Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Tiêu đề: Lưu Trọng Lư Thu Jul 19, 2012 3:55 pm
Lưu Trọng Lư (1912 - 1991)
Vài nét về tác giả:
Lưu Trọng Lư (19 tháng 6 năm 1912 – 10 tháng 8 năm 1991) là người làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Thuở nhỏ, ông học trường tỉnh, rồi học ở Huế (đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế) và Hà Nội. Sau đó, ông bỏ học đi dạy tư, làm văn và làm báo để kiếm sống.
Năm 1932, ông là một trong những nhà thơ khởi xướng và tích cực cổ vũ cho Phong trào Thơ mới.
Năm 1933-1934, ông chủ trương Ngân Sơn tùng thư ở Huế.
Năm 1941, ông và thơ ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia Văn hóa cứu quốc ở Huế. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV.
Sau 1954, ông công tác ở Bộ Văn hóa và làm Tổng Thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Năm 1957, ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
Năm 1991, Lưu Trọng Lư mất tại Hà Nội. Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000.
Tác phẩm:
Thơ
Tiếng thu (1939)
Tỏa sáng đôi bờ (1959)
Người con gái sông Gianh (1966)
Từ đất này (197l)
Sân khấu
Nữ diễn viên miền Nam (cải lương)
Cây thanh trà (cải lương)
Xuân Vỹ Dạ (kịch nói)
Anh Trỗi (kịch nói)
Hồng Gấm, tuổi hai mươi (kịch thơ,1973)
Văn xuôi
Người sơn nhân (truyện, 1933)
Chiếc cáng xanh (truyện, 1941)
Khói lam chiều (truyện, 194l)
Mùa thu lớn (tuỳ bút, hồi ký, 1978)
Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký, 1989)
Nguồn: internet
Vân Nhi Đại Ca
Tổng số bài gửi : 5654 Points : 5977 Thanks : 35 Join date : 04/11/2011 Đến từ : phan thiết
Ta còn thấy bóng kẻ thơ ngây, Xe chồn gối mỏi trở về đây, Trên đường hiu quạnh khách đau mỏi, Chán nản hung hăng nện gót giày; Ngàn liễu xanh xanh con cò trắng, Lạnh lẽo xa vời ủ rũ bay. Ta còn thấy bóng kẻ thơ ngây, Rẽ lau vạch suối tới am mây, Nắng trần chan chát, lòng trần héo, Mịt mù dặm cát một chòm cây, Dừng lại đây bóng im cửa Phật, Dừng lại trong làn khói biếc bay, Dừng lại đây là nơi hiu quạnh, Là nơi nghe thấy tiếng cỏ cây, Là nơi quên những mùi trần sự, Là nơi quên những nỗi chua cay.
Nghe thấy tiếng ngọt ngào cõi Phật, Rũ bụi trần, chàng dừng lại ngay Trước Phật đài, chàng lâm râm nguyện "Tình xưa theo gửi, nước, trời, mây!" Một hôm thiền định dưới gốc mai Bỗng thấy lòng vơi chốc lại đầy, Thẫn thờ tay lần tràng chuỗi hạt Mà như lần những hạt chua cay... Vì vừa nghe tiếng chuông chùa nện Lạnh lùng từng tiếng não bên tai, Lạnh lùng như người trong cung Quảng, Bâng khuâng chợt nhớ cảnh trần ai.
Giờ đây hoa hoang dại Bên sông rụng tơi bời Đã qua rồi cơn mộng, Đừng vỗ nữa, tình ơi! Lòng anh đã rời rụng Trên sông ngày tàn rơi. Tình anh đà xế bóng, Còn chi nữa, em ơi? Còn đâu ánh trăng vàng Mơ trên làn tóc rối ? Chân nâng trên đường sỏi, Sương lá đổ rộn ràng. Trăng nội vẫn mơ màng Trên những vòng tóc rối? Đêm ấy xuân vừa sang Em vừa hai mươi tuổi Còn đâu những giờ nhung lụa: Mộng trùm trên bông Tình ấp trong gối Rượu tân hôn không uống cũng say nồng?
Còn đâu mùi cỏ lạ Ướp trong mớ tóc mây? Một chút tình thơ ngây Không còn trên đôi má.
Lắng nghe tiếng hát chị đò đưa, Trong ánh trăng vời vợi... Tiếng hát lẳng lơ đưa, Làm xao động những làn da mát rợi. Tiếng hát lẳng lơ Một đoàn gái tơ Nằm mơ trên bờ cỏ nõn.
Một đoàn nai tung tăng đùa giỡn Theo điệu hát giòn ở cạnh sườn non...
Ai nghe tiếng hát chị đò đưa Mà không cảm thương người quả phụ Nằm ấp bóng trăng thưa Luồn qua song cửa sổ!
(Tặng Nguyễn và Hoàng, hai vị anh hùng của một ngày mưa gió)
Mời anh cạn hết chén này, Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn. Tiếng gà đã rộn trong thôn, Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay. Để lòng với rượu cùng say, Chừ đây lời nói chua cay lạ thường! Chừ đây đêm hãy đầy sương, Con thuyền còn buộc, trăng buông lạnh lùng! Chừ đây trăng nước não nùng, Chừ đây hoa cỏ bên sông rũ buồn.
Tiếng gà lại rộn trong thôn... Khoan đừng tơ tưởng vợ con ở nhà Giờ này còn của đôi ta, Giang hồ rượu ấy còn pha lệ người, Ô sao rượu chẳng kề môi, Lời đâu kiều diễm cho nguôi lòng chàng?
Tay em nâng chén hoàng hoa, Sá gì hớp rượu vì ta bận lòng. Hãy gượm lắng nghe dòng sông chảy, Gió đùa trăng trên bãi lạnh lùng. Sá gì hớp rượu, bận lòng, Đợi gì môi nhấp rượu nồng mới say? Hãy nhích lại đưa tay ta nắm Hãy buông ra đằm thắm nhìn nhau. Rồi trong những phút giây lâu, Mắt sầu gợn sóng, lòng đau rộn tình.
Phút giây ấy, ta mình ngây ngất, Bỗng con thuyền buộc chặt, rời cây. Cho ta khất chén rượu này, Vì ta em hãy lựa dây đoạn trường. Khoan để đốt chút hương trầm đã! Đợi trầm bay rộn rã lời ca ... Nghe xong ta ngắm lời xa, Dòng sông Ngân đã nhạt mờ từ lâu. Tiếng gà đã gáy mau trong xóm, Bình minh đà rạng khóm tre cồn.
Trông nàng môi nạt màu son, Giật mình ta nhớ vợ con ở nhà, Từ đấy chẳng bao giờ phiêu lãng, Niềm thê nhi ngày tháng quen dần. Đôi phen nhớ cảnh phong trần : Bóng nàng ẩn hiện xa gần đâu đây.
Tưởng nghe tiếng gọi nơi hồ hải, Mắt lệ mờ ta mải trông theo, Trong buồng bỗng tiếng con reo, Vội vàng khép cửa gió heo lạnh lùng.
Đêm ấy rượu nàng ta không uống, Từ sau thề không uống rượu ai. Đòi phen ngồi ngóng chân trời, Chẳng bao giờ nghĩ đến đời phiêu lưu. Ngoan ngoãn như con cừu non dại, Cỏ quanh vườn cắn mãi còn ngon. Sau lưng nghe tiếng cười dòn, Vội vàng ngoảnh lại ... thằng con vẫn cười. Nó đưa ta một chai rượu bé, Bảo rằng : "Đây, rượu mẹ dâng cha" Giật mình ta mới nhớ ra : Là ngày sinh nhật vợ ta đó mà!
Ta uống chẳng hoá ra lỗi hẹn, Mà từ nan đâu vẹn đạo chồng! Than ôi! trời giá đêm đông, Màu du tử thực bên lòng hết sôi? Chén lại chén kề môi thủ thỉ, Càng vơi càng tuý luý càng đầy!
Lúc tỉnh rượu lặng ngồi bên án, Trông vào gương, lằn trán có vôi ; Vợ con khúc khích đừng cười, Còn ta vô ý lệ rơi xuống bàn, Hết say vẫn bàng hoàng trong mộng Xót xa thay cái giống giang hồ! Ngón đàn thêm một đưòng tơ, Mà người sương gió nghìn thu nhọc nhằn,
Thôi rồi ra chốn nước non, Lồng son lại để sổ con chim trời.
Thú hồ bể quyến mời du tử, Niềm thê nhi khôn giữ được người. Biết sao trái được tính trời, Giang hồ cốt ấy, trọn đời phiêu linh ...
Hôm nay ngồi rũ canh trường, Nơi thuyền trọ, rượu quỳnh tương ai mời Người dâng rượu xa nơi trần giới, Lạnh lùng thay gió thổi đêm đông! Tuy người đã khuất non sông, Mặt hoa lãng đãng như lồng dưới trăng Mường tượng thấy tung tăng cười nói, Như tưởng chừng người mới hôm qua! ... Nào hay nghìn cổ cách xa, Tài tình đến thế mà ra hão huyền! Họa còn chút trong thuyền dấu cũ, Cây đàn tranh mốc ủ trên phên, Phím long, dây đã rỉ rền, Còn nguyên trên gỗ ghi tên họ người. Nàng xưa vốn một loài trăng gió Cũng vì vương víu nợ cầm ca Một đi lìa cửa lìa nhà, Nắm xương tàn lạnh phương xa gửi nhờ.
Đêm nay hoạ có mình ta, Đốt hương trầm cũ chờ ma dạo đàn.
Ta là nàng Ly Dao Ngồi bến Hoa Giang, khóc trăng sầu, Đếm giọt sương gieo, Lắng nghe rĩ rầu giọng dế, Trời đất quạnh hiu, Một mình ta tuôn thắm dòng lệ... Gỡ mối sầu, ta sẽ lựa mấy đường tơ. Ngọn lửa chài, con sông trắng, Bóng sao mờ lấp láy, Hồn nghệ sĩ lạnh lùng tê tái, Ngón cầm giăng tơ phiếm lung lay, Khi lâm li, khi dồn vồ vập, Khi gieo nặng, khi cao bay... Rồi một kiếp khóc mướn Thương vay cho thiên hạ. Cảnh đêm khuya trời giá, Lạnh lùng thấy một bóng Ly Dao Ngồi bến Hoa Giang khóc trăng sầu.
Hôm nay dạ lại bần thần Nhìn đám mây chiều lại nhớ Vân.
Này mây hỡi! Mây chiều hỡi! Dừng lại đây, chờ ta với. Theo dấu chim xanh Rẽ lối trời tình. Cậy cùng làn gió Tìm nơi Vân ở; Vượt mấy rừng cây, Bay qua chùa Thầy, Đến nơi thôn nhỏ, Ngừng bên cửa sổ Chờ lúc nàng vén mành thưa; Ngang trời ta đổ trận mưa.
Tình em như tuyết vương chân ngựa Hoặc có vừng trăng muôn dặm soi Đã lâu anh không đến vườn em nữa! Các lối đi, gai cỏ mọc đầy, Chim không hạ cánh, Lá rụng không buồn bay, Những chiều thu em không buồn tựa cửa. Hoa em đầy giậu, bóng anh tuyệt vời Cỏ em đầy vườn, ngựa anh không tới Đã lâu ngày, ngõ ùn: lá bàng rơi, Đón ai vào mà ngõ kia em phải xới? Hôm nào đây, bầy chim con ngần trắng Biết tự quãng nào, trong chốn rừng xanh Bay về đây - trên cành xoan, im lặng Không con nào mách hộ bóng tin anh!
Mưa hoài mưa mãi! Lòng biết tìm ai, Cảnh, tưởng đầy nơi quan tái.
Lưu Trọng Lư (Tiếng thu, 1939) * Bài thơ này Báo điện tử Trung Quốc (http://yuenan.8.Forumer.com), ngày 24-2-2005, đã chọn đăng (song ngữ Hán văn và Việt văn) của nhà thơ Việt Nam Lưu Trọng Lư, qua bản dịch của giáo sư Lư Uý Thu, Khoa Văn học ngôn ngữ phương Đông, Trường Đại học Bắc Kinh, là một trong hai dịch giả tiếng Việt ưu tú của Trung Quốc.
Từ đấy vào rừng sâu Chẳng còn thấy bồ câu, Đến trên vai nàng đậu Nàng ngày một thêm sầu.
Sáu đảo đến ba châu Nàng chẳng thấy chim đâu! Một hôm lạc trần giới Chiều sớm đứng bên cầu.
Gặp ai qua, nàng hỏi; - Kìa ngài! Chim tôi đâu? Khách trần gian đều nói: - Tìm chim vào rừng sâu.
Bữa nọ một thi nhân Thấy hay hay đến gần: "Muốn được những bồ câu Cho ta đôi mắt sầu Nàng sẽ về với ta Đủ hai năm sáu tháng, Những con bồ câu trắng Sẽ đến đầy sân nhà".
Ngọt giọng, nàng nghe theo, Cùng nhau tách xuống đèo Về trong túp lều cỏ Đầu giường: mảnh trăng treo.
Những con bồ câu Từ đâu bay tới Với điệu thơ sầu Giục niềm ân ái.
Ngày một rồi ngày hai Mảnh trăng treo cửa sổ. Đã quen mùi rơm cỏ Nàng nguyện với nghèo vui.
Trọn đời tơ tóc Gối tay cười khóc, Nàng chẳng về tiên Nơi không khổ ải Nơi chẳng liên miên Trong niềm ân ái!
Một đêm mưa gió rộn ràng Vô tình ta đã bên giường Quí Phi. Phi chợt tỉnh :"Đi từ đâu lại? Mới ở đây hoặc tới từ lâu?"
Rằng:"Đi từ độ vào thu, Gió thu về chậm, cuộc thu trễ tràng. Em: sứ giả Minh Hoàng người cũ, Chốn ngọc cung mái phủ sầu che; Tình đi: ngấn để lụa the Tình đi, đi mãi không về, tình không".
Nghe ta nói động lòng sùi sụt Nửa vạt sầu che vội mặt hoa, Thẫn thờ Phi ngắm rừng xa Mà khi ngoảnh lại thì ta không còn.
Là chim sứ giả Em bay từ bể cả đến ngàn sâu, Bay khắp sáu đảo ba châu Tìm hoa cho gió, đón sầu cho thơ.
Tiếng cánh vỗ trong giờ li biệt Nghe vội vàng bi thiết bao nhiêu; Lang thang núi bạc mây chiều Lao xao cánh nhạn mây chiều đập sương...