam xâm, Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy Gia đình một ở ba đi dần dần. Cho hay những gã công hầu, Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này. 61- Kìa kìa gió thổi lá rung cây Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây Tan tác kiến kiều an đất nước Xác xơ cổ thụ sạch am mây. 65- Lâm giang nổi sóng mù thao cát, Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy. Một ngựa một yên ai sùng bái? Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay. 69- Tiền ma bạc quỷ trao tay Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua, Giữa năm hai bẩy mười ba, Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. 73- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay, Rắn mới hai đầu khó chịu thay, Ngựa đã gác yên không người cưỡi Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây. 77- Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu Gà kia vỗ cánh chập chùng bay Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày. 81- Nói cho hay khảm cung ong dậy, Chí anh hùng biết đấy mới ngoan. Chữ rằng lục, thất nguyệt gian Ai mà giữ được mới nên anh tài. 85- Ra tay điều độ hộ mai Bấy giờ mới rõ là người an dân Lọ là phải nhọc kéo quân, Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về. 89- Phá điền than đến đàn dê Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng Dê đi dê lại tuồn luồn Đàn đi nó cũng một môn phù trì. 93- Thương những kẻ nam nhi chí cả Chớ vội sang tất tả chạy rong Học cho biết chữ cát hung Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi Hễ trời sinh xuống phải thì Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong. 99- Kìa những kẻ vội lòng phú quý Xem trong mình một tí đều không Ví dù có gặp ngư ông Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng. 103- Khuyên những đấng thời trung quân tử Lòng trung nghi nên giữ cho mình Âm dương cơ ngẫu hộ sinh Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay. Chớ vật vờ quen loài ong kiến Hư vô bàn miệng tiếng nói không. 109- Ô hô thế sự tự bình bồng Nam Bắc hà thời thiết lộ thông Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng. 113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc Ngưu xuất lam điền nhật chính đông Nhược đãi ưng lai sư tử thượng Tứ phương thiên hạ thái bình phong. 117- Ngỡ may gặp hội mây rồng Công danh rạng rỡ chép trong vân đài Nước Nam thường có thánh tài Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường? 121- So mấy lề để tàng kim quỹ Kể sau này ngu bỉ được coi Đôi phen đất lở, cát bồi Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma. 125- Ba con đổi lấy một cha Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền Mão Thìn Tí Ngọ bất yên Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần. 129- Hoành Sơn nhất đái Vạn đại dung thân Đến thời thiên hạ vô quân Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành. 133- Gà kêu cho khỉ dậy nhanh Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung Thiên sinh hữu nhất anh hùng Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà. 137- Thái Nguyên cận Bắc đường xa Ai mà tìm thấy mới là thần minh Uy nghi dung mạo khác hình Thác cư một góc kim tinh non đoài 141- Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân Binh thư mấy quyển kinh luân Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu. 145- Xem ý trời ngõ hầu khải thánh Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai Song thiên nhật nguyệt sáng soi Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường. 149- Thông minh kim cổ khác thường Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài Đấng hiên ngang nào ai biết trước Tài lược thao uyên bác vũ văn Ai còn khoe trí khoe năng Cấm kia bắt nọ hung hăng với người. 155- Chưa từng thấy nay đời sự lạ Chốc lại mòng gá vạ cho dân Muốn bình sao chẳng lấy nhân Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình? 159- Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán Lại đua nhau quần thán đồ lê Chức này quyền nọ say mê Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương Kẻ thì phải thuở hung hoang Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình. 165- Cửu cửu càn khôn dĩ định Thanh minh thời tiết hoa tàn Trực đáo dương đầu mã vĩ Hồ binh bát vạn nhập Tràng An. 169- Nực cười những kẻ bàng quang Cờ tam lại muốn toan đường chống xe Lại còn áo mũ xun xoe Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang. 173- Ghê thay thau lẫn với vàng Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng Thánh ra tuyết tán mây tan Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi. 177- Can qua, việc nước bời bời Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân Oai phong khấp quỷ kinh thần Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca. 181- Rừng xanh, núi đỏ bao la Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên Sửu Dần thiên hạ đảo điên Ngày nay thiên số vận niên rành rành. 185- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh Can qua xứ xứ khổ đao binh Mã đề dương cước anh hùng tận Thân dậu niên lai kiến thái bình. 189- Sự đời tính đã phân minh Thanh nhàn mới kểchyện mình trước sau Đầu thu gà gáy xôn xao Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long. 193- Chó kêu ầm ỉ mùa đông Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi Lợn kêu tình thế lâm nguy Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời. 197- Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra Hùm gầm khắp nẽo gần xa Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời. 201- Rồng bay năm vẻ sáng ngời Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng Cha con dòng họ thầy tăng hết thời. 205- Chín con rồng lộn khắp nơi Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu Lời truyền để lại bấy nhiêu Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong Hậu sinh thuộc lấy làm lòng Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình. 211- Đầu can Võ tướng ra binh Ắt là trăm họ thái bình âu ca Thần Kinh Thái Ất suy ra Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn. 215- Ngày thường xem thấy quyển vàng Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi Bởi Thái Ất thấy lạ đời Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân. 219- Kể từ đời Lạc Long Quân Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian Mỗi đời có một tôi ngoan Giúp chung nhà nước dân an thái bình. 223- Phú quý hồng trần mộng Bần cùng bạch phát sinh Hoa thôn đa khuyển phệ Mục giã giục nhân canh Bắc hữu Kim thành tráng Nam hữu Ngọc bích thành Phân phân tùng bách khởi Nhiễu nhiễu xuất đông chinh Bảo giang thiên tử xuất Bất chiến tự nhiên thành. 233- Rồi ra mới biết thánh minh Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò Nhị Hà một dải quanh co Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào Khắp hoà thiên hạ nao nao Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng? 239- Nói đến độ thầy tăng mở nước Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu Bấy lâu những cậy phép màu Bây giờ phép ấy để lâu không hào. 243- Cũng có kẻ non trèo biển lội Lánh mình vào ở nội Ngô Tề Có thầy Nhân Thập đi về Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh. 247- Những người phụ giúp thánh minh Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai Phùng thời nay hội thái lai Can qua chiến trận để người thưởng công. 251- Trẻ già được biết sự lòng Ghi làm một bản để hòng giở xem Đời này những thánh cùng tiên Sinh những người hiền trị nước an dân. 255- Này những lúc thánh nhân chưa lại Chó còn nằm đầu khải cuối thu Khuyên ai sớm biết khuông phù Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu. 259- Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ, Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao. Thấy sấm từ đây chép vào Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa. Nguyễn Bỉnh Khiêm 1. Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng Xuân và Thời Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản quốc ngữ Mai Lĩnh. | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Thu Jun 14, 2012 9:52 am | |
| Bạch Vân ca
Bạch Vân ca
Nước Nam thường có thánh tài. Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường. Kìa Nhị Thuỷ, nọ Dao Sơn, Bài ngọc dát nổi, âu vàng Trời cho. Học cách vật mới dò tới chốn, Chép ghi làm một bổn xem chơi. Muôn việc cũng bởi tại người, Suy ra mới biết sự đời dường bao. Dẫu ai có vàng trau nghìn hột, Châu bái hơn chữ một nghĩa mười. Tiên Hoàng từ trước mở ngôi, Cờ lau tập trận thay Trời trị dân. Mới đươc mười hai dư xuân, Lê Hành kế vị, xa gần âu ca. Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ, Đến Ngoạ Triều nào kẻ tài hay. Ngôi Trời dể Lý vào thay, Tám cành hoa nở dến ngày dực phân. Chiêu Hoàng là Á Nữ Quân, Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn. Thập nhị thế, tiếng đồn nhân hậu; Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên. Đông A chốn ấy còn bề, Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam. Đại Ngu được mười bốn năm; Hậu Trần Nhị Đế lại chăm phục hồi. Suy ra mới biết sự Trời; Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê Gia Tây Sơn sừng sực kéo ra, Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn. Đến Phụ Nguyên đòi còn chinh chiến, Trả bao thu dâu biển cát lầm Rừng xa vực thẩm nguồn thâm, Nào ai biết sẽ nhân tâm lúc nầy. Chó mừng chúa, gà bày cục tác, Lợn ăn no thả rác nằm chơi. Đó mới kể là đời thịnh thế, Mà thiên hạ sau sẻ làm hai. Người Đoài cũng thực ấy tài, Mà cho người Sở toan bài lập công. Bởi Trần Vương ngu không kể siết, Mới phen nầy dê lại giết dê. Đến khi thức tận binh bì, Âm binh ở giữa, dễ thì biết sao. Trời cho ta mang dao chém quỷ, Khắp dưới Trời bình trị quỷ thư. Ai từng cứu con thơ xa giếng, Chớ một lòng chinh chiến phá nhau. Muôn dân chịu những âu sầu, Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho. Chốn Đông Nam lò dò khổ ải, Lánh cho xa kẻo phải đao binh. Bắc phương chín thực đế kinh, Náu mình chưa dể náo danh được nào. Vả người là đúng anh hào, Đánh làm sao được ước ao đêm ngày. Ấy những quân đời này thế ấy, Lòng Trời xui ai nấy biết đâu. Chớ đừng tham của làm giàu, Tìm nơi tam hiểm, ngỏ hầu bảo thân. Đà Giang chốn ấy cũng gần, Kim Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơi. Ba Thục riêng một góc trời, Thái Nguyên một dải là nơi trú đình. Tư bề núi đá xanh xanh, Có đường tiểu mạch nương mình ai hay. Bốn bụt xuất thế dã chầy, Chưa chọn được ngày ra của nhân dân. Ấy là điềm xuất thánh quân, Hễ ai biết được thì thân mới toàn. Chữ rằng hữu xạ tức tự nhiên hương, Có phải tầm thường thuốc đấu bán sao? Nắng lâu phải có mưa rào, Vội chi tát nuớc xôn xao cày bừa. Hạn rồi thì phải có mưa, Buồm giương gặp gió, cày bừa gặp cơn. Tuần này thánh xuất Khâm phương, Sự thực đã tường, chẳng phải lo suy. Quần hùng binh dậy sơn khê, Kẻ khoe cứu nước, người khoe trợ thời. Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh, Loài bất bình tranh cạnh hung hăng. Một cơn sấm dậy đất bằng, Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh. Lược thao văn vũ tài tình, Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng. Tam công gặp hội vui mừng, Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông. Bỏ khi chém rắn vẽ rồng, Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù. Bỏ khi kẻ Việt người Hồ, Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường Càn khôn phủ tái vô lương, Đào viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng. Cơ nhị ngũ thư hùng vi quyết, Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân. Ta hồ vô phụ vô quân, Đào viên tản lạc, ngô dân thủ thành. Càn khôn phù tái vô lường, Đào Viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng. Cơ nhị ngũ thư anh hùng vị quyết, Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân. Ta hồ vô phụ vô quân, Đà Giang phúc địa giáng linh, Cửu trùng thụy ứng lòng thành ngũ vân. Phá điền thiên tử giáng trần, Dũng sĩ nhuợc hải, mưu thần như lâm. Trần Công nãi thị phúc tâm, Giang hồ sử sĩ đào tiềm xuất du. Tương thần hệ xuất Y, Chu, Thử kỳ phục kiến Đường, Ngu thị thành. Hiện xung thiện hạ thái bình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Thu Jun 14, 2012 10:01 am | |
| Bạch Vân ca
Hữu cảm kỳ 1 (Có cảm xúc 1) Phiên âm Hán Việt:
Nghịch tặc xương cuồng phạm đế kinh,
Chủ ưu thần nhục trọng thương tình.
Hề tô cửu uất thương sinh vọng,
Ðiếu phạt thuỳ hưng thời vũ binh.
Tứ hải y quy dân đới cựu,
Cửu thiên chiêu yết nhật trùng minh.
Cổ lai, nhân giả tư vô địch,
Hà tất khu khu sự chiến tranh.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | Dịch thơ:
Giặc giã tung hoành lấn đế kinh,
Vua tôi lo lắng xiết bao tình.
Mong mưa, chan chứa lòng dân vọng,
Trừ bạo, tưng bừng đạo nghĩa binh.
Bốn bể vui theo người đạo đức,
Khắp nơi lại thấy cảnh thanh bình.
Xưa nay nhân giả là vô địch,
Lọ phải khư khư thích chiến tranh.
Người dịch: Ngô Lập Chi |
| |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Thu Jun 14, 2012 10:04 am | |
| Bạch Vân ca
Hữu cảm kỳ 2 (Có cảm xúc 2) Phiên âm Hán Việt:
Lạc lạc can qua hận mãn tiền,
Nhân dân bồn thoáng dục cầu tiền.
Điên liên huề bạo ta vô địa,
Ái hộ căn liên hạnh hữu thiên.
Chỉ định vị văn quy mã nhật,
Khai minh cấp tưởng thuộc trư niên.
Nhất chu khí vận chung nhi thủy,
Bác, phục đô tòng thái cực tiên.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | Dịch thơ:
Ngán nỗi can qua mãi thế ư,
Nhân dân mong được chốn an cư.
Kéo nhau lũ lượt tìm nơi ẩn
Cứu kẻ phiêu lưu có chỗ nhờ.
Bình định còn chờ ngày nghỉ ngựa
Thái bình những đợi buổi năm trư
Tuần hoàn một lẽ cùng chung thủy,
Bác phục nguyên từ thái cực xưa.
Người dịch: Ngô Lập Chi |
| |
| | | Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm Thu Jun 14, 2012 10:08 am | |
| Bạch Vân ca
Trung Tân ngụ hứng [1] (Thơ ngụ hứng ở quán Trung Tân) Phiên âm Hán Việt:
Nhân thôn quán tây nam, Giang thuỷ quán tây bắc. Trung hữu bán mẫu viên, Viên tại Vân Am trắc. Luân ưởng trần bất đáo, Hoa trúc thủ tự thực. Trượng lý tập hoa hương, Trản giả xâm hoa sắc. Điểu tị phanh trà yên, Ngư thôn tẩy nghiễn mặc. Khiển hứng nhậm thi cuồng, Phù suy da hữu lực. Nhân xảo, ngả giả chuyết, Thuỳ tri chuyết giả đức, Ngã chuyết, nhân giả xảo, Thuỳ tri xảo giả tặc. Kiền khôn tĩnh lý suy, Cổ kim nhàn trung đắc. Hiểm mạc hiểm thế đồ, Bất tiển tiện kinh cúc. Nguy mạc nguy nhân tâm, Nhất phóng tiện quỷ quắc. Quân tử cầu sở chỉ, Chí thiện tư vi cực.
Nguyễn Bỉnh Khiêm | Dịch thơ:
Sông ngòi vòng tây bắc, Làng xóm bọc tây nam. Giữa có nửa mẫu vườn, Vườn ở bên Vân am. Xe ngưa bụi không đến, Hoa, trúc tay tự trồng. Gậy, dép bén mùi hoa, Chén, cốc ánh sắc hồng. Rửa nghiên, cá nuốt mực, Pha trà, chim lánh khói. Ngâm thơ thừa tiêu dao, Uống rượu thêm khoan khoái. Người xảo ta thì vụng, Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng người thì xảo. Ấy xảo thế mà gay! Tính suy lẽ trời đất, Nghiền ngẫm việc xưa nay: Đường đời rất ghập ghềnh, Chông gai cần phải cắt. Lòng người rất hiểm nghèo, Buông ra liền quái quắc. Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực.
Người dịch: Ngô Lập Chi |
1. Quán Trung Tân: do Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi về ở ẩn tại quê nhà, đã cùng các vị bô lão dựng lên, vừa là nơi "thắng địa" (vùng đất đẹp hơn cả), vừa là nơi nghỉ ngơi cho những người qua đường. Quán Trung Tân đã trở thành đê tài quen thuộc trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
| |
| | | | Nguyễn Bỉnh Khiêm | |
|
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |